Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2025

TIM HỒNG 232 - Mt. Hoa

 

- Phương Loan! Muốn tìm diện tích hình tam giác em làm gì nào?

Từ bàn 2A, Phương Loan vòng tay đứng dậy thật nhanh, miệng con bé cười tươi (chắc hẳn cô bé thuộc bài!) và giọng nó thật trong, vang nhẹ trong lớp học:

- Thưa cô, muốn tìm diện tích hình tam giác, ta lấy đường đáy nhân với chiều cao rồi chia cho 2 ạ.

Tôi cười bằng lòng:

- Giỏi lắm, còn em nào có thể trả lời cho cô không nào?

Bài hình học tôi vừa giảng xong, chưa cho chép bài vội, tôi khảo ngay tại lớp, những cánh tay đưa cao làm tôi hài lòng. Gọi thêm một vài em để có thể yên tâm một chút tôi mới nhẹ nhàng bảo:

- Các em mở vở chép bài!

Những tiếng loạt xoạt thật nhẹ và các em cầm bút chăm chú ngước nhìn tôi chờ đợi...

Tôi chợt để ý... một cánh tay vừa đưa lên... chi vậy nhỉ... à... Nhâm Diên, con bé vừa đưa tay, vừa đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Tôi im lặng theo dõi con bé đang tiến đến gần, giọng nó thật nhỏ:

- Thưa cô, cho con đi tiểu ạ!

Tôi trố mắt kinh ngạc, mới vào học được nửa giờ đồng hồ, Nhâm Diên đã xin đi tiểu. Mà, không phải chỉ một hôm nay đâu, từ mấy hôm trước cơ, cứ vào học một lát là Nhâm Diên xin ra ngoài. Nhìn nét mặt chờ đợi và ánh nhìn khẩn khoản của Diên, tôi rầy nhẹ:

- Từ ma phải đi trước ở nhà nghe Diên, tới lớp đang học mà xin đi cô sẽ không cho đi nữa đâu nghe.

Diên cúi đầu đáp thật nhỏ:

- Thưa cô vâng!

- Rồi, đi đi, mau lên còn về chép bài nghe Diên.

Nhâm Diên chạy thật nhanh ra khỏi lớp như bị ma đuổi làm cả lớp cười ầm. Chắc là con bé có bệnh tật chi đây, ngày nào cũng xin đi tiểu, mà chỉ đi ngay sau khi vào học một thời gian ngắn. Lát con bé về tôi phải dặn nó về trình bày với bố mẹ cái tật kỳ quái của nó mới được. Nếu thật sự Nhâm Diên có một chứng bệnh nào đó thì sự chữa trị sớm vẫn tốt hơn nhiều chứ!

Tôi đọc bài thật chậm để đợi con bé, gió nhẹ nhàng len lỏi qua từng dẫy bàn làm bay bay những sợi tóc mỏng. Học trò tôi thật hiền! Đứa nào cũng dễ thương như đứa nấy. Tôi chưa tìm thấy tên nào dễ ghét, dù đó là một tên cứng cổ nhất, tôi vẫn nhìn được cái nét dễ thương trong những cái cứng cổ, hỗn xược của nó. Một vài người đã cười tôi đã có cái nhìn lệch lạc, ai ngờ bọn con nít lem luốc mà cứ xít xoa: "dễ thương ghê!". Một bọn con nít lóc nhóc, tóc tai lởm chởm mà dám cả gan gọi là "Tim Hồng". Quả là chướng không chịu được! Đôi khi tôi cũng lẩm cẩm tự hỏi xem rằng tôi có chướng thật không. Nhưng, tôi vẫn thấy tôi không lệch lạc cái nhìn tí nào. Một bọn con nít lóc nhóc đấy, tóc tai lởm chởm đấy, nhưng vẫn... dễ thương ghê gớm! Có ai kiện tôi không nhỉ?

Quái! Nhâm Diên đi lâu ghê vậy? Con bé đi có tới mười phút rồi đó. Có bao giờ nó đi lâu như vậy đâu. Tôi bước ra cửa lớp nhìn xuống sân vẫn không thấy bóng dáng Nhâm Diên đâu cả. Tự nhiên, tôi nhìn vào cuốn lịch treo tường, con số 27 xinh xắn đập vào mắt. Một ý tưởng về Nhâm Diên chợt lóe lên trong đầu tôi và lại biến mất hẳn. Tôi cố tìm lại nhưng rồi vẫn... mù tịt. Nhâm Diên nhỏ bé, gầy còm với nước da ngăm ngăm và tóc tai lởm chởm, ý tưởng về Nhâm Diên lại lóe thật nhanh trong đầu và rồi lại tắt hẳn. Tôi cũng vẫn không quên ý nghĩ sẽ nhắc con bé về thưa với bố mẹ về cái tật kỳ cục của nó từ mấy ngày nay.

- Xin phép cô một chút nhé!

Tôi quay đầu nhìn ra cửa, thầy giám thị với cuốn sổ trên tay, bước vào lớp. Các em đứng lên chào, thầy vẫy tay và cười sau 2 mắt kính trắng:

- Nào! Ngồi xuống! Ngồi xuống! Cô nào chưa đóng tiền học đứng lên cho tôi xem nào!

Thầy mở sổ và dùng đầu bút chì dò tìm, thầy bật cười thích thú:

- Á... à... Khúc... thị... Nhâm... Diên! Tiền học đâu cô?

Khúc thị Nhâm Diên, tôi quay sang thầy giám thị:

- Thưa thầy, em vừa xin ra ngoài ạ.

Thầy giám thị sửa lại gọng kính:

- Thế à? Lát nó về cô bảo nó đóng tiền học nhá. Lớp Bốn còn có một mình nó thôi đó.

- Vâng.

Thầy giám thị vừa khuất sau mấy hàng cột, Nhâm Diên thong thả xuất hiện ở đầu cầu thang dẫn lên lớp. Con bé ngẩng mặt cười khi thấy tôi ở trên nhìn xuống:

- Cô!

Tôi gắt nhẹ:

- Mau lên cô! Đi gì mà lâu quá vậy?

Nhâm Diên  nhe răng cười - lên tới lớp, Diên quay sang tôi:

- Thầy giám thị đi rồi hả cô?

Tôi trợn mắt ngó Nhâm Diên, ý tưởng lúc nãy về Nhâm Diên lại lóe lên trong óc và lại tắt lịm. Tôi bực bội với chính tôi, sao hôm nay đầu óc tôi kỳ quái như thế này nhỉ? Nhâm Diên lại cười:

- Hả cô? Thầy ấy đi rồi hả cô?

Tôi gật đầu:

- Ừ, thầy mới lên đòi tiền học đó, Nhâm Diên chưa đóng tiền học hả?

Con bé cười, nụ cười hình như buồn buồn (tôi linh cảm thấy như vậy):

- Con biết chứ cô, thành ra con phải xin cô cho con đi tiểu đó.

Tôi há hốc miệng, tôi sững sờ trước câu nói của Nhâm Diên. Ý tưởng về Nhâm Diên lúc nãy chợt lóe sáng và bùng bùng như ngọn nến đang cháy. Tôi nghẹn cổ, tôi muốn ôm lấy Nhâm Diên, muốn xiết chặt nó vào lòng mà bảo nó thật nhẹ nhàng: "Cô hiểu rồi, cô hiểu rồi, Nhâm Diên ơi". Nhưng, người tôi lạnh toát và miệng tôi đắng ngắt, tôi không thể làm như tôi muốn. Tôi thẫn thờ hỏi Nhâm Diên một câu hỏi quá dư thừa:

- Sao vậy, Diên?

Nhâm Diên vân vê vạt áo, nước mắt lấp lánh trong lòng 2 con mắt tròn, to và đen thăm thẳm, giọng nói em ướt sũng:

- Thưa cô, tại tháng này ba con ở dưới đồng ruộng bị trúng đạn pháo kích đi nằm nhà thương, mẹ con phải đi nuôi ở nhà thương, tiền bạc dồn vào lo cho ba con hết nên đến hôm nay con chưa có tiền đóng tiền học, mấy sáng nay thầy giám thị đi từng lớp một để đòi tiền học, con cứ nghe tiếng các lớp khác chào lúc thầy vào là con xin cô cho con đi tiểu, nhưng mãi sáng hôm nay thầy mới vào đến tầng lầu này, con lại xin cô cho con đi tiểu khi thầy sang lớp mình sau khi đã vào lớp Năm 2 bên cạnh. Con sợ thầy sẽ đuổi con về nhà lấy tiền học. Mà mẹ con chưa mượn được tiền.

Tôi quay quắt theo từng câu nói đều đều của Nhâm Diên. Tôi hiểu rồi. Nhâm Diên không có bệnh tật chi cả, Nhâm Diên chỉ có một cái bệnh là bệnh không có tiền học tháng này mà thôi. Gương mặt con bé chợt xanh xám. Nó nắm chặt tay tôi, giọng lạc đi (vì xúc động hay vì một ám ảnh nào nặng nề khác mà tôi chưa được biết, con bé có 2 bàn tay ướt đẫm mồ hôi và lạnh giá):

- Cô! Mỗi ngày, hễ đến lúc thầy giám thị đi đòi tiền học cô lại cho con đi tiểu nghe cô, thầy đi đòi mà con không có tiền thầy đuổi con về mất cô ơi!

Tôi bóp mạnh tay Nhâm Diên, bàn tay tôi hầu như cũng lạnh cóng theo bàn tay con bé. Nhâm Diên khóc từ bao giờ. Những giọt nước mắt nhòe nhoẹt trên gương mặt gầy gầy với làn da ngăm ngăm sạm nắng. Tôi vuốt tóc Diên, mái tóc hoe vàng, cháy đỏ. Tôi xót xa với từng giọt nước mắt rơi xuống đều đều trên tay tôi. Những giọt nước mắt tủi cực, nóng hổi của một đứa bé chưa đủ mười tuổi đầu làm tôi nghẹn cổ. Tôi thương Diên vô vàn, tôi thương tất cả những đứa học trò bất hạnh của tôi, những đứa bé đã phải sớm nếm mùi cơ cực, vất vả và tủi nhục của cuộc đời. Cô thương Diên thật nhiều Diên ơi!

Nhâm Diên lại lắc tay tôi:

- Nghe cô! Cô cho con đi nghe.

Tôi cắn chặt môi, nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm ướt của nó, không trả lời câu hỏi của Diên:

- Mỗi sáng Diên đều vào nhà vệ sinh hả?

Nhâm Diên cười thật buồn:

- Thưa cô không! Con có vào nhà vệ sinh đâu, con vào nhà thờ rồi lên quì ở hàng ghế chỗ tòa Đức Mẹ. Chỗ đó có cửa kính nhìn lên lớp mình, con vừa cầu nguyện vừa canh chừng thầy giám thị luôn thể.

Tôi vuốt lại những sợi tóc rối bời của Diên, lòng tôi có một chút hân hoan thật nhỏ bé. Em đã làm đúng đó, Nhâm Diên ạ. Lúc buồn khổ đớn đau, lòng tin tưởng sẽ giúp ta rất nhiều đó. Học trò tôi, trong đau khổ và tủi cực đã biết tự tìm cho mình một lối thoát. Em lớn rồi Nhâm Diên ạ. Tôi thì thầm với chính tôi những câu này và tôi nói với Nhâm Diên thật nhẹ:

- Diên về chỗ đi, tháng này để cô đóng tiền học cho, khỏi lo nữa, nhé!

Nhâm Diên sáng rực đôi mắt, em khoanh tay:

- Vâng, cô cho con mượn rồi mai mốt ba con ra nhà thương, mẹ con về con sẽ nói mẹ con gửi lại cô.

Tôi lắc đầu:

- Không! Cô tặng Diên luôn chứ không cho mượn đâu. Yên tâm đi, nghe!

Nhâm Diên ấp úng định nói, tôi kéo tay em:

- Về chỗ chép bài đi Diên, mai khỏi phải xin cô cho đi tiểu nữa, há?

Con bé quẹt nước mắt và cười tươi:

- Cô biết không, hôm đầu tiên con có vô nhà vệ sinh chứ, nhưng hôi quá chịu không nổi, từ hôm sau thì con vào nhà thờ luôn.

Tôi bật cười theo Diên:

- Diên làm cô cứ tưởng em bị bệnh hay làm sao đó chứ.

Thấy tôi và Diên cười vui vẻ, cả lớp không hiểu gì cũng cười góp theo. Tôi muốn "nguýt" lũ học trò tôi một cái thật dài. Xí! Vô duyên! Chả biết chi mà cũng cười góp hả? Vô duyên ghê mà cũng... dễ thương ghê vậy đó. Phải không các em: Những trái tim hồng be bé của cô???


Mt. HOA.       
 
  (Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 232, ra ngày 1-3-1975)


Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2025

NHỮNG BÀN TAY TRỜI ĐẤT - Trường Thiên

 
 
Nhớ thuở nào em giăng trong bước nhỏ
Tuổi ấu thơ bỡ ngỡ dấu chân chim
Theo chân mẹ dõi mắt đến im lìm
Hồn vụng dại hiền như hồn liên khánh

Cất tiếng trong nhìn trời xanh lanh lảnh
Em ca lơi khờ dại với thơ ngây
Nấp trong tay rộng lượng của cô thầy
Em sẽ mãi yên lành trong đường mới

Trong sân trường em nghe ai nhắn gởi
Tình bạn bè em hãy nhớ đừng quên
Lòng bao dung, lời giảng dạy êm đềm
Đang nhắc nhở em thêm nhiều cố gắng

Em siêng học ngày mai em sẽ thắng
Tương lai dài đầy những bước khó khăn
Em xa đi những bước nhỏ nhọc nhằn
Giờ vinh quang ngày mai rồi sẽ tới

Ngày mai kia mà em hằng mong đợi
Cũng do Thầy dạy dỗ dắt em lên
Từng tháng năm cùng tiếng nói thêm hiền
Và cha mẹ dày công nuôi khôn lớn

Những ơn đó không thể nào quên được
Bước chân dài cũng nhớ mãi hôm qua
Dù xa xăm em mãi khắc ghi hoài
Công trời đất trồng vun cành phú quý.

                                            TRƯỜNG THIÊN
                                                 (bn. Trường Xuân)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 122, ra ngày 1-3-1974)




Thứ Năm, 27 tháng 3, 2025

LƯƠNG TÂM - Nguyễn Hùng Trương

 

Các em thân mến,

Người ta thường hay khuyên các em nên hành động theo đúng lương tâm của các em và đôi khi các em cũng nghe thiên hạ chê một người nào đó không có lương tâm hoặc xử sự khác với lương tâm họ.

Nhưng lương tâm là gì? Đấy là lòng thành tự nhiên mà mỗi người của chúng ta vẫn có. Người ta cũng thường cho rằng trong mỗi con người của chúng ta đều có chứa đựng hai nhân vật : một ông thiện và một ông ác, ông thiện tức là lương tâm của chúng ta.

Thánh Gandhi thú nhận : Người oai quyền nhất mà tôi chịu tuân theo mệnh lệnh dưới thế gian này là "cái tiếng nói thì thầm" tức là lương tâm trong chính con người tôi.

Ông Stendhal, nhà văn Pháp hồi đầu thế kỷ 19 có thuật một câu chuyện về tiếng gọi của lương tâm như sau : (dưới đây là lời của nhà văn Stendhal).

Tôi dạo chơi về phía cầu Iéna, lúc đó gió thổi mạnh, sông Seine (một con sông lớn chảy qua thành phố Paris, nước Pháp) có sóng lớn và làm tôi liên tưởng đến mặt biển.

Tôi nhìn theo một chiếc thuyền con chở đầy cát đến tận mép thuyền, đang muốn chui qua dưới nhịp cầu cuối cùng... Bỗng đâu, chiếc thuyền lật úp xuống, tôi thấy người lái thuyền cố sức bơi nhưng anh ta lúng túng, không bơi được.

Tôi tự nghĩ : Anh chàng vụng về này sẽ chết đuối đến nơi rồi.

Tôi có ý định nhảy xuống nước cứu anh ta, nhưng tôi lại nghĩ mình đã 47 tuổi lại thêm mắc chứng bệnh phong thấp, mà trời lạnh như cắt da.

Tôi nghĩ ở phía bên kia sông, chắc sẽ có người nhảy xuống cứu.

Tôi đành đứng trông : Người lái thuyền lại ngoi lên mặt nước ; anh ta kêu lên một tiếng cầu cứu. Tôi liền nhanh chân rời xa nơi đây, bụng bảo dạ : Mình cũng quá điên rồ! Rồi đến khi nằm liệt giường với chứng đau xương nhức nhối, ai sẽ đến thăm mình, ai sẽ nghĩ đến mình? Mình lại nằm một mình đến buồn chán muốn chết như hồi năm ngoái. Tại sao hắn làm nghề lái thuyền lại không học bơi? Hơn nữa thuyền của hắn lại chở quá nặng.

Tôi đã đi xa sông Seine đến năm chục bước, tôi còn nghe rõ tiếng người lái đò sắp chết đuối kêu cầu cứu.

Tôi bước càng nhanh thêm, nghĩ thầm : Để hà bá đem nó đi cho rồi và tôi không thèm để ý đến việc ấy nữa.

Bỗng nhiên, tôi tự trách tôi : Này trung úy Lư-Ô (tên tôi) anh là kẻ khốn nạn, trong một khắc đồng hồ nữa, người kia sẽ chết, rồi suốt đời anh, anh sẽ nhớ mãi tiếng gọi cầu cứu của anh ta. Lòng vị kỷ tôi cãi lại : Khốn nạn! Kẻ khốn nạn! Cứ để cho hà bá đem nó đi! Đã làm nghề hàng hải thì phải biết bơi chứ!

Tôi đi nhanh về phía Trường võ bị. Đột nhiên một tiếng nói trong tâm : Trung úy Lư-Ô, ông là kẻ hèn nhát. Tiếng nói lần này làm tôi giật nẩy mình. Tôi nghĩ : À! Việc này quan trọng đấy và rồi tôi chạy vội trở lại sông Seine.

Đến bờ sông, tôi cởi bỏ cái rụp áo quần, giày ống. Tôi cảm thấy sung sướng nhất đời. Tôi tự nói to tiếng : Không Lư-Ô không phải là một kẻ hèn nhát, không! Không bao giờ! Thế là tôi cứu được người ấy, không khó khăn gì. Tôi nhờ người đem anh ta đặt vào giường ấm áp, sau đó anh ta tỉnh lại và nói được.

Các em thân mến,

Nhờ tiếng gọi của lương tâm, cuối cùng tác giả  đã cứu sống được người lái thuyền.

Chắc các em cũng thấy rõ sự quan trọng của lương tâm con người.

Ông Vessiot cho rằng : Không sợ người phán xét mình, mà sợ lương tâm phán xét.

Ông Aristole khuyên chúng ta : Hãy làm chủ ý chí anh và làm nô lệ cho lương tâm anh.

Chúng tôi xin kết thúc bức thư hôm nay bằng lời nói hữu lý của ông Lưu Trực Trai : Muốn giữ được lương tâm, nuôi được linh tính, cần phải chịu khổ, chịu phiền, thì ngày mới thuần thục.


Thân mến chào các em           
NGUYỄN HÙNG TRƯƠNG     

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 121, ra ngày 15-2-1974)




Thứ Tư, 26 tháng 3, 2025

NGÀY MỚI - Nguyễn thị Hòa

 


Bây giờ thời gian vào khoảng canh ba.

Mọi vật đều lắng chìm trong giấc mộng. Cây cau ngất nghểu tận trời, đứng im lìm, đôi khi đầu cây rung rinh lá chạm nghe rào rào rất nhỏ. Gió nhè nhẹ thổi, vài chiếc lá úa rơi xuống mặt ao, làm làn nước rung động tỏa ra những vòng tròn to và nhỏ, mất đi. Mặt ao trở lại như thường, lênh đênh chiếc lá trôi. Giàn hoa Lý Hương trổ đầy bông trắng xóa, khẽ lung lay vì gió sớm, tỏa hương thơm ngào ngạt. Những đám rạ ươn ướt sương đêm. Con vện ngoài hiên khò khò say ngủ.

Trong nhà bé Nhớn, bu bé Nhớn dậy sớm hơn cả. Bu vào bếp nấu bánh chưng và nắm cơm vừng cho thầy bé Nhớn. Bu lui cui trong bếp thổi lửa. Củi khô đốt nổ lách tách và khói bay cả nhà, làm em bé Nhớn đang ngủ ho lên mấy tiếng. Bu vội quạt cho khói giảm bớt. Lửa cháy hừng hực, rọi sáng cả mặt bu. Bu bé Nhớn không ngoài năm mươi, mà tóc bu đã gần bạc rồi. Có lẽ vì công việc bưng thúng, bán cháo khổ nhọc, tìm cách sinh sống cho qua ngày. Thiếu thốn vật chất, đói rét, làm cho bu già hơn ngày tháng, mắt sâu hoắm và thâm, má hóp.

Trong lúc bu bận trong bếp, thầy bé Nhớn đã dậy, thầy đi rửa mặt. Tiếng nước rơi trong khoảng không gian im lìm nghe rất rõ và êm êm như tiếng đàn.

- Thầy nó dậy rồi à?

- Vâng...

Rồi thầy lại chiếc giường tre ọp ẹp, lấy bọc quần áo kiểm lại. Thầy bé Nhớn lên tỉnh để tìm việc làm, vì ở dưới này nghèo quá không đủ năm miệng người ăn.

Tiếng bu trong bếp vọng ra:

- Thầy nó biết chỗ làm chưa?

- Chưa, nhưng đã có chú Tư giới thiệu rồi, chú hẹn tôi ở bến xe đò...

- Mà thầy nó làm việc gì nhỉ?

- Nghe nói làm cho một hãng to lớn lắm.

Tiếng bu thở dài trong bếp:

- May trời còn thương mình, giúp cho thầy nó có công ăn việc làm để đỡ cho tôi dưới này.

Bu và thầy im lặng, không nói nữa. Bu nhìn chồng rồi nhẹ tay xếp bánh chưng và cơm nắm muối vừng vào giỏ đan tre. Những chiếc bánh chưng mới ra nồi nóng hổi, tỏa ra khói thơm nghi ngút...

Gói hành trang đã kiểm xong và xếp rất gọn, giỏ đồ ăn đầy đủ do tay bu sắp.

Thầy bé Nhớn lên đường đi tỉnh...

Thầy nhìn căn nhà lá lần cuối, nhìn xung quanh, đám con nằm san sát nhau trong chiếc chiếu tơi. Thầy thở dài, chán nản. Tiếng ngáy khò khò phát ra từ đám con say ngủ, thầy im lặng lắng tai nghe tiếng ngáy ấy lần cuối mà khi lên tỉnh thầy không bao giờ nghe được.

- Thôi, thầy nó đi đi...

Giọng bu buồn buồn nói.

Chân thầy bước đều trên con đường làng đẫm sương đêm. Cây lá lao chao rung động hòa lẫn tiếng lá tre đập vào nhau như tấu lên nhạc khúc chia ly. Bu tiễn thầy. Vạt áo bu bay phất phơ như vẫy tay vĩnh biệt. Con đường làng như lưu luyến bước chân đi. Kìa, con rạch nhỏ, nước đều đều chảy qua cầu. Đây là kỷ niệm ngày gia đình bé Nhớn bị đói, thầy và cu con cầm cần đi câu cá, vài con cá nhỏ mắc lưỡi câu vẫy vùng, mỗi lần cá mắc câu như thế thầy và cu con cười rộ lên...

Sáng hôm sau, khi bình minh vừa chỗm dậy, cây cối đứng sưởi ấm trong ánh nắng vàng huy hoàng. Con đường làng tràn ngập và sáng rực lên vì ánh bình minh. Chim líu lo hót như mừng cho một ngày mới...

Bé Nhớn và lũ em đã dậy. Chúng ngạc nhiên khi thấy bu nó ngồi ủ rũ ở góc giường, mắt đỏ hoe. Bé Nhớn rụt rè hỏi:

- Thầy đâu hở bu?

- Thầy mày đi rồi...


NGUYỄN THỊ HÒA      

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 173, ra ngày 15-3-1972)



Thứ Ba, 25 tháng 3, 2025

BỤI CHUỐI NGÀY XANH - Hoa Cỏ May

 
 
Gió đưa bụi chuối sau hè ngủ
Rách tươm đám lá đậm màu xanh
Chở che đọt non lên màu sống
Gá thêm tàu lá vỗ về quanh

Thuở nhỏ ưa ra hè bứt lá
Vấn kèn thi thổi điệu tò te
Đứa nào thảnh thót, dài hơi nhứt
Được cõng lên cao hái chuối về

Má rầy: - "Chuối mới xanh ngoài vỏ
Chắt ngắt mà ăn, mủ dính môi!"
Thì thôi xắc nhỏ ra từng miếng
Bầy hàng gốc chuối bán đồ chơi

Sáng nào nấu bếp làm xôi bán
Má gói cho con để tới trường
Xoi vị nắm đầy manh lá chuối
Ngọt ngào sao tới mấy mùi hương!

Những trưa im vắng nằm trên võng
Nghe đám lá chuối rủ rê cười
Mà tưởng mẹ phà hơi thở nhẹ
Quyện lấy ngày xanh của cuộc đời.

                                         HOA CỎ MAY
                                    (Văn nghệ Hoa Thế Kỷ)

(Trích từ bán nguyệt san Thằng Bờm số 25, ra ngày 15-5-1973)




Thứ Hai, 24 tháng 3, 2025

LẤY ĐỨC BÁO OÁN - Đỗ Phương Khanh

 

Trong những thư tâm tình với chị, có một số em đã than phiền rằng chỉ vì em đó học khá, được thầy thương, nên bạn ghét, luôn luôn kiếm chuyện và nhạo báng, lại còn vu cho tội nịnh thầy để lấy điểm.

Chị thấy rằng nếu chị ở hoàn cảnh em đó, thì chị cũng đau lòng lắm, mà chị cũng không biết làm cách nào để giải oan. Vậy nhân đây chị trích ra một câu chuyện cổ, nói về cách làm cho người ta bỏ thói đố kỵ, để các em coi, rồi suy ngẫm nhé.

Tưới dưa cho người

Tống Tựu làm quan Roãn một huyện gần biên thùy nước Lương, chỗ giáp với nước Sở.

Người đình trưởng ở biên thùy nước Lương cùng người đình trưởng ở biên thùy nước Sở, hai người cùng trồng dưa. Người bên nước Lương chăm làm và tưới luôn nên dưa tốt. Người bên nước Sở biếng làm và tưới ít nên dưa xấu.

Quan Roãn ở ngay huyện biên thùy nước Sở, thấy bên Lương tốt hơn dưa mình, cũng sinh ra ghen ghét, đêm đêm cứ lẻn sang cào vò dưa của bên Lương, đến nỗi dưa bên ấy phải héo chết mất một ít.

Sau người đình trưởng nước Lương biết mới nói với người trưởng lại trong huyện, ý cũng muốn lẻn sang cào vò dưa bên Sở.

Người trưởng lại đem việc ấy nói với Tống Tựu.

Tống Tựu bảo:

- Ôi! Sao lại thế? Thế chỉ là gây thù oán, chuốc tai vạ thôi. Nầy ta bảo ngươi, chớ sang cào dưa của người ta, cứ đêm đêm lén sang tưới dưa cho người ta mà đừng để cho người ta biết.

Người đình trưởng cứ theo thế mà làm.

Sau dưa bên Sở mỗi ngày một tốt. Người đình trưởng nước Sở lấy làm lạ, xét mãi ra mới biết người đình trưởng nước Lương làm giúp.

Quan Roãn nước Sở biết rõ việc ấy, lấy làm vui lòng, tâu lên vua Sở.

Vua Sở biết chuyện, buồn và có ý thẹn, nghĩ rằng: ngoài cái tội đi cào dưa của người ta, chắc còn có nhiều việc khác đáng tội với người ta nữa.

Vua bèn lấy nhiều của dưa sang tạ tội vua Lương và xin giao hiếu.

Vua Lương cũng tin lòng. Thành ra hai nước giao hòa với nhau được lâu.

Cổ ngữ có câu: "Chuyển bại nhi vi công, nhân họa nhi vi phúc" : nghĩa là xoay cái bại mà làm nên công, nhân cái họa mà gây phúc. Lão Tử có nói: "Báo oán dĩ đức" nghĩa là đem đức để báo oán. Hai câu ấy  tức như chuyện nầy.

Ôi! Người ta đã làm không phải, sao mình lại còn bắt chước người ta.

Giả Tử Tân Thư      

Dĩ nhiên rằng những bài làm để thầy thử sức, thì không cho bạn chép mới chính là giúp bạn, nhưng nếu bạn quên một vài công thức, thì tiếc gì mà lại giữ bí mật, có phải không các em? Chẳng nên coi sự quên của người ta là điều may mắn cho mình, giúp mình có cơ hội để được hơn điểm. Thực tài là ở những điều mình chất chứa trong óc, thấm nhuần trong tim, chứ hơn thua vài điểm chỉ là chuyện giai đoạn, chị mong các em của chị bứt được ra khỏi những ghen tị, đố kỵ, để tâm hồn cao lên, cho xứng danh dòng giống Lạc Hồng.


Chị ĐỖ PHƯƠNG KHANH    
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 122, ra ngày 1-3-1974)



Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

CHIỀU TÍM LỤC BÌNH - Thơ Thơ

 

Cánh hoa màu tim tím
Trôi buồn trên bến sông
Sóng xô hoa trôi dạt
Sắc hoa buồn mênh mông

Em yêu màu hoa tím
Màu gợi nhớ tuổi thơ 
Những chiều vàng nhạt nắng
Em vẫn thường hay mơ

Mơ quay về chốn cũ
Tìm hoa tím lục bình
Ngày nào trên bến vắng
Em hái cánh hoa xinh

Hương hoa sầu man mác
Nhụy hoa phơn phớt vàng
Nhớ sao màu hoa tím
Trên cõi đời mênh mang

Mây trôi về cố xứ
Tìm màu tím năm xưa
Bến sông chiều năm ấy
Sao quay về tuổi thơ

Những chiều buồn thơ thẩn
Bao chiều đã qua rồi
Ấu thơ không trở lại
Ngậm ngùi con nước trôi...

                               Thơ Thơ 
                      (Bút nhóm Hoa Nắng)


Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2025

VINCENT VAN GOGH - Huy Yên

 

Nhà danh họa Vincent Van Gogh sinh ngà 30-3-1853 tại Braband du Nord Hòa Lan. Ông là một họa sĩ thời danh, các tác phẩm của ông được mọi người ca tụng và coi như những tác phẩm có nét độc đáo nhất thể hiện được bộ mặt thực của cuộc sống thời bấy giờ. Bởi lẽ cuộc đời của ông là cả một thảm kịch, cái nghiệp chướng đeo đuổi khiến ông thành điên dại cho đến phút cuối cùng đời ông.

Gia đình ông có 4 anh em, cha là một mục sư không lấy gì làm khá giả lắm. Người anh lớn tên Théo được ông yêu mến nhất và cũng chỉ có Théo là người săn sóc, đeo đuổi giúp đỡ Van Gogh tận tình cho đến khi ông thở hơi cuối  cùng.

Vincent van Gogh học hội họa đến năm 16 tuổi thì bỏ dở, xin làm chân bán hàng và phụ làm các bức họa trên kính cho nhà Goupil tại La Haye năm 1861 cùng với Théo, thế nhưng vài năm sau, 1873, ông bỏ sở làm để đi Luân đôn. Cuộc đời ông bắt đầu nếm mùi thất vọng từ đây. Van Gogh yêu một cô gái Luân đôn, nhưng không chịu cưới làm vợ, Van Gogh bỏ đi vài tháng sau đó. Hành động này làm cho lương tâm day dứt, dầy vò, khiến ông chán nản không muốn làm việc gì cả. Ông lại đi Paris rồi trở về La Haye, ở đây ông xin học thần học tại Amsterdam và Bruxelle nhưng chẳng bao lâu ông lại chán nản bỏ cuộc vì nhận thấy mình không có tài hùng biện uyên bác. Ông xin nhập vào hội thừa sai để đi giảng thánh kinh. Van Gogh được gởi tới miền Borinage, một miền hầm mỏ thuộc Bỉ, đông đảo dân chúng thuộc giới lao động nghèo khổ. Tại đây ông đem hết tâm tình ra làm việc truyền giáo, an ủi những con người lầm than vất vả mà thời bấy giờ người ta khinh miệt gọi là lũ thấp cổ bé miệng. Ông chia sẻ nỗi khổ sở nghèo túng của họ. Van Gogh phân phát tất cả những gì ông có cho đám người bị bóc lột cả tinh thần lẫn vật chất. Hành động say sưa của ông đôi khi đi đến quá khích khiến hội thừa sai phải triệu hồi ông về và cất chức không cho phép ông được rao giảng thánh kinh. Lại một lần thất bại nữa, ông buồn nản vô cùng. Giữa lúc này thân phụ ông đến tìm ông để an ủi nhưng ông không tìm thấy một nguồn an ủi và lòng can đảm nơi cha ông. Tuy nhiên, trong những ngày sống trầm lặng, ông đã tìm ra con người thực của mình. Van Gogh đã nhận ra cái ơn kêu gọi về hội họa. Thế là ông say sưa quên ăn quên ngủ để lao vào con đường mới. Mùa thu năm 1880, ông lên ở với Théo và ghi tên vào lớp hội họa tại Bruxelle, rồi lại trở về quê ở với thân phụ, những bóng dáng chất phác của nông dân đã lôi cuốn ông mãnh liệt, do đó cây cọ của ông đã dành hết cho đồng quê.

Nhưng một biến cố đau buồn lại xẩy đến, lý do là ông xin cưới một người bà con góa, bị từ chối, và người đó đi lấy chồng.

Năm sau, tình cờ có một cô gái tha thiết yêu Van Gogh nhưng gia đình cô cự tuyệt không gả cho Van Gogh, vì cho rằng ông có nhiều tiếng tăm không mấy tốt đẹp, sợ làm tổn thương đến danh dự của gia đình. Bị ngăn cản, cô gái định tự tử. Sự việc này xảy ra khiến cho nhà họa sĩ đồng quê không còn một mảy may tin tường nào vào cuộc sống, cái hiện tại đối với ông chỉ là tồi bại. Van Gogh dồn hết tâm trí vào cây cọ để đem tâm tình trải lên khung vải, lấy mầu sắc làm vui, nét vẽ làm bạn. Bức họa thời danh tả lại chân dung của Anton Muave đã an ủi khuyến khích ông vô cùng, do đó từ 1881-1886, ông chuyên môn tả những cuộc sống lầm than vất vả, những nỗi cực nhọc của người dân quê lúc bấy giờ. Nhưng trái lại những người nhà quê lại coi đây là một hành động đáng nghi ngờ và là một mối hận thù vĩ đại. Cái chết bất thình lình của thân phụ ông đã chứng tỏ cái mối thù kia đang bộc phát. Do vậy, ông bỏ đi Anvers để học thêm lối vẽ sơn dầu và lối vẽ thủy mạc của Á đông. Năm 1886, Van Gogh cùng anh lên Ba-lê, ở đây ông chịu ảnh hưởng nghệ thuật của Pháp về mầu sắc, âm độ nhưng cũng chẳng được lâu, ông chán nản cái không khí Ba-lê, rồi đến Midi năm 1888, để tìm mầu sắc và phong cảnh lạ, ông tới Arler, một tỉnh nhỏ. Ở đây sự nghiệp của ông mới thực sự bắt đầu đi vào con đường rực rỡ đầy ánh sáng của thế giới mầu sắc và chiếm một chỗ cao trong hàng hội họa quốc tế. Những bức họa của ông đã gây ảnh hưởng mãnh liệt, tạo nên phong trào "trở về đất" nổi lên thời bấy giờ.

Những bức họa về hoa, về cảnh cũng như bức họa nổi tiếng "Cà phê đêm" (Café nuit) đã đưa ông đến danh vọng tột đỉnh. Sự thành công này hối thúc Van Gogh tổ chức một trung tâm hội họa qui tụ tất cả danh tài lại sống chung với nhau, và thành lập một nội qui giống như những viện từ ngày xưa. Cộng sự viên thân tín và đắc lực nhất của ông là họa sĩ Gaugain. Mặc dầu phải vất vả cực nhọc mới thành lập xong trung tâm này, nhưng đây lại chính là niềm vui lớn của Van Gogh. Song, niềm vui này không được lâu, trung tâm dần dần tan rã, vì tính tình dị biệt của Van Gogh làm cho bạn bè ngày một xa lánh. Không ngày nào Van Gogh không tranh luận, la hét, đôi khi đến xô xát với bạn bè về những nguyên tắc hội họa, những quan niệm về cuộc sống. Bạn bè xa ông, ông buồn lại lăn xả vào cà phê, thuốc lá, rượu... làm cho thần kinh mất thăng bằng, không tự chủ được trong các cuộc bàn luận, có lần ông đã ném cả cái ly vào mặt ông bạn Gauguin trong lúc tranh luận. Gauguin giận trở lên Ba lê, ông tức tốc đuổi theo, tay cầm dao cạo, nhưng không tìm thấy bạn, ông tức giận trở về quán trọ cắt luôn tai trái của ông vụt xuống đất. Tình bạn giữa ông và Gauguin chấm dứt từ đấy. Sức khỏe của nhà danh họa càng ngày càng yếu. Ông vào nhà thương dưỡng bệnh tại Saint Renuy, tuy nhiên ở đây ông cố gắng vượt thất vọng và cô quạnh, nhất là cái không khí buồn vắng tại nhà thương, ông tìm quên lãng bằng cách họa hết các khung cảnh của dưỡng đường này.

Ra khỏi bệnh viện, ông trở về ở với Théo, anh ông gởi ông đến Bác sĩ Gachet, một bác sĩ có lương tâm nghề nghiệp, nhất là lại thích hội họa nên hết lòng săn sóc chiều chuộng Van Gogh. Ở nơi yên tịnh, sức khỏe khả quan và bác sĩ Gachet cảm thông hoàn cảnh của mình, Van Gogh bắt đầu làm việc. Ông chuyên về phong cảnh đồi núi, cánh đồng, ruộng lúa, không kể đến bức họa danh tiếng: chân dung bác sĩ Gachet. Sống chung với vị y sĩ này được một thời gian, ai cũng hy vọng sức khỏe của ông có thể bình phục hẳn, nhưng chẳng bao lâu Van Gogh lại cảm thấy không khí ở đây quá quen thuộc nên nhàm chán và cũng từ đấy những vết thương thất vọng, nghi ngờ, yếm thế về cuộc sống bừng dậy làm ông quẫn trí. Buổi sáng chủ nhật ông ra cánh đồng rút súng tự sát. Không chết, ông cố lết về căn phòng của quán cà phê Ravoux. Bác sĩ Gachet và Théo được cấp báo vội vã đến thăm, nhưng tình trạng sức khỏe của Van Gogh kiệt dần. Sau 2 ngày quằn quại trong đau đớn, sang ngày 29-7-1890, ông trút hơi thở cuối cùng trong tay người anh yêu quí.

Con người của Van Gogh quá đa nghi, nhút nhát, gây nên những hành động dị biệt khiến ông không thích nghi với cuộc sống và con người, đồng thời chống đối để đi đến tình trạng bi quan yếm thế, coi người đời như là thù địch, xa cách không thể thông cảm với nhau được. Nhưng nếu nói về sự nghiệp nghệ thuật của Van Gogh, không ai có thể so sánh với ông về tài nghệ. Trong quãng đời quá ngắn ngủi, ông đã đem hết tâm tình khắc khoải của mình trút lên cây cọ khiến cho ông sáng tạo được những bức họa bạo dạn về đường nét cũng như màu sắc. Nếu chúng ta tận hưởng nghệ thuật của danh tài Van Gogh chúng ta phải so sánh những bức họa của ông tại Hòa Lan và nghệ thuật hội họa đồng thời tại khắp nơi, chúng ta mới thấy rõ cái ý nghĩa cao đẹp, nguồn hứng khởi siêu việt mang mầu sắc xã hội và nhân đạo tính trong các tác phẩm của ông.


HUY YÊN       

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 78, ra ngày 25-2-1973)


Thứ Tư, 19 tháng 3, 2025

CHÚ THỎ HAM CHƠI - Tú Kếu Trần Đức Uyển

 
 
Thỏ con cắp sách đến trường
Trường xây ở cuối khu rừng xinh xinh

Hoa cười chào nắng bình minh
Lá run rẩy múa lượn mình trên cao

Cảnh rừng thơ mộng làm sao
Thỏ quên lời mẹ dự vào cuộc chơi!

Ô kìa anh Sóc tới nơi
Thỏ mừng có bạn một đôi vui đùa

Trong rừng bác Hổ làm vua
Mỗi khi đói bụng hay vồ trẻ con

Đang khi thỏ sóc cười ròn
Bác gầm một tiếng mắt tròn bánh xe

Ào ào vuốt múa, răng nhe
Thỏ con sợ quá hôn mê biết gi!

Thế là bác Hổ tha đi
Mới hay thân thiệt, chỉ vì ham chơi

                         TÚ KẾU TRẦN ĐỨC UYỂN

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 32, ra ngày 2-4-1972)



Thứ Ba, 18 tháng 3, 2025

ĐÊM MƯA GÁC NHỎ - Yên Lam Sơn Tử

 

Gió lạnh đêm trường qua gác nhỏ
Trà khô buồn rụng tối liên ca
Con nằm trơ trọi trong phòng vắng
Chạnh nhớ mẹ hiền ở chốn xa

Không biết Đông về mẹ lạnh chăng?
Sao lâu không thấy mẹ lên thăm?
Khuya buồn, con nhớ mẹ nhiều lắm!
Nhớ lúc mẹ cười nghiêng bóng trăng...

Lòng mẹ thương con ngập bến bờ
Những ngày trọ học quá bơ vơ,
Con thèm hơi ấm trong tay mẹ
Và những nụ cười nuôi tuổi thơ.

Mưa lối truông nghèo, mưa ngả nghiêng
Mình con trong buổi tối triền miên
Mẹ ơi, xin mẹ về bên trẻ
Cho giấc mộng dài xanh mắt tiên...

                                       Yên Lam Sơn Tử
                                    (Văn nghệ MÂY TRỜI VIỆT)

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 65, ra ngày 15-3-1967)

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2025

THẾ GIỚI THẦN TIÊN CỦA SAN HÔ - Huy Yên

 

Mùa Noel 1492, con tầu chỉ huy Santa Maria của Christoph Colombe trên đường thám hiểm Mỹ Châu đã bị vỡ tan tành từng mảnh gần mũi Hải Tiên (Haitien) vì va phải đá ngầm. Nhờ tai nạn này mà thế giới mới biết đến thế giới thần tiên của San hô.

Đối với những tay thợ lặn thì đây là một phần thế giới kỳ diệu nhiệm mầu. Một thế giới của muôn mầu, muôn hình vạn trạng, sống động, nhộn nhịp, lung linh huyền ảo... Đây cũng là một thế giới xây dựng bằng hàng tỷ, hàng triệu sinh vật đủ mọi trạng thái mềm, dẻo, cứng... chồng chất lên nhau hàng hàng lớp lớp. Ta muốn cho nó bằng nhung cũng được! Bằng sứ cũng không sai. Bằng những sợi tóc của thiên thần càng có ý nghĩa! Bằng tinh thể của đường cát trắng hay bằng những cánh hoa rực rỡ muôn mầu? Không sao! Phải nói là san hô có muôn vẻ ngàn hình không thể tả xiết.

Loài thạch tàm này là những nhà kiến trúc siêu việt! Nó đã tạo dựng nên những kỳ công tuyệt phẩm trước khi con người biết kiến tạo. Những lâu đài tráng lệ nguy nga của các bạo chúa xây trên ngàn vạn sinh linh từ ngàn xưa tới nay so với san hô cũng chỉ là những kiến trúc tầm thường, những công trình của các chú lùn nhỏ bé. Các nhà sinh vật học đặt cho loài thạch tàm này một cái tên tuy kém vẻ thơ mộng nhưng đúng với sự kiến tạo của nó: "Loài rỗng ruột". Từ xa xưa, người ta cho rằng san hô chỉ là một loại cây sống ngầm dưới nước, ai có ngờ đâu chính nó là những sinh vật nhỏ bé kết tụ lại và mầu sắc thay đổi tùy theo địa phương: San hô ở Nhật mầu trắng như men sứ, ở Địa trung Hải mầu hồng thế nhưng ở Hạ uy di và Biển đỏ nó lại đen nhánh như than đá.

Giải phẫu một con san hô chúng ta thấy nó là loài ăn thịt, toàn thân chỉ là một ống thịt, có một túi tiêu hóa duy nhất dài chừng vài mi li mét, có những đường rãnh hướng vào tâm gọi là xoang trường. Trên đầu là một hấp khẩu lọc ra như đài hoa, cánh hoa chính là những tay mảnh khảnh rất hoạt động sẵn sàng thâu bắt những vi khuẩn bơi lội, bén mảng đến gần. Chúng tiêu hóa và lại nhả ra ngay bằng chính hấp khẩu. Hấp khẩu này cũng chính là nơi sinh sản, gieo giống... Phía dưới là chân dính chặt vào một cái bệ hình cái đĩa bằng đá vôi. Đĩa này lại cũng dính chặt vào một vật cứng như đá ngầm nhưng thường thì dính vào các khối san hô đã chết. Khi còn non san hô giống như những loài sứa hay ấu trùng có vẻ tự do nhưng bám chặt vào nơi nhất định nào đó. Cũng có những loài san hô đơn độc không liên kết thành từng khối. Loài này sinh sản mau lẹ và thường hướng theo chiều thẳng đứng vươn lên tìm nơi ánh sáng mặt trời.

Có bao nhiêu khối san hô trong các đại dương? Không ai có thể trả lời được, nhưng về phương diện kiến trúc thì Vạn lý trường thành, Kim tự tháp... sánh với san hô chẳng thấm vào đâu. Tất cả các đại dương đều có mặt san hô dù dưới hình thức này hay hình thức khác nhưng với điều kiện nước biển ấm và dưới một độ sâu từ 10 - 15 thước. Có ánh sáng mặt trời. Độ ẩm lý tưởng nhất cho san hô là 20 độ bách phân và phát triển mạnh nhất ở vĩ độ 28 Bắc và 28 Nam. Nơi nào có bùn, cặn, nước đục san hô sẽ chết ngộp liền.

Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao san hô chỉ sống được ở độ sâu tối thiểu, cần ánh sáng mặt trời và nước trong? Trong khi đó có những sinh vật tương tự như loài sao biển lại có thể sống và phát triển được ở dưới độ sâu cả ngàn thước.

Theo Darwin, một nhà sinh vật học danh tiếng, khi khảo sát về loài này đã nhận định như sau:

Có 3 loại san hô:

- San hô mọc từ triền bờ biển.

- San hô đảo.

- Vòng đai san hô.

Cả ba loại đều bắt nguồn và đặt nền móng trên những lớp san hô già chết từ xa xưa và bây giờ các lớp mới mọc chồng. Lớp già cũ lâu dần chìm xuống đáy biển. Cũng có khi đáy biển bồi lấp và mực nước dâng lên. Do đó san hô bây giờ chỉ là cái ngọn hay nói cách khác là các chóp san hô tăng trưởng, lan rộng hướng về nơi có ánh sáng mặt trời. Như vậy san hô không phải loài sinh sống ngầm dưới đáy biển mà vốn ở một độ sâu nào đó mà thôi!

Khoa học ngày nay đã xác nhận sự phán quyết của Darwin bằng cách thám hiểm sâu dưới 1200 thước, nơi có san hô sinh sống đã thấy rằng san hô đều bám trên các tảng núi lửa hay những đồi núi ngày xưa đã bị vùi lấp chìm dần xuống đáy biển. Một bằng chứng cụ thể là người ta đã khám phá ra rất nhiều đảo san hô trong vùng biển Thái Bình Dương ở Pô-ly-ne-di (Polynesie) vừa mới trở thành các đảo san hô bao quanh vịnh Ca-ra-ít (Carait) là những cồn san hô nổi tiếng, nơi đây đã trở thành nghĩa trang chôn vùi biết bao thuyền tàu thời trung cổ. Dãy san hô Gờ-răng-băng (grand Banc) thuộc hải phận Ba-ha-mat (Bahamas) rộng lớn đáng kể. Dãy san hô chạy dài hàng mấy ngàn cây số, rất đẹp, hùng vĩ nhất thế giới chạy dọc theo bờ đại lục Úc Châu và phát triển rất mạnh nhờ có dòng gulf stream nuôi dưỡng.

Cũng như tất cả các sinh vật khác rất vất vả để đấu tranh giành quyền sống, cuộc chiến đấu liên tục không ngừng ngày đêm đã diễn ra cho dòng dõi nhà san hô. Kẻ phá hoại ghê gớm là các làn sóng và các triền nước rớt xuống biển từ các lục địa làm trôi dạt san hô và nhất là giảm bớt lượng muối cần thiết cho san hô con tăng trưởng. Sau, phải kể đến các động và thực vật cũng xúm nhau vào tàn phá hủy hoại chúng. Loài cá mỏ vẹt không ngừng quấy phá, nó cùng cái mỏ cứng như sắt bẻ gẫy các nhánh san hô và nhai ngon lành như không! Ngoài ra còn một số kẻ thù khác cũng không kém phần quan trọng chuyên ăn bám vào san hô cả một đời!

Tuy nhiên, để bù lại tạo hóa đã cho san hô dòng dõi thạch tàm này một năng lượng sản xuất rất kinh khủng nên cuộc chiến bao giờ cũng nghiêng phần thắng về cho san hô. Chúng cũng còn có những phương cách khác để bảo vệ mầm non như tạo nên những hang động để tránh sóng, những cụm san hô lửa sẵn sàng đốt cháy kẻ thù nào cọ sát, phá hoại...

Cái vẻ muôn mầu rực rỡ huyền diệu ấy cũng là nơi dung thân cho một số cá mỗi khi gặp biến loạn! Cũng như nuôi dưỡng chúng suốt đời sung túc. Những loại cá thu, cá hồi, cá mập, cá nhám có thân mình thon gọn, vây ngắn, mỗi khi có báo động là chui tọt vào cung điện nguy nga rất an toàn. Cũng có những loại cá ranh mãnh hơn lẩn quất trong các cụm san hô để ngụy trang đổi mầu cho dễ săn mồi như loài cá Đi-ô-đông (Diodon) từ một làn da trắng trơn chúng đổi thành lốm đốm trông như những con beo biển tiệp với mầu san hô để đánh lừa con mồi ngu ngốc bén mảng tới gần. Những con cá vằn vện cũng sống nhờ ở các khóm san hô!

Đối với các tay thợ lặn thì đây là một thế giới đầy lạ lùng, mầu sắc rực rỡ, tô điểm cho lòng đại dương. Họ cho đây là một thế giới của thần tiên. Các sắc dân sinh sống ở đây thật nhàn hạ sung túc, về ban đêm thế giới san hô càng trở nên linh động lạ lùng mà con người chưa thể tìm hiểu được bao nhiêu điều kỳ bí của nó.


HUY YÊN       
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 82, ra ngày 25-3-1973)


Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2025

CHỈ PHẢI TIẾN TỪNG CÂY SỐ MỘT - Nguyễn Hiến Lê tuyển dịch

 

Hồi đó tôi mới mười bảy tuổi và… bị một cơn sợ ghê gớm. Anh bạn học Walter port và tôi cùng nhau lao vào một cuộc mạo hiểm kỳ thú nhưng cũng thật là ngu xuẩn: chúng tôi muốn cho biết rằng có thể chèo một chiếc xuồng nhẹ từ Minneapolis tới điểm bán da lông của hãng York trên vịnh Hudson. Chúng tôi đã chèo tới được Norway House ở phía cực bắc hồ Winnipeg. Từ đó còn phải chèo một quãng dài 725 cây số nữa qua một miền hoang vu, chỉ gặp được một thị trấn nhỏ ở dọc đường. Những bản đồ chúng tôi mang theo đều sơ sài quá mà hôm đó đã là ngày mồng một tháng chín!… Sông hồ sắp đóng băng.

Nhân viên cảnh sát Gia nã đại do dự không muốn cho chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình và sau cùng cũng miễn cưỡng cho phép chúng tôi. Cả đêm trước ngày khởi hành chúng tôi thao thức, nghĩ tới nỗi gian nan dọc đường, nửa sợ nửa tự ái. Nếu bị chìm xuồng hoặc bị mắc kẹt vì nước đóng băng thì không hy vọng gì thoát chết được. Mà nếu bỏ nửa chừng thì còn mặt mũi nào trông thấy gia đình, bạn bè nữa?

Tòa soạn nhật báo ở Minneapolis tường thuật từng giai đoạn cuộc hành trình của chúng tôi, chủ ý để nêu tên tôi trong bước đầu vào nghề viết văn, sẽ khinh bỉ chúng tôi ra sao? Và chính Walter và tôi sẽ có thái độ ra sao khi làm cho mọi người thất vọng như vậy?

Lúc khởi hành, một thợ săn Đan Mạch lực lưỡng tới chúc chúng tôi « thượng lộ bình an ». Ông siết chặt tay chúng tôi bảo:

Các cậu chỉ nên nghĩ tới cây số trước mặt thôi, đừng bận tâm đến những cây số ở xa hơn nữa nhé. Như vậy thì sẽ tới đích được.

Tôi chưa bao giờ nhận lời khuyên chí lý như lời khuyên đó.

Biết bao lần, ban đêm, tôi trằn trọc, lăn qua lăn lại trong cái xắc-mền lạnh buốt, lo lắng về quãng đường dài dằng dặc phải vượt qua mà nhớ lại lời khuyên của người thợ săn Đan Mạch đó! Trong bao nhiêu ngày chèo chống lặn lội, khiêng xuồng và đồ đạc, chúng tôi đã có dịp nghiền ngẫm về lời khuyên đó, tinh thần chúng tôi thấm nhuần lời khuyên đó. Chúng tôi chỉ nghĩ tới cái thác ở phía trước, tới chỗ cắm trại ở phía trước, tới cây số ở phía trước thôi.

Sau cùng, một đêm tối như mực, chúng tôi đã vượt được cây số cuối cùng. Bẩn thỉu, mặt mày hốc hác, quần áo rách tươm, lương thực gần hết nhẵn, chiếc xuồng hư nát tệ hại, chúng tôi lết lên bờ, trong luồng ánh sáng vàng vọt từ điểm bán hàng của hãng York chiếu ra.

Từ hồi đó, tôi có nhiều dịp nhận thấy lời khuyên của người thợ săn Đan Mạch đó rất đúng: chỉ phải tiến từng cây số thôi. Chẳng hạn, mười ba năm sau, trong thế chiến thứ nhì, tôi và vài anh bạn ngồi trong một chiếc phi cơ chuyên chở của nhà binh. Chúng tôi đang bay trên khu rừng biên giới Ấn độ-Miến điện thì máy bay hư, chúng tôi phải nhảy dù xuống. Nếu có đoàn cấp cứu nào được phái tới thì cũng phải mất hàng tuần mới tới chỗ của chúng tôi. Vì vậy chúng tôi không thể nào đợi được, đành cực khổ len lỏi lần lần về phía Ấn độ, vượt quãng đường 225 cây số, qua một miền núi non hiểm trở, dưới ánh nắng cháy da và những trận mưa tầm tã.

Chúng tôi vừa khởi hành thì chẳng may, chân tôi bị thương vì chiếc đinh trong giày; buổi tối đó, hai bàn chân tôi phồng lên, rướm máu. Khập khiễng như vầy thì làm sao vượt được hơn hai trăm cây số? Mà các bạn tôi có anh tình trạng còn bi thảm hơn tôi, làm sao đi được cho tới hết đường? Không ai tin rằng sẽ tới nơi được. Không đi hết đường được, nhưng ít ra cũng khập khiễng lết tới đỉnh đồi phía trước, tới làng xóm phía trước tìm một căn nhà xin tá túc; và chúng tôi chỉ mong được bấy nhiêu thôi.

Óc tưởng tượng là một con dao hai lưỡi: nhờ nó mà có những công trình lớn lao nhưng cũng vì nó mà lòng can đảm của ta nhụt đi, không thực hiện được những công trình đó. Tôi vốn nhút nhát và đôi khi tự biện hộ vì tôi có óc tưởng tượng mạnh, dễ thấy những nguy hiểm sẽ xảy ra nên không được bạo gan. Cho nên đã nhiều lần, khi gặp gian nan về thể xác hay đau khổ về tinh thần, tôi phải nhớ lại quy tắc: “cây số ở trước mặt” rất hữu ích đó.

Ngày tôi bỏ chỗ làm có lương cố định để bắt đầu viết một cuốn sách dài hai trăm năm chục ngàn tiếng, tôi rán không để cho công trình lớn lao đó thôi miên tôi. Nếu không, chắc chắn tôi đã phải bỏ dở một tác phẩm làm cho tôi vinh hãnh nhất trong nghề cầm bút của tôi. Tôi rán chỉ nghĩ tới đoạn sau thôi, không nghĩ tới trang sau nữa, lại càng không nghĩ tới chương sau nữa. Thành thử trong sáu tháng tôi chỉ viết từng đoạn từng đoạn một. Và tôi phải thú thực rằng, tác phẩm đó “tự nó thành hình.”

Mới mấy năm trước đây, tôi nhận mỗi ngày phát thanh một bài cho một đài nọ. Tới hôm nay, những bài tôi phát thanh đạt tới con số hai ngàn. Nếu hồi đầu, người ta bảo tôi phải ký hợp đồng cung cấp hai ngàn bài thì chắc tôi đã thụt lùi không dám nhận công việc lớn lao đó. Nhưng người ta chỉ đòi hỏi tôi mỗi ngày một bài thôi và tôi cũng chỉ soạn mỗi ngày một bài thôi.

Đức kiên nhẫn có thể thay đức cam đảm được và theo tôi, không có hình thức kiên nhẫn nào bằng hình thức mà người thợ săn Đan Mạch đã khuyên chúng tôi nhớ kỹ rằng chỉ phải tiến từng cây số một.

 

 Tác Giả: Eric Sevareid
Nguyễn Hiến Lê tuyển dịch

 Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com


Thứ Năm, 13 tháng 3, 2025

THẬT BÌNH YÊN - Thương Vũ Minh

 
 
rồi áo trắng bay ngập lối đến trường
như buổi sáng em cúi đầu trong sương
trên cao chim buồn không lên tiếng hót
cho dấu chân hồng êm đềm tơ vương

em đâu còn nhớ buổi chiều rất xa
mây cứ vương tơ trên lối ngọc ngà
em đi rất chậm ngỡ hồn chùng xuống
nắng như ngủ yên trong vùng bao la

không có mưa rơi cho em thấy buồn
ngày thật hiền hòa êm như gác chuông
có lời thánh ca vút cao cung điệu
rồi như hòa vào tiếng hót chim muông

em có hay ngày tháng trôi bình yên
giữ mãi cho em bờ mắt ngoan hiền
bao giờ cũng thấy mình là bé dại
thật đẹp giữa trời mưa gió triền miên

xin như nụ hồng tròn vẹn trên cao
áo vướng lá bay thương yêu dạt dào
mây bay trắng cả một đời hạnh phúc
mắt ngơ ngác nhìn hàng cây xôn xao

                                       THƯƠNG VŨ MINH

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 150, ra ngày 1-4-1971)



Thứ Tư, 12 tháng 3, 2025

NGƯỜI NỮ KIỆT - Lệ Kiều Trang

 

Ánh hoàng hôn dần tắt chỉ còn le lói một màu đỏ ửng sau rặng đồi. Cả thôn trang chìm trong yên lặng. Nhà nhà đóng cửa kín mít. Cảnh giã gạo vui chơi dưới trăng đã mất hẳn từ khi quân Minh dựa vào cớ "Phù Trần Diệt Hồ" để rồi nhân dịp đó đặt nền đô hộ trên giang sơn đất Việt. Chúng vung tiền ra mua chuộc bọn tham quan và bọn này dựa vào thế lực ngoại bang lại càng lộng quyền: Cướp phá giết oan người vô tội...

Không thể nhịn nhục được, từng đoàn người đã đứng lên khởi nghĩa. Họ hoạt động âm thầm và bí mật, ước mong có ngày diệt được bọn cướp nước tham tàn.

Sương chiều phủ lạnh. Từ cuối chân trời bỗng hiện ra hai bóng kỵ mã, một trẻ một già. Đôi tuấn mã song song cất bước. Người trẻ là một thanh niên nhỏ nhắn, tóc búi cao. Đôi mày vòng nguyệt hiện rõ ra trên đôi mắt đen huyền điểm hai làn mi cong vút, thêm vào đó, sống mũi dọc dừa, đôi môi đỏ tợ son đã làm cho thanh niên có vóc dáng một thiếu nữ. Tuy nhiên cặp mắt huyền của chàng sẽ quắc sáng lên đối với kẻ nào dám diễu cợt.

Đến bìa rừng, thanh niên khẽ hú lên vài tiếng. Người đi cạnh chàng khẽ hỏi:

- Chẳng hay công tử quyết định thế nào về câu chuyện hồi chiều trong quán dịch?

Thanh niên không đáp, chỉ bồn chồn cố giương mắt nhìn trong bóng đêm và chắc lưỡi:

- Ta nóng lòng quá. Nếu trễ ắt sẽ hiểm nguy.

Lời chàng vừa dứt thì một đốm sáng nhỏ đã di chuyển đến gần. Một tên quân cầm đèn khẽ cung kính thưa:

- Xin Công tử theo tôi.

Thanh niên và lão già xuống ngựa lặng lẽ theo sau tên quân. Qua lùm cây rậm rạp và u tối, họ đến trước một ngôi nhà nhỏ khuất trong rừng sâu.

Tên quân khẽ nói:

- Xin Công tử vào. Tướng công đang nóng lòng đợi.

Thanh niên xô cửa bước vào. Bên trong ngồi chính giữa là một vị võ quan râu tóc đã hai màu nhưng vẻ hào khí hiện rõ trên nét mặt. Hai bên là những vị tướng lãnh oai nghi và chăm chú nghe những lời bàn của lão quan.
 
Thanh niên cung kính thưa:
 
- Con là Trần Anh Thư xin phủ phục trước cha và kính chào liệt vị...
 
Vị lão quan cười khà:
 
- Giỏi lắm, ta có lời khen con gái cưng ta đó.
 
Chàng thanh niên đỏ mặt. Trần lão nói tiếp: 

- Kế hoạch của cha thế nào? Con hãy trình bày cho cha tỏ.

- Thưa cha thành công cả. Quân ta đã làm cho bọn phản quốc Phan Huy vỡ mật. Nhưng... thưa cha, hồi chiều nầy con có nghe trộm được của hai tên quân Tàu nơi quán dịch. Theo chúng thì quân Minh đã khám phá ra nơi ẩn náu bí mật của ta và sẽ đốt phá rừng nầy nội trong đêm nay. Con vội phi ngựa về đây và mong cha quyết định.

Vị lão quan có vẻ trầm ngâm. Lão đưa mắt quan sát thủ hạ của mình. Nét bối rối hiện rõ trên mặt Trần Như, một vị tướng hữu công, nhưng hắn đã vội đứng lên:

- Thưa chủ tướng, theo ngu ý thì ta hãy ở lại đây cho chúng một bài học cùng phát huy uy danh của đảng.

Lê Khang, có vẻ trầm tĩnh:

- Theo tôi thì ta nên tránh đi tìm cơ sở khác vì "tránh voi chẳng xấu mặt nào". Chẳng hay liệt vị có đồng ý không?

Trần Như tức giận:

- Là vị tướng tài như ông, tại sao lại phải sợ chúng, ta cứ ở lại thử sức với chúng xem sao.

- Nhưng bên ta lực lượng còn yếu. Vả lại...

Trần lão can ngăn:

- Ta đã quyết định, phải lập tức rời khỏi nơi đây. Ta sẽ gặp nhau tại đồi phía đông thành phố. Hãy lên đường, Anh Thư theo cha...

Trần Như tức tối đứng lên ném một cái nhìn thù hằn về phía Lê Khang.

Đoàn người vừa ra khỏi rừng ít lâu thì ngọn lửa đã bắt đầu bốc lên. Tiếng cây khô gẫy răng rắc. Thú rừng chạy tán loạn trước tiếng cười thỏa mãn của quân Minh.

Dân chúng quanh rừng ngơ ngác không hiểu chuyện gì đã xảy ra...

*

Người ta không hiểu hai cha con họ từ đâu đến nhưng chỉ biết rằng từ khi có chiếc quán này thì phong cảnh nơi đây đã khác hẳn. Khách tới lui tấp nập, phần đông là bọn lính Tàu.

Người chủ quán là một ông già quắc thước, điềm đạm và hiền hậu. Người con lão nghe đâu tên là Thị Tần, đảm nhận công việc thu tiền cho quán. Nàng đúng là một trang tuyệt sắc giai nhân. Chiếc khăn mỏ quạ làm tôn thêm nước da trắng mịn của nàng làm các anh lính Tàu mê mệt. Quán nàng đóng cửa rất sớm. Khi vầng dương đã khuất hẳn sau dãy núi xa thì cha con lão đã dọn dẹp xong xuôi. Rồi lão cùng người con gái ra đi. Người ta không biết họ đi đâu nhưng đoán rằng họ đi mua sắm gì đó. Vì mê sắc đẹp của Thị Tần và cũng muốn mua chuộc lòng lão chủ quán nên bọn quân Minh để yên cho họ ra đi mà không xét hỏi.

Hôm nay, như thường lệ, tửu quán vẫn đông nghẹt thực khách. Tiếng cười nói vang lên cùng tiếng khua của ly chén. Một người khách vừa xuất hiện nơi của. Đó là một tráng sĩ, lưng đeo trường kiếm, đôi mắt đảo quanh tìm chỗ ngồi. Chàng tiến đến chiếc bàn nơi góc quán. Sau khi gọi tửu bảo lấy rượu, chàng dúi một quan tiền vào tay hắn:

- Ta thưởng công ngươi.

Tên tửu bảo cười híp mắt rồi lụp xụp vào trong. Như hiểu ý, Thị Tần bỏ quầy hàng lui gót. Nàng hỏi tên tửu bảo:

- Có việc gì thế?

- Thưa tiểu thư, anh em Lê Phong, Phan Nhị bị bắt cả rồi, bọn quân Tàu sắp đến quán ta.

- Ta phải vào báo cho cha ta mới được.

- Còn con thì ra dọn cửa hàng phải không tiểu thư?

- Ừ, ngươi cứ ra đi.

Vừa đi, Anh Thư vừa lẩm bẩm:

- Có lẽ nào?

Không mấy chốc đã đến phòng Trần lão, vì chính ông chủ quán là Trần lão còn thiếu nữ chính là Anh Thư. Nghe Anh Thư thưa trình, Trần lão khẽ cau mày:

- Chắc hẳn trong hàng ngũ ta có kẻ bội phản.

- Thưa cha đúng như vậy, và con nghi là... Trần Như tướng quân.

- Có lẽ nào?

- Vừa rồi... con có để ý đến một gã lái buôn ngồi trong góc quán. Gã có gương mặt giống Trần Như và cứ nhìn con chầm chập.

Trần lão chưa kịp nói gì thì có tiếng gõ cửa.

- Ai đấy?

- Lê Khang!

- Cứ vào.

Nơi cửa hiện ra một thanh niên. Đó là người đã cho tên tửu bảo quan tiền và khôn khéo kẹp vào đấy lá thư. Trần lão lên tiếng:

- Việc ta giao cho tướng quân thế nào?

- Thưa chủ tướng thành công cả. Đức Bình Định Vương Lê Lợi tỏ vẻ sung sướng lắm. Ngài còn nói: nếu được chủ tướng về phục vụ dưới cờ, ắt là quân Minh sẽ đại bại.

Trần lão vuốt râu, cười khà:

- Thật là vinh hạnh cho ta. Ngài có dặn điều chi không?

- Thưa, ngài hứa sẽ cho sứ giả đến thăm chủ tướng cùng bàn về vấn đề ấy ngày mai.

- Được, tốt lắm.

Có tiếng gõ cửa gấp rút và tiếng tên tửu bảo:

- Thưa lão gia... nguy rồi! Quân Minh đang tiến đến đây. Chúng chỉ còn cách một dặm đường mà thôi.

Trần lão khẽ cau mày:

- Hừ, lại bọn giặc cỏ. Thôi tướng quân và con hãy tẩu thoát. Cha ở lại cản chúng rồi sẽ theo sau.

Anh Thư ngần ngừ:

- Nhưng...

- Con phải xem đó là thượng lệnh. Hãy đi ngay vì thì giờ cấp bách lắm rồi.

Đợi cho bóng hai người đã khuất dạng, Trần lão lẩm bẩm:

- Tội nghiệp con gái ta chưa được hưởng một phút vui sướng nào trong tuổi hoa niên. Nhưng quê hương đã gọi biết làm thế nào hơn.

Như sực tỉnh, Trần lão vội vã gom góp đồ đạc. Nhưng không còn kịp nữa vì có tiếng quân Tàu đập cửa.

- Chủ quán, mở cửa.

Biết đã muộn, Trần lão lui vào góc phòng tuốt gươm thủ thế.

Trông lão lúc ấy như một vị võ tướng sắp lâm trận.

- Mở cửa...

- Tên súc sanh và con tiện tỳ đã trốn thoát rồi. Hãy lục soát thật kỹ.

Trần lão bừng giận:

- Tên phản quốc. Thế mà từ lâu ta đã lầm mi ; ta đã nuôi ong tay áo.

Trần Như cười ha hả:

- Ha... ha... ha nhờ thế mà ta mới có cân đai, áo mão. Theo nhà ngươi để rồi chết trong rừng già ư? Ngươi nên biết rằng từ lâu ta đã thù hận ngươi, oán ghét ngươi nên mới bí mật đầu hàng Minh triều. Lần trước nhờ có Lê Khang mà ngươi thoát chết thì lần nầy nhờ ta ngươi cũng sẽ an toàn nếu ngươi thuận chỉ cho ta sào huyệt của ngươi...

- Quân vô loại. Hãy đỡ lưỡi kiếm của ta.

Trần lão hươi gươm. Trần Như khẽ phất tay. Bọn lính Tàu đã sẵn sàng. Nhưng thanh gươm của Trần lão tung hoành như chỗ không người khiến chúng núng thế. Hào khí bốc đầy lên mặt, lão hăng say giết từng tên giặc. Nhưng "mãnh hổ nan địch quần hồ"... Sau một hồi giao chiến vì sức già suy yếu, Trần lão ngã gục máu nhuộm đỏ cả người. Bọn lính Tàu ập vào đánh đập túi bụi trả thù cho các đồng đội. Trần Như mỉa mai:

- Lão già ngu xuẩn, hãy ở đó mà chờ tử thần đến rước. Ta đi đây.

Chiếc quán bị đốt cháy. Lửa đỏ bùng lên, ngập sáng một góc trời...

*

Đêm đã về khuya. Ánh trăng thượng tuần nhợt nhạt chiếu trên nền trời không sao. Hai bóng đen âm thầm tiến bước. Bóng thứ nhất khẽ cất tiếng:

- Không hiểu cha tôi ra sao, tôi lo quá tướng quân ạ.

Bóng thứ hai không đáp. Họ đã đến quán dịch. Quang cảnh điêu tàn hiện ra.

- Trời ơi! Chúng đã đốt quán.

Hai bóng đen sờ soạng trong đêm. Nhờ ánh trăng nhợt nhạt, họ đã tìm ra xác của Trần lão, toàn thân bị cháy nám. Anh Thư khóc òa:

- Cha ơi!

Lặng người đi trong niềm xúc động, Anh Thư chỉ kêu lên được hai tiếng "Cha ơi". Lê Khang để yên cho nàng khóc. Chàng đang suy nghĩ miên man về những ngày sắp tới. Có tiếng Anh Thư:

- Tướng quân hãy phụ với tôi một tay. Tôi sẽ để cha tôi nằm yên trong lòng đất mẹ. Xin Tổ quốc hãy minh chứng cho lòng của Anh Thư. Tôi sẽ trả thù cho cha tôi. Tôi sẽ phanh thây thằng Trần Như phản bội.

Đôi mắt nàng long lên sáng quắc. Lê Khang khẽ nói:

- Nếu hồn lão tướng có linh thiêng xin phù hộ cho non sông mau được thái bình. Ta đi thôi, tiểu thư...

*

Nhìn những thoi vàng đỏ chói, Trần Như sung sướng cười vang. Hắn vừa được Minh triều thưởng một xe vàng bạc vì đã có công giết Trần lão, tức là nhổ một cái đinh trước mắt cho nhà Minh.

Bỗng... một tên quân bước vào:

- Thưa ngài, có một thường dân đòi vào diện kiến, hắn nói có việc cần kíp lắm.

- Dẫn hắn vào cho ta.

Trần Như dịu giọng:

- Có việc gì mà ngươi tìm ta?

Người dân quê vừa vào lập bập, run rẩy:

- Thưa... ngài... Con có... thấy Trần... Anh Thư và Lê... Khang.

Đôi mắt Trần Như sáng lên:

- Ngươi nói thiệt chớ?

- Dạ... con đâu dám... dối... ngài làm chi... Hiện giờ họ đang đi về phía rừng tây. Người con gái có... đôi mắt đẹp và người con trai... dáng điệu uy nghi.

Trần Như đứng lên:

- Được, ta tạm tin lời ngươi. Nhưng, muốn được dễ dàng, ngươi phải dẫn đường cho ta. Nếu quả lời ngươi nói đúng ngươi sẽ được thưởng.

- Dạ, con xin hết lòng với ngài.

Lát sau, Trần Như cùng 20 tên quân lên đường. Theo sau tên hướng dẫn, họ tiến vào rừng. Trần Như có vẻ sốt ruột:

- Đã đến chưa, sao lâu thế?

- Dạ... chỉ một đoạn đường nữa thôi... Đại quan đừng nóng giận...

Đến một khúc quanh um tùm, người nọ thúc ngựa chạy nhanh rồi mất dạng. Biết là có biến, Trần Như hô to:

- Hãy giữ vững hàng ngũ.

Nhưng không kịp nữa, từng loạt mưa đá, mưa tên bắn xuống. Tiếp theo là lệnh truyền trong trẻo của một thiếu nữ vang lên:

- Anh em ráng bắt cho được tên Trần Như phản quốc.

Anh Thư xuất hiện, gọn gàng trong bộ võ phục. Hai mươi tên giặc đã nằm sóng sượt trên đất, rên siết, quằn quại.

Trần Như trúng tên nơi tay, hắn còn đang loay hoay thì đã bị nghĩa quân trói gô lại. Người dân quê lúc nãy xuất hiện, cười khà:

- Kính chào Trần Như tướng quân.

Anh Thư cười mãn nguyện:

- Xin khen tài khôn khéo của tướng quân. Thôi ta về sơn trại kẻo muộn.

Một vài tên quân thừa lúc hỗn loạn trở về báo tin. Bọn lính Tàu đến nơi. Chúng chỉ thấy rừng cây um tùm và số người đang nằm rên siết giữa rừng già im lặng.

*

Đợi cho các tướng hiện diện đông đủ, Anh Thư lên tiếng:

- Dẫn tên Trần Như vào.

Một lát sau, 2 tên quân đã điệu tội nhân đến: Gương mặt Trần Như có vẻ xanh xao sau một đêm mất ngủ. Hắn cúi đầu. Anh Thư gằn giọng:

- Tên phản bội đê hèn!... Mi có điều gì muốn nói nữa chăng?

Trần Như ngước đầu, cố làm ra vẻ hào hùng:

- Đừng nói nhiều lời, giết ta đi!

Mắt Anh Thư long lên. Nàng quăng cho hắn thanh gươm:

- Hãy giữ lấy để so kiếm cùng ta.

Các lão tướng lo ngại. Một vị đứng lên:

- Giết một tên phản quốc cần gì phải nhọc sức tiểu thư. Tôi xin thay thế tiểu thư làm việc ấy.

Anh Thư mỉm cười:

- Xin cảm tạ tướng quân. Nhưng tôi muốn chính tay tôi thanh toán hắn để trả thù cha. Tướng quân đừng lo ngại.

Nàng hất mặt về phía Trần Như:

- Nào sẵn sàng đi, ta nhường mi một đường gươm đấy.

Chẳng nói chẳng rằng, Trần Như chém nhầu. Anh Thư hươi mạnh lưỡi gươm. Lòng thù hận, ý trả thù đã khiến đường gươm của nàng biến ảo khôn lường. Trần Như cũng không kém. Hai kỳ phùng địch thủ gặp nhau bên tám lạng bên nửa cân khiến cuộc so kiếm ngoạn mục vô cùng. Bên ngoài các tướng lãnh cùng quân sĩ đều hồi hộp theo dõi. Tay họ để nơi chuôi gươm. Họ sẽ sẵn sáng tiếp cứu nếu Anh Thư bị hạ. Trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Ai cũng muốn giành phần thắng về mình. Đường kiếm của Anh Thư bỗng nhiên biến đổi. Ánh thép sáng ngời tỏa rộng như ánh bạc. Mắt Trần Như hoa lên. Hắn không còn thấy gì nữa:

- ... Á...

Tiếng kêu thê thảm vang lên. Đầu Trần Như lăn lông lốc trên cỏ. Quân sĩ reo hò vang dội. Anh Thư thản nhiên tra kiếm vào vỏ.

Sáng hôm sau, đầu Trần Như được treo giữa chợ. Bọn quân Minh thêm một lần táng đởm kinh hồn trước tinh thần bất khuất của các chiến sĩ giòng Lạc Việt.

*

Đêm đã khuya lắm rồi. Con trăng 16 giãi ánh vàng xuống khắp vùng đồi núi. Một đoàn người ngựa âm thầm đi trong bóng đêm. Tất cả đều im lặng. Chỉ có tiếng vó câu gõ đều trên mặt đất tạo thành một âm thanh buồn bã trong đêm khuya. Họ băng rừng, vượt suối lặng lẽ tiến bước.

Họ đã đến nơi dự định. Lúc đó trời đã gần sáng. Đi đầu đoàn người là hai thanh niên trẻ. Họ dừng lại nghe ngóng. Trước mặt họ là một thành trì kiên cố. Họ còn đang ngờ vực thì cánh cửa đã bật mở. Đoàn người tiến vào.

Giữa sân Bình định vương đứng trên một bục cao. Ngài mặc nhung bào, lưng đeo trường kiếm, nét mặt nghiêm nghị hơi cau lại khi nhìn thấy 2 thanh niên đi đầu. Ngài đang mong đợi một người...

Hai chàng thanh niên đã qua mặt đoàn quân thiện chiến của Bình định vương. Họ đã xuống ngựa. Tuy còn lo nghĩ nhưng Đức Bình định vương vẫn vui vẻ tiếp đón. Một trong hai chàng giới thiệu:

- Tiện nữ hân hạnh được gặp ngài. Và đây là Lê Khang...

Bình định vương sửng sốt. Ngài không ngờ Anh Thư cải trang khéo đến thế. Thế mà ngài cứ ngỡ... Như đoán trước ý nghĩ của ngài, Anh Thư khẽ đáp:

- Xin ngài tha lỗi, tiện nữ phải cải nam trang để tiện đi đường.

Bình định vương vui vẻ:

- Ồ, không có gì, ta thành thật khen ngợi tài cải dạng của cô nương.

Đợi cho mọi người đều an tọa ngài tiếp:

- Ta rất đau buồn khi hay tin Trần lão đã đền nợ nước. Từ lâu ta vẫn ái mộ ngài và mong có ngày tương ngộ. Ta căm giận quân Minh đã nhẫn tâm cướp mất của ta người bạn quí...

Anh Thư cúi đầu. Nàng có vẻ cảm xúc lắm. Bình định vương tiếp:

- Nay, ta đã được cô nương về trợ lực, chắc chắn có ngày bọn chúng sẽ đền tội. Tình đoàn kết của quân dân ta sẽ chiến thắng tất cả. Từ lâu ta đã nghe tiếng cô nương nay mới hân hạnh được gặp mặt.

Anh Thư khiêm tốn thưa:

- Tiện nữ chỉ mong đem chút sức mọn để cứu nước. Xin ngài đừng quá trang trọng khiến tiện nữ ái ngại.

Sau hôm ấy, Anh Thư và các bạn của nàng đã chính thức chiến đấu dưới cờ Bình Định Vương.

10 năm trôi qua... 10 năm gian khổ. Đức Bình Định Vương đã chiến thắng quân Minh. Ngài lên ngôi và phong thưởng cho công thần. Những người mà ngài định phong chức đầu tiên là Nguyễn Trãi, Anh Thư và Lê Khang.

Nhưng... nếu Nguyễn Trãi và Anh Thư chiến đấu dưới cờ Ngài với cùng một mục đích là trả thù cha, đền nợ nước... thì khi vinh hiển, hoàn cảnh 2 người khác biệt nhau. Nguyễn Trãi được phong nhất phẩm công thần còn Anh Thư... đã lặng lẽ ra đi.

Số là trong buổi lễ phong chức công thần, Bình định vương thấy thiếu mặt nàng. Ngài còn đang phân vân thì một tên quân đã vào đệ một bức thư... Không biết trong thư nói gì nhưng khi đọc xong, nét mặt Vương trầm lặng. Thì ra, đó là bức thư từ biệt của Anh Thư. Trong thư nàng viết:

"Đất nước đã được độc lập. Tiện nữ rất lấy làm sung sướng. Sung sướng vì trời không phụ dân tộc ta. Sung sướng vì tiện nữ đã làm tròn lời trăn trối của cha già và đã trả xong nợ nước. Nhưng còn chữ hiếu chưa tròn, tiện nữ đã bỏ mồ cha hoang lạnh, không hương khói. Giờ đây tiện nữ phải ra đi. Đi để làm tròn hiếu đạo. Tấm thân côi cút nầy không biết sẽ ra sao. Ngài đừng tìm kiếm làm chi. Tiện nữ là cánh chim trời bay mãi..."

Tuy vậy, Đức Bình định vương vẫn cho người tìm kiếm. Nhưng vô ích, bóng nàng vẫn bặt tăm. Nàng đã ra đi, đi mãi để lại mối thương tiếc trong lòng Vương đối với người con gái khả ái mà kiêu hùng ấy...


LỆ KIỀU TRANG     

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 64, ra ngày 1-3-1967)