Nếu có lần phải viết về quê hương, những điều Xuân biết chắc chẳng hơn gì ngoài những lời mẹ Xuân kể lại.
Những
đêm sáng trăng, khi chị Duyên đang mải thu mâm, bóng trăng tròn đỏ âm
thầm lên trên ngọn tre bên làng xa, mẹ lại dẫn Xuân ra ngồi dưới giàn
thiên lý, trên chiếc ghế đá vừa thấm lạnh hơi đêm. Xuân ngồi cạnh mẹ,
đưa mắt nhìn trăng qua cành lá, gió nhẹ thổi rung rinh. Trong cơn gió
như còn vương vấn hơi nước của dòng sông chảy thật xa và hương thơm dìu
dịu của hoa thiên lý. Những chùm hoa trắng nhỏ buổi sáng nở êm đềm. Một
mùi thơm trinh khiết phảng phất trong gió nhẹ, tỏa bao la trong trời đêm
rất mong manh nhưng cũng thật là quyến luyến, bền chặt. Trăng vừa lên
cao, giàn hoa thiên lý ngờm ngợp trong ánh sáng huyền ảo, gió xa thổi về
làm giao động màu trăng cành lá. Mẹ lại bắt đầu kể chuyện, bao giờ cũng
chỉ là chuyện quê hương của mẹ.
Từ
ngày rời bỏ nhà xưa, lên sống nhờ nhà một người bà con, mẹ ít khi còn
kể chuyện cổ tích cho Xuân nghe. Nhớ thương chan chứa trong lòng, mẹ cần
phải thổ lộ với con cho nhẹ bớt tâm sự của một kẻ lìa xa quê cũ.
Phải
rời bỏ quê hương, sống ở một thành phố nhỏ, mẹ bao giờ cũng mang mang
trong lòng sự tiếc nhớ không nguôi: mái rạ tiêu điều, lối ngõ mòn xơ
xác, lá tre và nhất là chiếc cổng gạch lâu đã bao đời ngun ngút màu rêu.
Tất cả đối với mẹ đều là những hình ảnh yêu dấu. Xa quê mẹ buồn ghê
lắm. Nhưng tình thế đưa đẩy không thể nào sống được trong cảnh bom đạn
đe dọa bên mình. Có những đêm, giặc về khủng bố xóm bên kia sông, lửa
bốc lên hừng hực, đỏ rực cả một phía chân trời. Nửa đêm mẹ Xuân đã phải
bồng bế mấy đứa con dại chạy sang một làng tương đối yên ổn. Rồi sáng
hôm sau, xóm làng dần thưa tiếng súng, mẹ con lại dắt díu nhau về. Qua
một đêm, nhà cũ bao giờ cũng có sự đổi thay. Hôm thì lũy tre bên ngõ bị
bật rễ văng đi một quãng xa, hôm thì cây bàng già trước cổng bị trốc gốc
nằm ngáng giữa đường. Cảnh nhà cũ không còn êm ấm nữa, những hố xoáy
sâu hoắm trong vườn, những cảnh hoang tàn của bom đạn đã bắt buộc mẹ
phải từ bỏ quê hương dù còn nhiều nuối tiếc, luyến lưu. Đó là lần đi xa
đầu tiên trong đời mẹ, kể cả khi lấy chồng mẹ cũng chẳng rời bỏ mảnh đất
thân yêu. Cha Xuân, như một cánh chim trời phiêu bạt chẳng bao giờ ông
chịu ở nhà lâu. Dù sống với gia đình ấm cúng, hình như cha Xuân vẫn cảm
thấy bứt rứt không yên. Buổi chiều ông dẫn chị em Xuân ra bờ đê hóng
mát. Gió sông lồng lộng thổi. Đi bên hàng nhãn lá dầy xào xạc, nhìn ra
dòng sông trước mặt bao la và bóng chiều hiu hắt, những con chim nhạn
vẫn tung cánh bay êm, mộng hải hồ chợt sôi sục trong lòng, ông lại lặng
lẽ dẫn Xuân về. Những lần đi chơi như thế thật nhiều nhưng Xuân không
thể nào nhớ hết. Xuân chỉ nhớ có một lần khi trèo lên đê, bờ cỏ may xanh
mượt làm ông trượt chân, Xuân bị mất thăng bằng ngã sóng soài trên mặt
cỏ. Thân cỏ non mềm mát nên ngã chẳng đau gì, Xuân cũng vờ khóc để được
cha bế lên và vỗ nựng trong lòng, ông chê Xuân là con trai mà hay nhè và
nhát như thỏ đế. Chiều hôm ấy cha bế Xuân đi dạo mãi tối mịt mới về.
Sóng lớn vỗ dào dạt dưới bãi, gió sông đêm thổi lạnh buốt da thịt. Xuân
rúc đầu vào ngực cha và ngủ thiếp đi trong hơi ấm êm đềm. Sáng sau khi
Xuân dậy thì mẹ bảo cha đã đi rồi, mẹ buồn và làm việc nhiều hơn những
ngày chồng còn ở nhà. Chiều chiều bà cũng dẫn chị em Xuân ra bờ đê ngồi
dưới hàng nhãn gầy, Gió sông thổi rối bời mái tóc. Mẹ nhìn những cánh
nhạn chao bay giữa dòng để nhớ đến hình ảnh người chồng sương gió miền
xa.
Buổi
chiều trước ngày ra đi, mẹ cũng dẫn Xuân ra ngồi ngoài bờ đê, mắt nhìn
bâng khuâng về cuối chân trời, mơ mộng một hình ảnh nào rất xa xôi trở
về mong manh như sương mù lan nhẹ ngoài xa. Bầy nhạn nhỏ vẫn thả cánh
trên sông chiều lộng gió. Chim trời chưa mỏi cánh, biết bao giờ cha mới
trở về. Mẹ mỏi mắt trông đợi. Chiều chậm xuống, gió đêm xoáy buốt da
thịt và tê tái tâm hồn. Nghĩ đến ngày mai phải ra đi, chồng vẫn không
về, mẹ ôm Xuân vào lòng khóc nức nở. Xuân chẳng biết lúc đó mình có khóc
không? Xuân chỉ nhớ khi về cảm thấy tóc mình ẩm ướt, không rõ vì nước
mắt mẹ hay đêm về sương xuống quá mau. Buổi sáng mẹ dậy sớm nấu cơm rồi
bó bằng mo cau thật chặt mang đi ăn dọc đường. Xuân cũng dậy sớm hơn mọi
ngày. Ngồi trong giường Xuân thấy mẹ lang thang trong vườn, có lẽ mẹ đi
giã từ những cảnh vật yêu dấu của mẹ, mà linh cảm cho mẹ biết rằng có
lẽ đây là lần sau chót trong đời. Từ hàng cau già lá rủ xác xơ, hàng
nhãn gầy bên ngõ, đến từng luống khoai, từng mảnh rạ trong vườn... Đâu
đâu cũng là kỷ niệm làm cho mẹ xúc động và tiếc đến ngẩn ngơ. Mẹ dìu chị
Duyên ra ao. Xuân thoáng nghe tiếng vỗ nước thật nhẹ, chắc mẹ và chị
đang rửa chân ngoài cầu ao trơn rêu.Sương sáng xuống nhiều và lạnh,
trăng lưỡi liềm nằm mờ ảo trên ngọn tre. Khi mẹ và chị Duyên vào, trên
khuôn mặt mẹ chẳng biết nước ao mẹ vốc rửa mặt hay nước mắt đầm đìa.
Thấy Xuân đã dậy, mẹ bảo Xuân còn sớm nằm xuống ngủ rồi trời sáng còn
phải đi xa.
Tháng
ngày chạy loạn lang thang nhiều nhọc nhằn gian khổ. Vất vả và lo nghĩ
làm mẹ gầy xọp đi, mái tóc mẹ bắt đầu chớm hoa râm. Lớn lên, có bao giờ
nhớ đến hình ảnh nào sương gió nhất trong đời, Xuân lại nghĩ đến khuôn
mặt đau thương của mẹ: hai má hóp vào, cặp mắt quầng tím vì những lần
thức trắng đêm, âm thầm khóc nhớ về nhà cũ và người chồng đi biệt trong
thời loạn ly. Chiếc khăn voan mẹ quấn trên đầu bạc phếch vì mưa nắng và
gió bụi chiến tranh. Rồi một hôm bơ vơ chẳng biết về đâu, mẹ dẫn chị em
Xuân đến ở nhờ nhà một người bác họ ở ngoại ô một tỉnh nhỏ buồn. Ngôi
nhà có vườn và một giàn hoa lý, qua con đường trải đá là một cánh đồng
rộng, xa là làng nhỏ nằm yên lành bên dòng sông dài Xuân chả biết tên. Ở
đó, ngày ngày mẹ phải quẩy gánh đi bán hàng rong tận trong thành phố.
Đi từ sáng sớm, chạng vạng tối mẹ mới trở về. Ở nhà, Xuân buồn nên đi
chơi lang thang cả ngày. Nhưng mỗi chiều, Xuân vẫn nhớ trở về và đứng
đón mẹ ngoài đầu con phố hẹp. Gió đồng thổi vào lành lạnh. Mẹ lại dẫn
Xuân về trên con đường đá dăm xào xạo dưới chân. Lần nào cũng thế, dù
hàng bán ế hay chạy mẹ cũng không quên mua cho Xuân một gói bánh nho nhỏ
và dặn Xuân nhớ để dành cho chị Duyên, phải ở nhà trông coi mấy đứa con
của bác. Mẹ thương con và tủi thân, nhưng chẳng biết về đâu nên nhiều
khi chị em Xuân có bị thiệt thòi mẹ cũng chẳng bao giờ muốn nói. Những
đêm trăng, dù ban ngày phải đi bán hàng vất vả, mẹ cũng không quên dẫn
Xuân ra ngồi dưới giàn hoa lý và kể chuyện quê hương. Gió sông đêm thổi
về dạt dào như nỗi nhớ nhà của mẹ. Xuân lại đem những chiếc bánh còn lại
buổi chiều ra ăn. Khi trăng lên cao, sương xuống dầy loáng ướt cả giàn
lá trên đầu, Xuân thiu thiu ngủ và lần nào mẹ cũng phải bế Xuân vào.
Những
buổi sáng dậy muộn, chị Duyên đã đi chợ và mẹ đi bán hàng từ sớm. Căn
buồng nhỏ trống trải ngập màu nắng sáng. Ngoài khung cửa sổ, trên cây
hoàng lan, những mảnh nắng mềm chảy mát trong bụi lá xanh. Đôi chim
khuyên nhỏ màu mỡ hót rất líu lo. Những tối nghe chuyện mẹ kể, buổi sáng
nghe chim khuyên hót, Xuân đã cho là hạnh phúc nhất đời và chẳng dám
ước mơ gì hơn nữa. Hồi đó với tâm trí thảnh thơi, mơ ước của Xuân cũng
thật nhỏ nhoi giản dị. Nhưng sáng nào trở dậy, nhìn cây hoàng lan nắng
xanh màu lá, đôi chim khuyên nhảy rất nhí nhảnh trên cành và hót mải mê,
Xuân đã quên hết những ngày tủi nhục: ăn cơm trộn với nước dưa khú hay
nước rau muống luộc hôi nồng mùi đất và bỗng chốc thấy đời mình trở
thành thần tiên lạ lùng. Tâm hồn chới với, một thoáng như muốn bay cao.
Rồi lớn lên, hoàn cảnh tủi nhục và những niềm vui nhẹ hồn nhiên đó không
bao giờ trở lại trong đời Xuân nữa. Vì một ngày nào Xuân không nhớ rõ,
cha đã trở về. Ngày từ bỏ miền ngoại ô tỉnh nhỏ theo cha mẹ vào Nam, xa
ngôi nhà trọ Xuân chỉ nhớ đến giàn hoa lý mỗi đêm trăng, Khu phố không
tên yên tĩnh và nhất là những buổi sáng đôi chim khuyên ríu rít trong
bụi lá xanh. Xuân nhớ quê hương, nhớ con đường làng mờ dấu chân trâu, bờ
đê xanh những chiều lộng gió... tất cả chỉ là những hình ảnh mơ hồ, mà
khi nghĩ đến thoáng gây cho Xuân một sự xúc động len nhẹ trong lòng,
cũng như những lần chợt ngửi thấy hương hoa lý thoảng nhẹ trong đêm.
Nhưng nếu một lần được nghe chim khuyên hót vu vơ, cũng đủ gợi lại cho
Xuân một thời thơ ấu lầm than.
Nhiều
lần khi nhớ về quê hương, nhớ về một thời niên thiếu xa xưa, Xuân đã
nghĩ rằng tiếng chim xưa cũng như thời thơ ấu của chàng chỉ một lần qua
đi rồi chẳng bao giờ trở lại. Xuân muốn mang tâm trạng của người xa
trường cũ, còn được nghe tiếng ve rả rích trong chiều, còn được nhìn màu
hoa phượng đỏ hay mái ngói cũ rêu để thấy trong lòng rạo rực nhớ đến
thời cắp sách thần tiên. Xuân cũng muốn như cha chàng, chỉ cần một cảm
giác của cỏ gianh sắc cạnh cứa vào da thịt, cũng đủ làm cho ông bồi hồi
nhớ đến quê hương và một thời ngang dọc trên núi đồi cao nguyên miền
bắc. Xuân vẫn hy vọng một sáng nào thức dậy, chợt nghe tiếng chim khuyên
hót bên ngoài – dù chỉ một lần – Rồi cả thời ấu thơ sẽ hiện về rõ ràng trong tâm trí và ngậm ngùi nhớ đến quê xa.
VŨ TƯƠNG NHƯ
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 68, ra ngày 1-5-1967)
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.