Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2024

BÉ VÀ MÙA HẠ - Nguyễn Trường Anh

 
 
 Bé có một mùa để nhớ nhung
Một mùa thả lá khắp rừng thông
Theo trăng mở cửa đời thơ ấu
Vạt nắng phai mờ những khóm bông.

Bé để mùa sương đọng mắt nai
Mùa hoa phượng thắm lối chim bay
Cho vuông cỏ biếc ngời gương nắng
Môi bé ướp hồng trong sớm mai.

Bé giữ riêng đời một lối đi
Nơi đây hoa nắng giải vào hè
Những con chim ghé trong mùa gió
Tắm mát màu xanh những ngõ về.

Bé biết rằng mai khắp bóng chim
Nhìn nhau giây phút rất thân quen
Và đi mưa nắng buồn lên mắt
Giữ lại cho gì kỷ niệm êm.

Bé hát cho đời những khúc ca
Lời như sương thắm đọng vườn hoa
Tiếng trong ly biệt tình lưu luyến
Đời dạt thềm rêu tuổi ngọc ngà.

Bé lặng nhìn khuôn mặt người quen
Hạ đem thương nhớ chảy qua thềm
Chở mưa xao xác trong chiều vắng
Chờ một người đi thoáng ngập ngừng.

Bé ngỡ ngày xanh vợi mắt hồng
Chiều phai mây trải nhẹ qua lòng
Trên dòng tóc ngập hồn phượng đỏ
Dẫu có buồn dưng đến bâng khuâng.

Bé có một mùa để nhớ mong
Một mùa phượng vĩ để hoài trông
Mùa ve hát những sầu ca khúc
Đời ngát xanh mùa hoa hướng dương.

                               NGUYỄN TRƯỜNG ANH

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 90, ra ngày 20-5-1973)



Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2024

EM TÔI, EM TÔI - Vũ Minh Thiều dịch

 

Truyện ngắn sau đây của Norah Burke, một văn sĩ Anh, được giải nhất về truyện ngắn quốc tế năm 1954-1955 đồng hạng với truyện "MẸ VÀ CON" của văn sĩ Nhật Jiran Hisao.

Truyện tả một cảnh nghèo khó của một gia đình ở một xứ hậu tiến, nền y học mới chưa thấm nhuần đến các vùng thôn dã rừng núi, ở đây ốm đau thường chỉ chữa bằng những phương pháp sơ sài, cổ lỗ. Trong truyện ngắn EM TÔI, EM TÔI, Norah  Burke làm nổi bật lòng can đảm, sự yêu thương đứa em nhỏ của một thằng bé 12 tuổi, vượt núi băng rừng, tranh đấu với tử thần từng giây phút để cứu em.

Em thằng Sinh nằm trong lều. Nó đau bụng và cơn đau mỗi lúc mỗi tăng. Thằng Sinh cũng còn nhỏ, chưa đầy 12 tuổi. Màu da nâu nâu, tính tình thì thật vui. Nó quả là một thằng bé tiêu biểu cho bọn trẻ sống trong rừng rậm. Em nó kém nó nhiều tuổi. Giữa hai chúng nó, cố nhiên còn những đứa khác nữa, nhưng chúng đều chết cả, đứa chết vì bệnh tả, đứa chết vì bệnh cúm, và trăm ngàn thứ bệnh tương tự, hoặc chết vì các tai nạn trong rừng sâu. Cha mẹ nó chỉ còn nó và em nó, thằng Công-hoa.

Mẹ hai đứa trẻ nói:

- Để tao thấm nước giẻ rách, chườm bụng cho Công-hoa.

Nàng không cười, không khóc, Những việc này vẫn thưởng xảy ra luôn...

Sinh hỏi mẹ, cảm thấy mình cũng ốm lây vì lo sợ em ốm:

- Con phải làm gì bây giờ? Con đi tìm củi đốt lửa nhé? Con đi lấy phân bò hay xách nước? Mẹ để con xé giẻ.

Nó cuống cuồng chạy tìm mọi thứ.

Nó ném nhiều củi vào lò cho nước chóng sôi. Nó chườm bụng thằng em bằng những giẻ, hơi nóng bốc nghi ngút. Nhưng một lúc sau, mẹ nó bảo:

- Thôi, phải đem em mày đi nhà thương Ka-la-gát.

Thằng Sinh hiểu ngay rằng em nó sắp chết. Khi mẹ nó nói hai chữ "nhà thương", nó hiểu ngay, vì tất cả những người sống trong rừng rậm đều biết rằng nhà thương là hy vọng cuối cùng cho những kẻ gần đất xa trời. Có vật gì làm nó nghẹn ngào không nói được. Sau nó kêu lên:

- Con đi tìm bố nhé!

- Mày sẽ mất hàng mấy ngày mới tìm được.

Cha thằng Sinh nổi tiếng trong vùng là người can đảm. Hai chữ can đảm người ta thường gọi liền với tên chàng chứng tỏ những thành tích của chàng. Chàng sinh sống ở đây, trong làng La-hoa-ni, chăn nuôi mục súc, cầy cấy khoảng đất của mình, nhưng mỗi khi có cuộc thám hiểm trong rừng rậm, săn thú dữ, bắn giết hay chụp con ác thú nào, người ta lại tìm đến chàng.

Ở rừng núi nào không có hổ, chàng cũng tìm ra hổ. Chàng nhìn đám cỏ khô và chỉ dẫn rõ ràng cho biết đã có những con thú nào qua đây. Chàng lắng nghe tiếng thú gọi nhau và nói: "Một con báo vừa ăn một con hoẵng và bọn này còn trông thấy kẻ thù với mồi của nó".

Một cái sẹo dài chạy suốt từ đầu, cổ đến vai chàng. Đó là vết cào của một con hổ, cào đến tận xương, trong một buổi chàng vật lộn với mãnh thú để cứu bạn. Ở chân chàng có một vết đốt còn sẫm đen, đó là vết rắn cắn, chàng đã khoét vết thương và đốt. Một bàn tay chàng thiếu hai ngón và mặt thì chằng chịt những sẹo. Có một ngày kia, chàng đã vượt rừng rậm, đi liền tám cây số, lấy khố buộc chặt bụng để ruột khỏi sổ ra ngoài vì vết thương sâu ở bụng. Chàng thật xứng đáng là người can đảm. Và nay, chàng đang ở xa, trong rừng thẳm với một đoàn thám hiểm đi chụp hình. Những bọn đàn ông và trai tráng trong làng cũng đều vào rừng sâu làm nghề lùa thú cho đoàn người săn bắn.

Trong túp lều cỏ, tường đất, thằng Công-hoa nằm trên một đệm cỏ giải trên mặt đất. Nó khóc, thỉnh thoảng lại bật ho vì khói bếp, nhưng vẫn không cựa quậy, người giá lạnh. 

Thằng Sinh cũng can đảm như bố, nhìn em mà như trông thấy tử thần ở trong cặp mắt em.

Nó nói:

- Ở làng, trai tráng không còn ai, vậy con dẫn nó đi.

Mẹ nó phải ở nhà chăn nuôi súc vật, cầy cấy, nếu không cả nhà sẽ chết đói và cả hai đều hiểu thế, không cần phải nói ra. Nhưng nàng là một người sinh trưởng ở rừng núi, nàng hiểu đeo một gánh nặng khó nhọc thế nào. Nàng sinh sống ở trên đỉnh núi cao, ở phía bên kia, ở mãi trên cao, cao hơn hẳn những dãy đồi thấp bao bọc làng La-hoa-ni và nàng hiểu hơn ai hết cách buộc một tấm vải qua trán để đeo một vật nặng, buộc thế nào để tất cả các bắp thịt cổ và vai có thể làm việc một cách đắc lực, làm cho người ta có thể mang nặng mà băng rừng vượt núi hàng ngày không than phiền khó nhọc.

Nàng lấy một trong hai chiếc dây lưng của nàng, chằng qua trán và cổ thằng Sinh, rồi đỡ thằng Công-hoa, lúc này đau đớn quá, người gập làm hai, đặt vào chiếc dây lưng.

Thằng Sinh cảm thấy ngay sức nóng thiêu đốt của em thấm qua chiếc dây lưng vải. Nó cảm thấy nặng và tự hỏi không biết sẽ xoay sở ra sao để đến nơi được.

Mẹ nó nói:

- Con cõng em nặng lắm sao?

Nàng nói khẽ, vẻ thất vọng:

- Con sẽ không thể đến nơi được.

Thằng Sinh không nói gì và bắt đầu lên đường.

*

Lúc đó là buổi chiều. Những lều tranh trong làng La-hoa-ni đều nhuộm một màu vàng đỏ. Chung quanh làng giải dài những thửa đất cầy cấy, những cánh đồng cỏ người làng thả mục súc ra ăn, những hàng rào gai và khu đất rào nhốt mục súc. Rồi cạnh đấy, có một cánh đồng cỏ rộng, người ta đã đốt cháy để bảo vệ cho làng khỏi bị cháy lây vì những cuộc đốt rừng. Xa xa là rừng rậm.

Thoạt đầu là rừng hoang, cỏ cứng rắn và gai, rồi đến rừng cây "sên" cao lớn, người ta vẫn lấy gỗ làm tà-vẹt đường rầy con đường xe lửa Ka-la-gát. Con đường xe lửa cách đây ít nhất gần tám mươi cây số ngàn và thằng Sinh hy vọng vượt khu rừng rậm và hai con sông để sau đó đến đoạn cuối có thể đi xe bò hoặc một chiếc xe cam-nhông cũ kỹ nào.

Nhưng nó chưa đến khúc đường đó. Ở đây, con đường chi chít những vết bánh xe bò và chân nó đi bám đầy bụi cát. Nó đi, một mình trong đêm tối trên con đường mòn xuyên qua rừng sâu. Nhưng thật ra cũng không phải có một mình nó. Vốn quen sống trong rừng, nó cảm thấy mỗi bước một ngại ngùng. Giữa lúc ấy, một con rắn hổ mang sưởi mình dưới ánh nắng cuối ngày ở trên con đường mòn nhỏ, cuộn mình lại và vươn đầu lên, rít lên một tiếng mạnh. Thằng Sinh sợ lạnh cả người. Nó đứng dừng lại, rồi dần dần nó lùi. Con rắn đưa đầu đi đưa đầu lại chăm chú nhìn nó, lưỡi thè ra thụt vào. Nhưng con rắn vẩy đẹp kia với hàm răng chứa toàn chất độc, cũng chỉ muốn rời nơi này như thằng bé vậy. Và thoắt một cái, con vật đã biến vào bụi cỏ rậm.

Thằng Sinh thở nhẹ nhàng. Sự sợ hãi trói buộc hai chân nó lại, nay đã cởi mở cho nó đi. Em nó, thằng Công-hoa cựa quậy và rên rỉ trên lưng nó, nay nó cảm thấy đeo nặng quá. Nếu được nghỉ, để cho bắp thịt được thoải mái một chút sau khi cố gắng quá nhiều, còn gì sung sướng bằng! Nhưng nghỉ bây giờ thì sớm quá, nó lại gắng gượng đi.

Xung quanh nó là rừng già, ở đây giữa cây cối và vạn vật, cuộc chiến đấu vẫn tiếp diễn không ngừng từ thủa khai thiên lập địa. Những bụi tre xanh tốt tua tủa đâm những cành non, những cụm xương rồng gai góc gắng tìm không khí. Đâu đâu cũng là cây cối, bụi rậm, dây leo và cỏ hoang.

Rừng còn là nơi trú ẩn của súc vật và chim muông: vượn và khỉ giọng khàn khàn kêu inh ỏi, hổ, báo, gấu, voi gầm vang động. Hươu nai vì bị săn bắn và đánh bẫy nhiều nay thưa vắng, nên các loài ác thú nay săn bắt cả người và gia súc.

Màn đêm dần dần bao phủ núi rừng. Trời ngả màu tím và đen sẫm. Trên nền trời, sao bắt đầu mọc. Thằng Sinh có cặp mắt tinh sáng, nên vẫn trông rõ đường đi. Sau mặt trăng ló lên. Những vết chân gấu, bàn chân trước vuông, bàn chân sau dài, còn in trên cát bụi, với những vết móng chằng chị, làm nó sợ hãi vô ngần. Có bận nó đã trông thấy một người bị gấu vồ, mặt bị cào sứt hết.

Nó vội vã đi.

Nó đến một mỏm núi cao, dưới có con sông nhỏ chẩy. Nó thấy không sao bước được nữa. Mồ hôi đổ ướt thấm hết áo quần làm nó run lẩy bẩy. Nó cởi chiếc băng vải trên trán và khẽ đặt em nó xuống một gốc cây.

- Ôi! Ôi! Ôi! - Công-hoa khẽ rên.

Sinh khóc và bảo em:

- Anh còn biết làm thế nào? 

Nhưng ngay lúc đó, Công-hoa lại mê man, nói lảm nhàm. Bỗng Sinh thấy người đau đớn vô hạn, vì nghỉ chân các bắp thịt mới tê buốt lạ lùng. Ngay ở chỗ thắt buộc băng vải, máu nay lại chẩy đều hòa làm nó nhức buốt quá. Nó nằm ngủ dưới gốc cây, mắt nhắm lại để lấy sức.

Ngay lúc đó, nó lại nghe thấy tiếng voi rít trong rừng sâu vang động lại. Voi ít khi qua rừng không gầm thét và đàn voi nay ngược giòng con sông Nu-lát để tìm các cánh đồng cỏ mới. Thằng Sinh khoan khoái vì biết mình xa lạch nước và ở trên đỉnh núi.

Dưới chân nó, con sông lóng lánh như bạc dưới ánh trăng. Ở hai bờ sông, những bãi cát lẫn đá sỏi giải dài. Còn những giải cát dài chạy theo con sông và trên giải cát đó, đàn voi đi, để lại những vết chân xáo trộn, vết này với vết khác, lúc voi đi tưởng như cả một khu rừng di chuyển.

Thằng Sinh nhìn thấy những con voi cái và voi con và một con voi đực già, bọt mép màu xám như dầu chẩy trên gò má, báo hiệu rằng lúc này nó sẵn sàng săn đuổi người để quật chết ngay. Tai chúng đập mạnh, đuôi ve vẩy, bóng chúng in hình đen trên bãi cát trắng. Chúng đi gần thằng Sinh quá, thằng bé ngửi thấy cả mùi hôi của đàn voi, nghe thấy rõ ràng tiếng chân voi dẫm trên cát và tiếng chúng đi cọ vào nhau.

Nó nhìn thấy cả đàn voi lắc lư, những cái đầu to kếch sù đưa đi đưa lại, và những cái lưng lớn đen. Con voi đực nghếch vòi lên để hít gió xem gió có đưa lại mùi gì khác lạ không. Rồi nó bỗng ngập ngừng đứng lại. Cái vòi lớn gần đụng vào hai đứa trẻ. Thằng Sinh run lật bật. Đeo thằng Công-hoa lên lưng, nó cũng không thể chạy mà cũng không sao leo cây được. Nếu nó thét lên, chỉ làm cho xẩy ra tai họa ngay. Nó cầu khẩn, cầu khẩn mãi, nhưng chẳng khác gì đàn chim, những bài kinh đều bay ở đầu óc hãi hùng của nó đi mất cả.

Con voi đực rống lên, vòi đảo lộn, lắc lư đầu. Rồi bỗng như tức giận, nó chạy và cả đàn voi đều chạy theo biến mất trong bóng tối.

Thằng Sinh vẫn lẩm bẩm cầu kinh, nhưng lần này cầu bài kinh giải tội và nó sửa soạn lên đường ngay. Nó buộc giải vải và đỡ em nó lên, nhưng không sao đứng lên được. Nó cố hết sức nhưng vô ích. Bỗng nó lại nghe tiếng voi rống ở xa vọng lại, một sức mạnh ở đâu làm nó chệnh choạng đứng dậy và bước đi. Nó ngả nghiêng đi đến bờ sông.

Trước kia, nó thường đến đây và biết rằng về mùa này, trước khi tuyết tan ở đỉnh đồi, trước khi nước ở trên mỏm cao chẩy xiết xuống vực, lội qua sông thật dễ dàng. Lòng sông rộng nhưng nông. Lắng nghe nước chẩy trên đá sỏi cũng biết mực nước sâu nông. Nó nhìn thấy một con cá hương từ cao trôi tuột xuống vực, lóng lánh như bạc dưới ánh trăng.

Thằng Sinh lội xuống giòng sông. Nước lạnh hơn thường nhật, trên mặt nước có phủ một màng nước lạnh buốt như đá và giữa giòng mực nước cao hơn mọi khi. Nó phải lội từ từ vì mắc bùn lầy và đá sỏi. Nó phải dò dẫm vì sợ ngã. Nước ngập đến ngực nó, có lẽ tuyết đã tan và nước chẩy từ trên cao xuống chăng?

May mắn có một chiếc cầu trên con sông thứ hai, nó nghĩ thế và tưởng như nhìn thấy vì trí tưởng tượng của nó tiến nhanh hơn là nó đi. Đó là một chiếc cầu bắc sơ sài, nhưng vẫn là một chiếc cầu. Những vòng bằng tre đan, trong có đá đường chằng buộc kỹ thay thế những cột cầu. Giữa những cột đó, có bắc những cây tre buộc khít với nhau bằng những sợi cỏ dầy, rồi trên sàn tre có giải đá sỏi vớt ở lòng sông lên.

*

Khi thằng Sinh lội tới bờ, những giọt nước còn lóng lánh trên vết chân của nó trước khi bị cát hút. Từ phía sông lại, còn thấy hiện ra những vết chân khác, vết chân hổ, những vết này cũng lóng lánh nước và chỉ nhìn thoáng qua là những giọt nước đã bị cát hút khô.

Nó tiếp tục đi. Đi vào khoảng được một giờ nó lại nghỉ và lúc khởi hành càng khó khăn, mặc dầu nay nó đã tự mình đeo lấy được em nó lên lưng. Nó thở hổn hển và không ngăn được giọt lệ... Khoảng nửa đêm, nó nghe thấy tiếng nước réo chẩy ở con sông thứ hai. Nó nghe thấy tiếng nước réo từ xa và tiếng nước réo chẩy đều đều đó  là tiếng nước lụt. Khi nó đến gần sông quả là nước lụt thật.

Một tảng băng lớn có lẽ đã tan ngày qua. Nước sông tưởng như sôi nổi bọt lên. Nó tìm chiếc cầu, nhưng cầu đã biến mất. Nơi cuộn nước cao lên là chỗ cầu bị chìm ngập. Xác một con dê còn mắc vào lan can cầu. Cành cây dựng ngược lên như cánh tay người chết trong cơn giông tố, bám chặt vào cầu trông chẳng khác gì những chụm lông. Phía dưới cầu, những tảng đá rung chuyển vì sức nước chảy xiết. Thằng Sinh tưởng như nghe thấy giòng nước nghiến răng. Rồi một thân cây lớn nhô hiện trên giòng sông, cứ thế theo đà nước trôi, mỗi lúc mỗi nhanh và sau cùng xô mạnh vào thành cầu bị sập. Trong lúc sấm sét vang động, người ta nghe thấy một tiếng động lớn như xé bầu không khí. Chiếc cầu rung chuyển như một con ác thú, gẫy tan, tung lên trời cả khung cầu bằng tre như một chiếc quạt tan gẫy. Nước lại chẩy xiết và làm chìm đắm hẳn cầu.

Còn biết qua sông bằng cách nào? Không thể bơi được, dù có một mình. Thằng Sinh thất vọng quá. Nhưng biết đâu trong mảnh cầu tan vỡ kia, nếu nó may mắn tìm được một đường đi?

Nó đặt thằng Công-hoa xuống đất và vốc nước sông cho em uống.

- Này em!

Nó gọi thằng bé cho uống nước, rồi nó nhặt cỏ, bện thành sợi dây thừng thiệt chắc. Cỏ sắc làm đứt cả tay nó. Nó buộc em nó bằng sợi dây mới này, buộc hết sức chặt để em nó không thể tuột được. Xong đâu đó nó lội xuống nước ngay chỗ cầu cũ. Nước sông như giữ chặt hai anh em và dìm chúng xuống chiếc cầu gẫy. Thoạt đầu, nó không cựa quậy gì được, sau dần dần nó lần đi, cố bám lấy bất cứ cái gì, dò dẫm trong trận thủy tai tìm một vật gì có thể níu lấy, dù là những cọc tre nhọn hoắt sơ ý một chút là đâm thủng bụng.

Nước chẩy réo ầm ầm, những mảnh gỗ va đụng vào người nó làm xây xát cả da thịt. Nó rét run khó đứng vững. Đứng giữa giòng nước chẩy xiết nó không sao nghĩ được. Nước chẩy réo xung quanh nó, chùm cả lên đầu cổ thằng bé, như giòng thác lạnh. Nó không còn biết em nó còn sống hay chết nữa, nhưng luôn luôn cố giữ sao cho đầu thằng em ở trên mặt nước và cứ lần lần nó tiến. Nó như câm, điếc, mù, cóng lạnh, bị chìm ngập, nhưng cứ đi, cứ đi...

Hai anh em trượt chân rồi lại đứng dậy. Chúng bám lấy thành cầu, hổn hển trong trận tử chiến. Rồi con sông như mất mãnh lực. Hai anh em nó vượt qua giòng nước.

Rồi thằng Sinh chẳng còn biết gì hơn nữa. Nó bị cóng lạnh như băng tuyết, muốn vắt quần áo cho khô nước mà tay không cử động được nữa. Áo quần bám chặt lấy người thằng bé làm nó rét run lẩy bẩy. Mũi nó nghẹt thở vì nước. Nó đi loạng choạng, nhưng vẫn đi. Chân nó run và như muốn gập xuống, không bước được. Nó đành bò. Đường đi hiện ra ở phía trước mặt và dễ đi hơn nhiều.

Ở xa xa, như ở một thế giới khác, vọng lại tiếng chó sủa báo tin gần đến một thôn xóm.

Rồi bỗng, không hiểu sao, có người... và tất cả cái gì nó còn biết là một chiếc xe bò, rồi một chiếc xe vận tải lớn...

- Mày từ đâu đến?

- Từ La-hoa-ni đến.

- Mày một mình cõng em mày à? Mày vượt giòng nước lũ đang tràn ngập sao?

Chúng nó đã đến bệnh viện.

Thằng Sinh bao giờ cũng ngượng ngập khi vào nhà xa lạ. Nó không dám vào. Vì không có tiền nên buổi sáng nó ra đường xe lửa tìm việc khuân vác than. Nó làm việc suốt ngày, trong cảnh ồn ào, để kiếm vài xu mua bột hẩm, dầu mù-tạt và ớt, bắc ba viên đá để làm lò nấu cơm. Nó tìm được một xó ở sân bệnh viện, chỗ những thân nhân của con bệnh tụ tập. Suốt ngày nó làm việc quên cả lo âu, nhưng lúc nào thư thả, nghĩ đến em nó mới e ngại.

Vị bác sĩ gọi nó, tự người đi tìm thằng bé:

- Sơ-sinh Ba-la-huy có đây không?

Nó vội bước lên thềm trả lời:

- Cha con không có đây - nó vừa nói vừa e thẹn vì run sợ, vì những giòng nước mắt chẩy trên khuôn mặt lọ lem bụi than - Nhưng thưa ông, tên con là Sơ-sinh.

- Có phải con là thằng bé cõng thằng Công-hoa từ La-hoa-ni đến đây không?

- Thưa vâng.

Một nụ cười nở trên khuôn mặt hiền từ của vị bác sĩ:

- Sơ-sinh Ba-la-huy - ông nói rõ ràng - em con qua khỏi rồi. Con có thể đến thăm được.


Nguyên tác của NORAH BURKE     
Bản dịch của VŨ MINH THIỀU      

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 40, ra ngày 28-5-1972)


Thứ Tư, 15 tháng 5, 2024

GIẬN HỜN TUỔI NHỎ - Linh Thụy Châu

 
  
Hôm qua đi học về
Mây buồn sầu lê thê
Em đếm từng chiếc lá
Dọc theo con đường về

Thôi rồi em giận Nguyên
Trách con bé "vô duyên"
Tan học về chẳng đợi
Để em mãi ưu phiền

Càng nghĩ, càng giận ghê
Bạn bè... hết chỗ chê!
Con người... sao dễ ghét!
Còn liếc xéo cười huề.

Em lặng im không nói
Mặc cho Nguyên làm quen
Cười duyên làm gì nữa?
Em ư? Em... chả thèm!

Em đi, Nguyên theo sau
Em mặc, chẳng hỏi chào
Nguyên gọi, em ấp úng
Chợt thấy... thương làm sao!

Tự dưng em hết giận
Nhìn Nguyên cười làm quen
Nguyên đưa em quả mận
Cho bồ... Thôi! Huề nghen!

Hôm nay trên đường về
Mây hết buồn lê thê
Nắng hồng đang réo gọi
Từng cơn gió lạnh về

Là rơi nhẹ bên đường
Hoa huệ ngát mùi hương
Em cùng Nguyên vui sướng
Reo cười trong niềm thương.

                        LINH THỤY CHÂU
                           (Thi Văn Lạc Hồng)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 37, ra ngày 7-5-1972)


Thứ Ba, 14 tháng 5, 2024

THẦN TƯỢNG CỦA EM - Đỗ Phương Khanh

 

Thư của em M. Dalat:

... Em có cảm tưởng nhóm Chủ Trương Thiếu Nhi là những người đã lớn tuổi, thuộc thế hệ cũ, không chịu tìm hiểu chúng em, những người trẻ của thế kỷ 20, thế kỷ của Love Story, của những thần tượng : Alain Delon, Vernaud Verley, Bobby Vinton, Andy Williame, Adamo, Christophe, Sheila v.v... Đọc Thiếu Nhi em thấy khô khan quá đi. Chị ơi! Chị là người trẻ (em nghĩ thế). Chị hãy tìm hiểu chúng em. Tuổi trẻ bây giờ quá chán ghét chiến tranh, cần tình yêu. Em rất thương Thiếu Nhi vì thấy Thiếu Nhi lành mạnh và nghĩ tới những hy sinh của tòa soạn sẽ thành vô ích nếu báo phải đình bản vì lỗ lã. Nên em làm gan viết về cho chị, chị hãy đại diện chúng em đề nghị với bác chủ nhiệm và chú chủ bút, hãy dành cho chúng em một khu vực của riêng chúng em, chị hãy đăng những mối tình thơ mộng, hay nếu tòa soạn không viết được thì dịch của ngoại quốc, em cam đoan Thiếu Nhi sẽ được hoan nghênh. Tụi bạn em đều đồng ý là Thiếu Nhi đẹp, bài vở công phu, nhưng mà khô khan quá, thiếu phần tình cảm thơ mộng. Chị nghe lời em đi, rồi Thiếu Nhi sẽ trở thành báo lừng nhất nước cho chị coi...

Trả lời: Chị rất cảm ơn em đã có nhã ý tìm lối thoát cho Thiếu Nhi. Qua thư em, chị thấy tâm hồn em trong sáng lắm. Nhưng chị sợ em dễ bị mất thăng bằng, bị lậm độc vì chiêu bài tình yêu lãng mạn mất, em gái của chị!

Thú thật với em là sau khi đọc một dọc dài những tên ngoại quốc, chị ngẩn người (cảm ơn em có nhã ý cho chị vào giới trẻ, nhưng chị đành thú nhận rằng về phương diện thần tượng của tuổi trẻ như kể trên chị có lạc hậu, vì chị gần như mù tịt, không hiểu họ đã làm được những việc kinh thiên động địa gì mà trở thành danh nhân như vậy). Tra cứu mãi, chị mới biết họ là những ca sĩ ngoại quốc trẻ tuổi, hát nhạc tình cảm, và hiện nay rất được giới trẻ ái mộ.

Em ơi! Chị hơi buồn em ạ. Em đã có lòng yêu quí chị, thì chị cũng có bổn phận thành thật với em, chị buồn em đấy.

Vì rằng em thuộc thành phần được ưu đãi trong xã hội, được học trường danh tiếng, được ba má cưng chiều, đời sống dư dả, mà em lại ích kỷ. Xin em đừng nổi giận mà liệng báo đi. Hãy đọc tiếp em ơi! Em còn có tin chị như trước thì cố bỏ ra hai phút đọc tiếp em nhé. Chị kêu gọi em đây này. Hãy nhìn ra xa hơn một chút đi em. Những thần tượng đó là của những thanh niên các nước tiền tiến. Họ đã có đời sống tương đối sung túc. Họ theo chủ nghĩa cá nhân, chỉ lo hưởng thụ. Và ngay chính ở những nước đó, tư tưởng của lớp thanh niên thường coi mấy người ấy là thần tượng cũng dễ bị khủng hoảng lắm, và cũng không có lối thoát. Đời sống dễ dãi buông thả lo hưởng thụ sẽ đưa con người tới trống rỗng và dễ sa ngã. Họ không có niềm hãnh diện của một người thấy mình có quan hệ mật thiết với cộng đồng. Sự sống của chúng ta hiển nhiên là phải có liên lạc tới nhiều người, gần nhất là cha, mẹ, anh, chị, em, chú, bác, cô, dì, thầy, cô giáo và bạn bè. Rồi từ quần áo, cơm gạo, an ninh, sức khỏe v.v... xã hội đã giúp đỡ chúng ta. Bù lại, ta phải có bổn phận với những người khác. Hơn nữa, đất nước chúng ta triền miên trong khói lửa, dù muốn có một đời sống cá nhân hưởng thụ như những người dân ở những quốc gia tiền tiến, chúng ta cũng phải gắng công xây dựng một đời sống chung cho dễ thở đã. Chứ trong khi 99/100 dân chúng điêu linh khổ sở, mà em lại đem những cô cậu kể trên ra làm thần tượng, thì chị thấy cứ như là điệu đàn ngang cung ấy em ạ.

Em đừng lầm lẫn tình cảm với sự yêu đương của trai gái. Tình cảm, tình yêu, yêu thương em có thể dành cho Phật, Chúa, ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, thày, cô, bạn bè, người, vật... Tình yêu ấy là tình yêu mênh mông vị tha mà ở tuổi các em, các em nên phát huy để làm đẹp cuộc đời. Còn tình yêu trai gái, không phải là xấu, khi nó chỉ đẹp khi nó ở đúng vị trí, và đã tới tuổi. Như một sự tuần tự khi làm nhà là: Đắp nền móng, rồi xây tới tường, rồi mới lợp mái. Tuổi em mà không lo xây nền đắp móng, lại lo lợp mái trước thì nguy quá em ơi!

Ba má đã yêu thương em suốt 17 năm rồi, em hãy yêu thương lại ba má, và vì yêu thương ba má, em ban phát tình yêu cao thượng đó vào những công cuộc xã hội, vào những người đau khổ tàn tật, em hãy hy sinh bớt những tiện nghi để an ủi những người đáng thương. Rồi tình yêu sẽ đến, nhưng là những người xứng đáng, cũng có tấm lòng cao cả, sẽ đến với em. Cái duyên dáng thầm lặng của em sẽ là thần tượng của những người khác, sao em phải tôn mấy người em kể ở trên làm thần tượng. Họ chỉ nhờ có cái giọng hát mà họ nổi danh, chỉ đáng tán dương về phương diện nghệ thuật, chứ chắc gì tâm hồn họ có cao thượng không mà em phải tôn thờ.

Em chỉ còn vài năm sống với ba má, em hãy làm những gì mà khi em lấy chồng, rời khỏi gia đình, dù có muốn, em cũng không còn cơ hội để làm cho ba má nữa. Và em cũng nên nhớ câu danh ngôn: "Hãy cho tôi biết anh chơi với ai, tôi sẽ cho biết anh là người thế nào". Chị tiếc rằng thần tượng của các em không phải là những vĩ nhân đã hy sinh cho xã hội, cho nhân loại, như ông Henry Dunant, thủy tổ Hồng Thập Tự, bà Florence Nightingale, người phụ nữ chí nguyện đầu tiên, bác sĩ Schweitzer, người đã tình nguyện hy sinh cả cuộc đời, lặn lội vào rừng núi Phi Châu để chữa bệnh cho những người dân chưa biết tới ánh sáng văn minh v.v...

Không có thế hệ cũ, mới. Chỉ có thế hệ của những người biết hy sinh, biết làm đẹp cuộc đời, biết quên mình và thế hệ của ích kỷ, hưởng thụ, mỗi người chỉ biết có mình mà thôi em ạ.


Chị ĐỖ PHƯƠNG KHANH    

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 87, ra ngày 29-4-1973)


Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2024

BÀN VỀ GIÀ TRẺ - Nguyễn Hùng Trương

 

Các em thân mến,

Chúng tôi xin tin các em hay trong gia đình Thiếu Nhi chúng ta có một tin vui: ngày 1-4-1973 vừa qua, vị niên trưởng trong gia đình Thiếu Nhi, người đã sốt sắng ghi tên vào Gia đình Thiếu Nhi để cùng sinh hoạt với các em ngay từ ngày thành lập với thẻ số 1, cụ Đỗ Ngọc Ái, tự Ngọc Hồ làm lễ mừng thượng thọ 73 tuổi.

Cụ Đỗ Ngọc Ái là người VN đầu tiên khai thác mỏ than Cái Lân, Hòn Gai, cạnh tranh với người Pháp ở Bắc Việt.

Cụ Đỗ tuy lớn tuổi, nhưng tâm hồn còn trẻ, lúc nào cũng vui vẻ, luôn hòa mình với các bạn trẻ hơn, trong các sinh hoạt xã hội hay văn nghệ.

Cụ rất thích làm thơ, hồi năm 1948, cụ còn theo kháng chiến, hoạt động ở miền thượng du Bắc Việt và cụ suýt bị thủ tiêu vì bài thơ tức cảnh cụ làm trong lúc xa gia đình:
 
Chăn đơn gối mảnh tiết đông hàn,
Kẽ đá lưng đèo túp một gian
Dưới gác, lợn, trâu châu mở hội
Trên sàn, mèo, chó chõ từng đàn
Đầu nhà ánh bếp khi mờ tỏ
Chân giậu giòng khe lúc nhặt khoan
Muốn dậy coi trời: còn tối mít
Đành lòng gắng đợi ánh thiều quang.

Khi còn ở đất Bắc trong dịp một ông Tú Tài ở Pháp về, có ra đề thơ : Cáy chơi trăng.

Cụ có làm bài thơ châm biếm như sau, mà mỗi câu có tên một con vật ở dưới nước (thủy tộc):

Gặp khi mưa gió với mây rồng
Cái cáy chơi trăng nghĩ cũng ngông
Ghét bộ chàng cua ngang cửa lỗ
Trêu gan chú cóc ngắm trên không
Dã tràng xe cát đà mơ mít
chuối chầu sao cũng viển vông
Vọng nguyệt chép cùng vung vẫy nước
Ếch ngồi đáy giếng biết sâu nông

Con cáy là một loại (giống như cua) chân cao chạy nhanh trên cát bùn. Người ta thường bắt con cáy dùng làm mắm gọi là mắm cáy. Và người ta cũng thường hay nói nhát như cáy đồng nghĩa với thành ngữ nhát như thỏ đế.

Trong dịp mừng thượng thọ 73, cụ có ngâm cho bạn bè nghe bài thơ khai bút đầu năm Quý Sửu của cụ như sau:

Cổ lai hy hữu sánh cùng ta
Chẳng hẳn thanh xuân chẳng hẳn già
Bát phố lả lơi xe gắn máy
Thể thao nhún nhảy phép Yoga
Ngày quen dăm chén cơm thô lứt
Sáng thuộc vài chung nước nụ trà
Thế sự mặc ai danh với lợi
Thú vui ngâm vịnh điểm cầm ca.

Các em thấy dù đã ở cái tuổi mà người xưa nói "Nhân sinh thất thập cổ lai hy" mà cụ còn đầy vẻ hoạt bát.
 
Nghĩ đến cụ Đỗ tuổi tuy cao nhưng tâm hồn vẫn trẻ, chúng tôi nhớ đến một nhà văn Pháp đã khuyên chúng ta đừng quá lo âu về tuổi già xồng xộc đến vì:

Trước 30 tuổi, chúng ta còn trẻ măng
Từ 30 đến 40 tuổi, chúng ta còn trẻ
Từ 40 đến 50 tuổi, chúng ta vẫn còn trẻ
Từ 50 đến 60 tuổi, chúng ta còn trẻ hoài
Từ 60 đến 80 tuổi, chúng ta trẻ không tưởng tượng
Sau 80 tuổi, chúng ta trẻ vĩnh viễn.

Có biết bao người tuổi còn ít, nhưng tâm hồn đã cằn cỗi.

Nghệ sĩ Trần văn Trạch đã kể một chuyện vui đại khái như  sau:

Một nhà báo đến phỏng vấn ba ông cụ về cách sống và sức khỏe. Ông ta hỏi ông cụ thứ nhất:

- Thưa cụ, xin cụ cho biết bí quyết nào làm cho cụ được khỏe mạnh, sống lâu và năm nay cụ được bao nhiêu tuổi?

Ông cụ thứ nhất trả lời:

- Tôi năm nay 85 tuổi. Sở dĩ tôi được khỏe mạnh là nhờ tôi sống lúc nào cũng điều độ: tôi ít ăn, ít uống, ít lo lắng.

Ông cụ thứ hai vui vẻ đáp lời nhà báo:

- Tôi thì trái lại, cái gì cũng nhiều: Tôi ăn nhiều, ngủ nhiều, vui vẻ cũng nhiều. Ông nhìn xem tôi tuy đã 90 nhưng vẫn còn khỏe mạnh chứ!

Ông thứ ba chậm rãi nói:

- Tôi chỉ có chơi bời nhiều và thức nhiều mà thôi.

Người phỏng vấn hỏi tiếp: Vậy xin cụ cho biết nay cụ thọ được bao nhiêu mà trông cụ có vẻ hom hem như thế.

Ông thứ ba vẫn chậm rãi nói: Tôi đã 30 tuổi rồi cơ mà!

Các em thân mến,

Kịch tác gia G.B. Shaw có nói : Lắm người không bao giờ trẻ, vài người không bao giờ già.

Cụ Đỗ Ngọc Ái, niên trưởng gia đình Thiếu Nhi của chúng ta thuộc vào hạng sau, vài người không bao giờ già.

Vậy các em, tuổi hãy còn trẻ, hãy giữ tâm hồn cho vui tươi, giữ mãi tâm hồn vui tươi. Nhờ đó các em sẽ thấy cuộc đời đáng sống và các em sẽ được hạnh phúc.

 
Thân mến chào các em             
NGUYỄN HÙNG TRƯƠNG       

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 87, ra ngày 29-4-1973)



Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2024

NIỀM VUI ĐẦU ĐỜI - Cỏ Biếc

 

 Ơi! Mắt mẹ buồn đưa võng con
Trăng soi đầu núi thoảng vào hồn
Nôi hồng con nhỏ ngu ngơ khóc
Mẹ chợt thấy chùng tơ bâng khuâng

Thôi nôi con cười trên mây xanh
Tay nhỏ vờn nhốt bao ân tình
Mẹ ngồi ru con qua năm tháng
Mặc thời gian cứ trôi mông mênh

Ơi! Nến hắt hiu tường vôi buồn
Mẹ ngồi kiên trinh dáng phai hương
Tường vôi có nhạt màu loang lổ
Vẫn ấm tình cao vượt dặm trường

Con khóc trong nôi hồng sắt se
Mẹ nghe chim chóc hót sau hè
Và hoa lá nở mừng con đó
Nhịp võng u buồn giữa sơn khê

Mẹ xõa tóc xanh hát ru con
Tiếng hát thênh thang phả xuống hồn
Trong nôi con nhỏ nghe lời ấm
Mắt nhắm ngủ ngon mộng thiên đường

Trong rừng cây cối ngủ theo con
Chừng nghe non nước ngả điệu buồn
Mẹ hát tình ca ru vạn vật
Nụ cười con tròn giấc cô miên!

                                             CỎ BIẾC
                                             (bn Hoa Tiên)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 57, ra ngày 24-9-1972)


Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2024

TÌM VỀ QUÊ MẸ - Nhã Uyên

 
 
Rồi một lần tìm về nơi quê mẹ

Người xưa đâu trong nỗi nhớ đầy vơi

Ngày xưa đâu sao chỉ được một thời

Mà bây giờ áo cài hoa hồng trắng


Tuổi xanh đâu ngày thần tiên ấm nắng

Phút êm đềm trong một thoáng bay xa

Chẳng còn mẹ để khoe áo lụa là 

Chẳng còn mẹ đang đứng chờ trên lối


Tìm  đâu ra những ngọt ngào  buổi tối

Tìm đâu ra được bóng dáng mẹ hiền 

Những tiếng ru cho đầy giấc thần tiên

Mới biết quý khi mà người đã mất.


                                               Nhã Uyên

                        Kỷ Niệm Ngày Của Mẹ Tháng Năm


Thứ Năm, 9 tháng 5, 2024

NHƯ MỘT GIẤC MƠ - Vũ thị Hải Dương

 


Cho đến khi em quay gót trở về, bầu trời bắt đầu xám, gió se lạnh và tóc em bay. Chợt nhớ đến cô bạn nhỏ của em đã nói: "Trời mưa thì rất buồn, Chi có thể bật khóc được. Nhưng Chi thích bầu trời chỉ xám mà không mưa. Hải Dương ạ!" Và em nghĩ, chắc bây giờ cô bạn nhỏ này thích thú lắm khi ngồi nép mình nhìn màu trời qua khung cửa sổ. Nếu em như Chi, em thích có thể điên lên được khi bắt gặp một màu mà mình yêu mến. Màu xám đang hiện rất tỏ trước mặt em và có lẽ rất rõ ràng trước mặt bọn em đang say ngắm.

Con đường lát sỏi trứng... cút - em và bạn bè vẫn gọi như thế vì sỏi trắng ngà, có đốm và to to như trứng cút! - chừng như rất lạnh và buồn. Ngàn lá reo lao xao, em tưởng rằng hồn cây lên tiếng hát ru dần một ngày yên ngủ và như nhủ thầm thôi hãy ngoan hiền. Em "thoọc" tay vào hai túi áo. Vẫn hơi lạnh nhỉ! Tóc em xõa dài, đen và óng ả. Bay bay nên vương trên vừng trán, , trên môi rồi vật vờ qua mắt. Minh bảo tóc em dài rồi đấy. Cả Ngọc Trâm cũng nói thế. Em chỉ nhẹ cười không nói. Rồi sẽ có một ngày - rất lạ tất cả bè bạn, người thân sẽ thốt lên - ơ, mày cắt tóc rồi đấy à! Ngắn nhiều so với ngày xưa. Chắc lại "cho một lời nguyền" chứ gì? Và em lại nhẹ cười không nói. Chiếc áo manteau màu bordeau chừng như chưa làm em ấm hẳn. Gió còn đi qua đôi bàn chân. Lạnh nên màu da chợt đổi. Một màu trắng xanh như là em mới ốm dậy. Bước đi vụt quấn quít và nhanh. Cơn mưa về đây nhanh hơn cơ!...

Chẳng còn một cái gì rất mơ hồ và trừu tượng ở được mãi bên em. Không vững bền và trường cửu. Cho đến cả những khuôn mặt rất quen mà em thương mến cũng đã xa xôi rất vợi. Kỷ niệm rất yêu chẳng gần thêm đến một ngày. Em buồn bởi vì thế! Nên biết rằng em sẽ chẳng còn vui, cho dù một phút bên người. Màu trời cũng biến đổi không thôi. Chim tung bay trong gió để tắm gội những ánh nắng mặt trời trong mùa mưa rất hiếm. Đua với gió mây qua bao nhiêu cung trời chưa đầy "sáu mươi độ". Nào là "khung trời tưởng nhớ", "khung trời gia định", "khung trời phiền muộn", "khung trời kỷ niệm"... Giời ơi! Sao mà lắm khung trời thế! Đọc lên em đã... bủn rủn tay chân. Chắc chắn mảnh đất Việt Nam yêu dấu của em được kết đúc lại bởi những khung trời... rất lạ này. Em nghĩ đến một "đại gia đình ong" với chiếc vỏ đan lại bởi những ô hình lục giác. Cho đến lúc cơn mưa kéo về, tất cả "khung trời" đều có một màu xám buồn như cô bạn nhỏ của em thích. Chim lại chẳng còn bay. Thu gọn mình trong tổ và mắt rất hờn nhìn ra ngoài. Trời bỗng rộng mênh mông. Em lại nằm sấp, cằm để trên hai bàn tay, chống mặt nhìn đời qua mưa đầu mùa. Em có vẻ "bi quan" quá! Cười hắt hiu với ý tưởng trong đầu. Em nghĩ rằng mưa sẽ cuốn theo tất cả những  gì gọi là dĩ vãng rất khóc của em. Cuốn sổ tay nhỏ bé của em cũng sẽ ghi thêm một câu ngắn, gọn nhưng đầy ý nghĩa mà chỉ có em, một mình em hiểu được: ADIEU TRISTESSE!

Sự thật không phải là ước mơ đâu em ạ! Đừng có ngơ ngẩn  đến độ ngẩn ngơ nhé em! Em rất dị, phải không hỡi mây, hỡi gió, hỡi... ai ơi! Thời gian đi qua cho cuộc đời em thêm dài là chuỗi ngày rất đẹp. Em tôn thờ nên nuối tiếc. Em yêu mến nên nhớ nhung. Để rồi đến một lúc nào, em cũng không biết hay đúng ra, em không còn nhớ được. Em đã ôm mặt khóc ròng. Em lại bonjour tristesse rồi đấy! Cái bà này cứ "lảng vảng" quanh em rồi đợi dịp đến gần. Rõ ghét! Em đang ở "lưng chừng đồi" đây. Em chẳng còn be bé mà người ta gọi là "con ních". Em cũng chẳng là lơn lớn để người ta gọi là "người nhớn" hay "vị thành niên". Bây giờ, trong đầu óc em, cái ngày hai mươi tháng tư đó đã gióng lên mười sáu tiếng chuông (chùa hay nhà thờ cũng rứa!) nghe cũng "đinh tai nhức óc", cũng êm ái như "zoulou chín từng mây". Em cười rất tươi. Em buồn đến khóc. Tại sao thế nhỉ? Ừ, em cũng chẳng biết tại sao. Tự vấn và tự đáp mà không dám hỏi ai. Mà hỏi ai bây giờ. Người ta sẽ nhìn em rồi trợn mắt "Ớ ờ, cái con nhỏ này lạ nhỉ? Hỏi gì không hỏi lại đi hỏi khóc với cười! Rõ vô duyên!" Em phụng phịu, đỏ mặt quay đi, hay tức mình nói "trả đũa" "chả như anh, hỏi gì không hỏi lại đi hỏi dzợ. Rõ kỳ!"Lúc đó, ai cười ai nhỉ? Em cười anh chứ nhỉ.

Lilas, bạn của em học cùng lớp, nói với em:

- Hải Dương rồng "dàng" ơi. Sao ta thấy ta bỗng già đi quá đỗi. Mười sáu tuổi rồi còn gì nữa!

Em buồn cười và ức ghê. Nó dám gọi em là Hải Dương rồng "dàng" cơ chứ. Làm cho cả lớp gọi em như thế khi nghe nó đọc tiểu sử của chữ Hải Dương rồng "dàng".

- Thôi thế từ nay ta sẽ gọi mi là bà già, Lilas nhé! Ấy quên, bà già nhé!

Em cũng không biết em có "dà" như thế không? Mười sáu tuổi rồi! Mình như chưa "dà" thì phải! Mà thật em chưa "dà". Mới có "mười xáu tuổi" mà lị! Tại cái bà già Lilas nói như thế. làm em cũng nghĩ "như thế" theo! Các văn thi sĩ thời tiền chiến, cho đến ngày nay, cũng vẫn tô son và dệt lối cho tuổi "mười xáu" này. Nào là mơ mộng, ước mơ, ngậm ô mai Bắc Việt, tuổi đẹp nhất đời người... Họ nói thật hay, thật diễm lệ mà em thì không thể nào tả lại được. Đến cả những câu thơ thật tuyệt diệu em cũng không nhớ được. Chỉ biết rằng thơ của họ tuyệt diệu mà thôi. Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Đinh Hùng, Từ Kế Tường, Duyên Anh viết và nói về tuổi "mười xáu" thật hay thật tuyệt. Em phục tài của họ quá.

Em không biết em có mơ mộng như tuổi "mười xáu" của các người thơ không. Nỗi buồn nhè nhẹ len vào "tim chì" của em khi nhìn mây bay. Mắt chợt dại đi và nhìn về đâu ấy mà. Rồi em hay đứng tựa cửa nhìn trời, nghĩ về dĩ vãng, dệt cho tương lai em hay lại nghĩ đến ai? Em cũng chẳng biết nữa! Em cũng hay cắn bút, cắn móng tay khi ngồi học bài chỗ cửa sổ. Mơ màng. Mắt "lim dim", hồn bay trong "dó"... Em ngủ gục tự lúc nào! Vậy đích thị đâu có phải em là "mười xáu" của người thơ nhỉ. Tụi bạn mà biết em như thế này chúng nó sẽ cười toe toét lên được. Em phải cải chánh rằng:

- Lầm rồi em ạ. Mày tưởng ai cũng thơ như mày sao? Tại tao cảm trời cảm đất. Vả lại trưa nay tao không ngủ. Tiện đây trời trong gió mát, không ngủ cũng "đại uổng".

Mấy đứa em của em sẽ xôn xao và cười lăn trên nệm:

- Ối giời ơi, chị Hải "kăm-pu-chia" mơ về quê hương yêu dấu! Sướng nhé!... Sao? Có gặp đồng bào chứ? Bạn bè hồi hương rồi mà. Em nghe radio ở mục nhắn tin. "Tìm gặp cô Hải trước ở "kăm-pu-chia" nay ở đâu cho biết tin gấp" mà lị!

Một là em xuống mách với ba mẹ, hai là em đánh mỗi đứa một bạt tai. Nó dám gọi em là Hải "kăm pu chia". Than ơi, gạo ơi, sao mà lắm tên thế hở trời!...

Mưa rồi đó. Những giọt mưa lạnh buốt làm em xốn xang. Bạn em chắc sẽ buồn và sẽ khóc trong căn phòng có khung cửa kính mà ngoài kia mưa vẫn mưa! Về nhà, em sẽ ra ngồi trên chiếc ghế mây, thu mình nằm gọn. Em ngắm mưa rơi. Nhiễu từng giọt vào hồn em. Em làm thơ "mười xáu" tuổi. Em chẳng còn ngủ gục như bữa nao mà giờ đây em đang khóc.


VŨ THỊ HẢI DƯƠNG   

(Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 23, ra ngày 5-4-1972)


 

Thứ Tư, 8 tháng 5, 2024

NIỀM MƠ NIÊN THIẾU - Thơ Thơ

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tình cờ bước về qua lối xưa
Mây trắng trôi mây trắng lững lờ
Bên mái trường tiểu học thẩn thơ
Đôi bướm trắng vai kề thủ thỉ

Hạ lại sắp về rồi đó nhỉ
Ngày xanh yêu áo trắng học trò
Ngập khung trời cánh phượng ngây thơ
Cho tôi trở lại thời niên thiếu

Yêu lắm những  bông hoa hàm tiếu
Xinh tươi nhưng cũng thật xa vời
Lòng từng mong hái một lần thôi
Cánh nhung gấm tỏa hương ngai ngái

Mơ vẽ được để hoa sống mãi
Cành phượng kia sẽ chẳng úa tàn
Thuở bé thơ chơi bán đồ hàng
Hơi lơn lớn ép vào trang vở

Hoa học trò đáng yêu muôn thuở
Ước được thêu trên nét áo dài
Phượng đỏ tươi lá biếc trang đài
Cho ai xúng xính duyên yểu điệu

Nhưng không thành giấc mơ huyền diệu
Chẳng biết thêu, cũng chẳng vẽ vời
Nay hạ xưa trở lại cùng tôi
Bừng sống lại niềm mơ niên thiếu...

                                                 Thơ Thơ
                                     (Bút nhóm Hoa Nắng)