Ngày
xưa ở bên Tàu, có một anh chàng họ Bạch tên Miêu... Anh Bạch Miêu ấy
nghèo lắm - tuy nghèo song anh rất hiếu thảo với mẹ và có đức thương
người đáo để. Một hôm anh đi bán củi ngoài chợ về, có mua hai cái bánh
bao, một cái nhân bằng thịt và một cái nhân bằng đậu. - Vì chợ xa nên về
giữa đàng anh phải ghé lại ngồi nghỉ chơn dưới thềm một ngôi đền thờ
cũ, bỗng anh thấy một ông lão ăn mày nằm bên trong vừa rên nho nhỏ, vừa
kêu đói... Động lòng nhân ái, anh bèn lấy chiếc bánh bao nhân đậu đem
cho ông lão đỡ lòng - Ông lão đang đói, được người cho bánh mừng quá,
chỗi dậy tiếp lấy bỏ vào miệng nuốt một miếng hết trơn. Ăn xong đã không
cám ơn mà lại còn trách rằng:
- Cậu ôi! Thà cậu để lão chết còn hơn, chớ cậu cho một chiếc bánh có thấm vào đâu, dở sống dở chết thế nầy lão càng thêm khổ!
Bạch Miêu nói:
-
Cháu không phải tiếc chi với cụ, nhưng vì chiếc bánh còn lại làm bằng
nhân thịt, cháu dành cho mẹ cháu, còn chiếc biếu cho cụ vừa rồi là phần
ăn của cháu, bánh ấy nhân đậu rẻ tiền hơn, vì nhà cháu cũng nghèo xin cụ
hiểu giùm cho.
Lão
ăn mày như thông cảm, mắt lão sáng lên, da mặt đỏ hồng - lúc nãy thân
hình lão xem tiều tụy gầy còm bỗng trở nên hiên ngang quắc thước, trông
lại không phải là một người ăn mày nữa, lão nói:
-
Cậu khá lắm, ở đời lòng hiếu thảo là nền móng của mọi việc lành - Lão
là "Hiếu-bảo-thần" đây (vị thần hay giúp đỡ những người con có hiếu).
Nhơn lão biết rằng ngày rằm tháng tới đây trời sẽ mưa rất lớn sau một
thời gian nắng hạn - Cậu có nghe chăng thời gian qua Đức vua truyền lệnh
rằng ai cầu được mưa thì đặng phong chức "Trạng" vậy cậu hãy về sửa
soạn xuống kinh đô mà lãnh phần "đảo võ" đi (cầu mưa) lão hứa sẽ giúp
cho cậu mọi phương diện để được làm quan mà nuôi dưỡng mẹ già cho thỏa
lòng hiếu kính - Nói xong ông lão biến mất...
Bạch
Miêu nửa tin nửa ngại, vội vàng quảy gánh về thuật chuyện cho mẹ nghe,
mẹ bảo anh nên tin lời ông lão và gom góp tiền bạc xuống kinh đô.
Quả
thật khi tới kinh đô, vào triều kiến Đức vua và xin lập đàn đảo võ rồi,
Bạch Miêu khăn áo chỉnh tề bước lên đài khấn vái vừa xong thì bỗng có
gió mát thổi hiu hiu, mây đen kéo mịt, sấm sét rền trời, tiếp đến một
cơn mưa, nước dâng tới mắt cá - Trong hoàng thành cũng như đồng nội, tất
cả mọi người đều vui vẻ hân hoan... Thế rồi anh chàng Bạch Miêu hôm nay
nghiễm nhiên là một ông quan "Trạng" rất hiển vinh...
Nhưng
thường tình "trâu bị cột ghét trâu ăn"... Số là ở trong triều có một
ông quan Thừa tướng ở gần nhà ông Trạng, nhận thấy Trạng Bạch Miêu là
người học lực kém, chỉ có tài cầu mưa mà thôi, nên ông ấy đem lòng ganh
tỵ, muốn kiếm thế làm cho ông Trạng "ra rìa" chơi. Ngày kia tan buổi
chầu ông Thừa tướng lén đánh cắp con rồng bằng ngọc pha lê rất quí của
nhà vua, vua hay mất bèn đòi quan Thừa tướng vào để hỏi ý kiến đặng tìm
thủ phạm. Quan Thừa tướng tâu rằng:
-
Muôn tâu bệ hạ, theo ý của ngu thần thì có một lý nầy đáng tin tưởng,
vả chăng quan Trạng xuất thân là một anh bán củi nghèo nàn, tất nhiên
chưa từng thấy của quí bao giờ, e rằng ông ấy có lén trộm của bệ hạ đi
chăng? Vậy xin bệ hạ truyền chỉ cho ông ấy điều tra và buộc nếu kiếm lại
không được con rồng thì sẽ bị lột chức ngay.
Đức
vua y lời, bèn hạ chiếu chỉ truyền cho quan Trạng tìm bảo vật, hẹn
trong ba ngày nếu không đem nạp thì sẽ cách chức đuổi về quê.
Bạch
Miêu nghe đọc chiếu xong, lòng buồn dã dượi, bèn vào thưa lại cho mẹ
hay và dặn dò gia đình, thoảng có bề nào hãy giùm bảo vệ mẹ già...
Đến
chiều hôm sau... chỉ còn 1 ngày hẹn mà ông suy tính nát óc cũng không
tìm được phương thế nào để kiếm cho ra bảo vật. Chán nản, lúc mặt trời
vừa sắp lặn, ông bèn lấy một cuộn dây thừng lén ra sau huê viên trèo lên
cây đào định thắt cổ tự tử cho xong, nhưng lại thương nỗi mẹ già không
ai phụng dưỡng trong những ngày tuổi hạc cành sương!
Còn
đang đứng nhìn cây cỏ thảm sầu, bỗng ông thấy bên kia quan Thừa tướng
cũng đang leo lên cây cổ thụ đầy những lỗ bộng, miệng ngậm một cái hộp
nho nhỏ... bất giác Bạch Miêu lên tiếng hỏi:
- Quan Thừa tướng làm gì thế?
Bên
nầy quan Thừa tướng tuy khinh rẻ Bạch Miêu là người quê dốt, nhưng cũng
có ý sợ phòng, nên tự tay đem con rồng pha lê định trèo lên giấu trong
bộng cây. Bởi thế cho nên khi nghe tiếng Bạch Miêu hỏi, ông Thừa tướng
hoảng hồn, mồ hôi ướt áo, miệng đánh bò cạp làm rớt cái hộp nhỏ xuống
đất...
Như
có linh tính, Bạch Miêu vội vàng chuyền qua rào tuột xuống lẹ làng lượm
chiếc hộp mở ra xem, té ra con rồng pha lê nằm trong ấy... mừng "hết
lớn" liền bỏ vào túi đợi cho Thừa tướng xuống tới đất, Bạch Miêu nhanh
trí chỉ cuộn dây thừng của ông ta định tự tử và nói:
- Vì tôn trọng thể diện của ông, nên tôi không sai lính hầu, mà tự tôi đem dây đến để đón bắt ông từ nãy giờ đó!
Quan Thừa tướng tái mặt, lưỡi ríu lại, tay chơn run lập cập, van lơn rằng:
-
Xi... in... xin quan ngài... tưởng... tưởng tình "đồng liêu" (cùng làm
quan chung một triều)... tha thứ cho... cho đệ một phen... Chỗ anh em
mí... mí nhau cả mà... hà... hà...
Sẵn lòng nhân hậu, Bạch Miêu nói:
- Thôi ông đã biết điều lỗi, chẳng lẽ tôi bức ông làm chi.
Nói xong, ông Trạng "chết hụt" bèn leo rào về nhà, bất chấp lời mời mọc của quan Thừa tướng.
Buổi
chầu hôm sau, trong triều có vẻ rộn rịp khác thường, các quan bàn tán
xôn xao, ai nấy đều lo ngại cho số phận của quan Trạng, nhưng họ lại xa
lánh Trạng, sợ Trạng như sợ thần Dịch hạch, không một ai dám đến gần
thăm hỏi điều chi, vì sợ nỗi tai bay vạ gởi... nhưng họ lại thì thầm vì
sắc mặt của Trạng vẫn tự nhiên như không có chuyện gì xảy ra vậy.
Các
quan tung hô vạn tuế - nghĩa là chào mừng vua theo lễ nghi của Tàu ngày
xưa, xong rồi ai ngồi chỗ nấy... kế nghe lanh lảnh tiếng quan xướng ngự
hô to:
- Truyền quan Trạng bệ kiến.
Trong chiếc áo rộng thùng thình, quan Trạng oai nghiêm bước đến quì trước sân chầu chờ nghe lệnh phán.
- Nhiệm vụ của khanh như thế nào?
- Muôn tâu, kẻ hạ thần đã tìm được bảo vật và xin dâng lên bệ hạ ngự tường.
Vừa
tâu quan Trạng vừa dâng cái hộp nhỏ lên cho Đức vua, Đức vua càng tin
lời quan Thừa tướng và càng nghi cho quan Trạng trộm đồ hơn nữa, nhưng
vô cớ nên không biết làm sao hài tội được.
*
Ở
đời dịp may thì ít, việc rủi lại nhiều... Một hôm đang buổi chầu, bỗng
quan Cửu môn đề đốc (quan gác cửa trong đền vua) vào tâu rằng, có sứ giả
nước Phiên sang viếng Trung Hoa, vua truyền cho vào. Đoàn Phiên sứ bước
vô quì mọp tung hô xong, bèn dâng "Ủy nhiệm thơ" lên Đức vua, đại ý
trong thơ là vua Phiên nghe đồn Trung Quốc có một quan Trạng "hữu tài"
nên phái sứ giả sang viếng cho rõ mặt dị nhơn.
Đức vua phán rằng:
-
Có chi đâu mà làm phiền quí quốc, như quí quốc có lòng muốn biết quan
Trạng của Trẫm, thì sáng mai sẽ đến giữa triều mà thử tài cho biết, giờ
đây đã gần đến ngọ rồi (12 giờ trưa), vậy xin mời các khanh hãy tạm đến
công quán mà nghỉ ngơi cho khỏe.
Phán xong vua truyền bãi trào.
Tối
hôm ấy, ông trưởng phái đoàn sứ giả nước Phiên là quan Thiếu Bảo, họp
các tùy tùng để bàn tính mưu chước đặng thử tài quan Trạng... bàn tính
mãi đến khuya mà không ra kế... bỗng quan Thiếu bảo chợt thấy trên xà
nhà công quán có một con mèo trắng đang nằm thinh thích rình mồi, ông ta
mới nẩy ra ý kiến là làm sao bắt được con mèo ấy rồi nhốt trong một cái
thùng kín mà đố quan Trạng coi có đoán trúng hay không, nhưng bắt con
mèo chưa chắc gì đã được. Một viên tùy tùng góp ý kiến là nên lấy cung
bắn con mèo ấy chết đi thì mới tiện, vì nó không kêu la cào cấu gây
tiếng động... Cả phái đoàn đều tán thành ý kiến ấy.
Thói
thường người ta nói: "Càng cao danh vọng, càng dầy gian lao". Tội
nghiệp cho ông Trạng, buổi chầu hôm ấy sắc mặt không còn tươi tỉnh như
mọi khi. Bá quan tung hô rồi thì thấy Phiên sứ bưng một cái hộp cây sơn
đỏ đem ra đặt giữa sân chầu và cất tiếng nói rằng:
-
Đây là khí cụ để chứng tài năng của quan Trạng, nếu quan Trạng nói
trúng trong hộp nầy đựng món chi, thì chúng tôi sẽ nhân danh Phiên chúa
mà tặng cho Trạng một ngàn thước gấm "Tây Phiên" và 100 lượng vàng ròng,
để thưởng tài ăn học.
Quan Thừa tướng vốn có ác ý, muốn hại Trạng Bạch Miêu nên thừa dịp bước ra tâu với đức vua rằng:
-
Muôn tâu hoàng thượng, xét vì việc thử tài này có liên hệ đến quốc thể,
nếu như quan Trạng nói trật, thì còn gì uy thế của "Thiên triều" (câu
ví mình của nước Tàu ngày xưa), vậy xin Hoàng thượng ban một nghiêm luật
cho quan Trạng để ông tận tâm tích cực trong việc hệ trọng nầy!
Đức vua khen phải, bèn phán rằng:
-
Vậy trẫm truyền cho quan Trạng, nếu đoán trùng thì trẫm thưởng thêm một
chum ngự tửu, thoảng như chẳng hết lòng để mất danh của thiên triều thì
sẽ phạt 20 trượng làm gương.
Bạch
Miêu nghe phán tâm hồn rối loạn, nhưng cố trấn tĩnh tinh thần, ông nghỉ
bụng... còn một nước cờ chót đem ra dùng thử xem sao... bèn quì xuống
tâu rằng:
-
Muôn tâu bệ hạ, hạ thần nhận thấy việc thử tài nầy có tính cách kiêu
mạng, vì nước Phiên là một tiểu bang mà dám khinh thường thiên quốc -
Một quan Trạng của thiên triều, há đi tham một phần thưởng vô giá trị
của bọn Phiên nô như thế sao - Xét vì sự phạm thượng là một tội rất lớn,
vậy xin thánh hoàng hạ chiếu cho Phiên sứ rằng nếu hạ thần đoán sai thì
cam lãnh 20 trượng, còn như đoán trúng thì Phiên sứ phải lãnh số đòn
ấy, cho nhớ từ đây sắp tới đừng có phiêu lưu liều lĩnh như vậy nữa.
Trong
ý Bạch Miêu tâu như vậy là để dọa đoàn Phiên sứ... nhưng nào ngờ vỏ
quít dày còn có móng tay nhọn - Quan Thiếu Bảo, trưởng phái đoàn sứ giả
trông thấy cử chỉ của đối phương thì đoán biết ông Trạng nầy đã bí lối
rồi, nên đánh một đòn tâm lý để dọa cho mình "rút lui" mà bãi bỏ cuộc
thử tài đi, vì vậy ông lại càng thấy sự thắng lợi về mình hết 99 phần
trăm nên cất tiếng ưng thuận ngay lời cam kết với Bạch Miêu.
Đường
cùng không lối thoát... Bạch Miêu cảm thấy cảnh vật mịt mù... trời đất
quay cuồng dường như đang sụp đổ! Hai hàng nước mắt rưng rưng, kể cuộc
đời tới đây là hết... Ông ta run rẩy, đặt tay lên chiếc hộp đỏ mà than
rằng:
- Cũng vì "Trạng" mà Bạch miêu nầy phải chết!
Ý
ông ta nói, cũng vì ham làm trạng mà ông ta phải chịu khổ sở có thể
chết được... chẳng dè quan Thiếu bảo nước Phiên không biết tên ông ta,
lại ngỡ rằng "Trạng nhà ta" nói chữ... vì chữ Bạch là màu trắng, còn chữ
Miêu là con mèo, tức nhiên "Bạch Miêu" nghĩa là con mèo trắng...!
Quan Thiếu bảo lấy làm sợ hãi - lại "quan trạng" nói tiếp giọng run run:
- Ông thần Hiếu bảo ơi!... hại tôi làm chi... phen nầy chắc phải ốm đòn rồi... chạy đàng trời cũng không khỏi nắng!
Cốt
ý của Bạch Miêu là trách vị thần Hiếu bảo trước kia hứa giúp đỡ ông ta,
sao nay lại để xẩy ra sự việc như thế nầy... nhưng vì đang lúc mất tinh
thần, qua trưởng đoàn sứ giả nghe "Trạng" nói "Hiếu bảo" lè nhè thành
ra "Thiếu bảo"!...
Thế
là tài quá sức rồi... đã biết trong hộp có con mèo trắng chết mà lại
biết cả chức phận của người hại mình nữa... như vậy quan Thiếu bảo làm
sao chịu nổi 20 gậy đòn kia!...
Vì
vậy nên khi "Trạng" nói vừa dứt lời thì toàn thể đoàn sứ giả đều ôm đầu
quì lạy liên hồi... lạy đến nỗi rớt mũ, rụng râu mà không hay không
biết... gây cho nội triều một sự ngạc nhiên. Chính "quan Trạng Bạch
Miêu" cũng không hiểu lý do ất giáp gì cả...
...
Đến khi biết được trong hộp kia đựng xác một con mèo trắng chết, thì
đoàn sứ giả được Bạch Miêu xin tội cho họ, vì ông vốn là người nhân hậu,
hiếu thảo, thương người nên lúc nào ông cũng coi đức tính ấy như là một
vật quí của đời ông, không vì lẽ gì mà ông bỏ rơi bảo vật ấy đi được...
Nhưng tại sao Bạch Miêu lại gặp toàn những cái may trong giờ chót như thế?
Ấy
là nhờ sự giúp đỡ vô hình của thần Hiếu bảo đấy - vì sức mạnh "thiêng
liêng" tuy mắt ta không thấy được, nhưng rồi sự hữu hiệu rất tốt lành,
và các bạn nên nhớ rằng các đấng thiêng liêng chỉ thương và giúp đỡ
những người đức hạnh mà thôi - Còn hạng người như quan Thừa tướng kia
thì trái lại, ông ấy đánh giá giá trị con người, chỉ nhằm vào sức học,
sự khôn lanh và tài cán bên ngoài, nên mới sinh lòng đố kỵ, khinh rẻ
Bạch Miêu như vậy.
Ca dao có câu:
Ai ơi cứ ở cho lành
Tu nhân tích đức để dành về sau.
NGUYỄN MINH LUÂN
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 19, ra ngày 25-7-1964)
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.