ĐỀ THI
Tìm hiểu việc làm, đức tính và ước vọng của người đàn bà Việt Nam qua câu ca dao sau đây:
Canh một dọn cửa dọn nhà
Canh hai dệt cửi canh ba đi nằm
Canh tư bước sang canh năm,
Triềng anh dậy học chớ nằm làm chi
Nữa mai Chúa mở khoa thi
Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh.
BÀI LÀM
Từ
ngàn xưa, ca dao Việt Nam vẫn là một kho tàng phong phú, phản ảnh nếp
sống và tư tưởng của xã hội Việt Nam thời xưa, một xã hội chịu ảnh hưởng
sâu đậm của nền luân lý Khổng Mạnh.
Nền luân lý ấy đã chi phối mọi tầng lớp dân gian và ràng buộc người phụ nữ trong bổn phận "Gái thì giữ việc trong nhà".
Để
đảm đang trách vụ đó, người đàn bà Việt Nam thời xưa, tất phải có nhiều
đức tính để hoàn tất biết bao công việc phức tạp trong cuộc sống thường
nhật với chức phận nội tướng, với địa vị khiêm tốn, người đàn bà Việt
Nam đã có những ước mong gì trong cuộc sống?
Người
phụ nữ trước kia với phạm vi hoạt động hạn hẹp trong gia đình đã thể
hiện việc làm, đức tính và ước vọng của họ như thế nào qua những vần ca
dao sau:
Canh một dọn cửa dọn nhà
Canh hai dệt cửi canh ba đi nằm
Canh tư bước sang canh năm,
Triềng anh dậy học chớ nằm làm chi
Nữa mai Chúa mở khoa thi
Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh.
Trải qua bao thế kỷ, xã hội Việt Nam đã thấm nhuần tư tưởng sâu sắc của Khổng Giáo.
Ảnh hưởng của học thuyết này, địa vị của nam nhi và nữ giới đã được minh định rõ ràng.
Người
con trai, với tư chất thông minh, với hình hài được hun đúc bởi khí
thiêng sông núi sẽ giữ vai trò của kẻ sĩ, rèn luyện kinh văn để mai sau
ra gánh vác việc xã hội, trị nước an dân:
Trai thời đọc sách ngâm thơ
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Trách vụ của nam giới được đề cao và trọng vọng như thế, còn bổn phận của nữ giới ở thời đại ấy ra sao?
Người
đàn bà Việt Nam khi xưa chỉ có bổn phận trong gia đình. Bị ràng buộc
trong khuôn khổ tứ đức tam tòng, họ cố gắng lo chu toàn phận sự:
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa
Thực
ra, trong đời sống hàng ngày, bổn phận của người nội tướng không phải
chỉ đơn giản như thế. Họ phải đảm đang biết bao công việc phức tạp khác
nữa.
Nên
duyên với một người chồng theo đòi nghiên bút là một niềm hãnh diện của
các cô gái vào thời Nho Giáo thịnh hành, nhưng bù lại, người đàn bà
phải lo tròn một bổn phận khác nữa: nuôi chồng ăn học. Để có đủ điều
kiện tài chánh, họ phải buôn bán tảo tần, ngược xuôi vất vả sáng chiều.
Tối tối, khi trở về với gia đình, với thiên chức của người vợ hiền,
người phụ nữ Việt Nam nhẫn nại và hy sinh muôn thuở lại tiếp tục hoàn
tất bổn phận trong nhà.
Với
đôi bàn tay khéo léo, với đức tính chịu thương chịu khó, người đàn bà
đã không nề mệt nhọc sau những giờ phút vất vả vì sinh kế, họ kiên nhẫn
thu vén nhà cửa, điểm tô hạnh phúc gia đình. Sự ấm cúng của mái nhà nhờ
tài quán xuyến của nội tướng chắc chắn sẽ làm người chồng thoải mái, làm
các con thêm tin yêu và thấy hạnh phúc ngập tràn.
Một
tổ ấm ngăn nắp, một người chồng miệt mài trau giồi kinh sử cùng đàn con
sạch sẽ thảo hiền, như thế đã đủ là một phần thưởng cho người phụ nữ.
Thương yêu chồng con, người đàn bà không quản ngại khổ cực, sẵn sàng hy
sinh chịu đựng thức khuya dậy sớm, vui với bổn phận của mình.
Sau
đó, người hiền phụ siêng năng lại bắt đầu công việc dệt cửi để thêm
thắt vào cho đời sống vật chất gia đình được phong phú hơn. Còn hình ảnh
nào đẹp hơn hình ảnh một người vợ hiền ngồi bên khung cửi đưa thoi đều
đều, cạnh người chồng đọc sách ngâm thơ.
Hạnh
phúc ngập tràn trong mái gia đình. Người đàn bà Việt Nam dịu hiền đã
được an ủi rất nhiều. Đời sống phức tạp và khó nhọc hàng ngày không làm
họ nản lòng vì trong tâm hồn họ đã ôm ấp niềm mơ ước: nuôi chồng ăn học
thành tài.
Từ
khi còn ở nhà với cha mẹ, người thiếu nữ Việt Nam đã được dạy dỗ về
công dung ngôn hạnh nên khi xuất giá, họ được coi như có đầy đủ đức tính
và khả năng quán xuyến mọi việc trong gia đình nhà chồng. Do đó, chúng
ta thấy người phụ nữ Việt xưa kia rất đảm đang, có công lớn trong việc
tạo dựng hạnh phúc gia đình, nhưng vẫn giữ được những nét thuần hậu, dịu
dàng của người đàn bà Á Đông.
Suốt
đời tận tụy lo lắng cho chồng con, người đàn bà quên cả chính mình. Hết
canh hai, khi công việc dệt cửi đã xong, khi cả gia đình đã say sưa
trong giấc ngủ, nàng mới tạm ngừng công việc để nghỉ ngơi.
Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm
Canh tư bước sang canh năm...
Sau
một thời gian ngắn chừng vài trống canh an giấc, nàng lại trở về với
công việc hàng ngày của mình. Nàng dịu dàng nhỏ nhẹ đánh thức chồng dậy
để chăm lo đèn sách.
Triềng anh dậy học chớ nằm làm chi
Trong giấc ngủ say, nghe lời êm dịu của vợ hiền, người chồng chắc cũng sẽ vui vẻ trở dậy tiếp tục giồi mài kinh sử.
Hy
sinh rất nhiều cho chồng con, nhưng người đàn bà Việt Nam khả ái không
hề phàn nàn. Họ im lặng chịu đựng tất cả và đối với chồng luôn luôn giữ
gìn lễ độ.
Người phụ nữ duyên không may, lấy phải ông chồng thiếu chung thủy, cũng chỉ nhẹ lời:
Thưa anh, anh giận em chi
Muốn lấy vợ lẽ em thì cưới cho
Gặp lúc chồng nóng giận đánh đập, nàng từ tốn khuyên can:
Dang tay đánh thiếp sao đành
Tấm rách ai vá tấm lành ai may
Chịu biết bao bất công, gò bó, họ cũng chỉ âm thầm than thở:
Anh buồn có chốn thở than
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya
Không những thế, đức tính chịu thương chịu khó của người đàn bà vẫn được đời đời truyền tụng.
Nuôi con vất vả, người mẹ hiền đã phải hy sinh từ miếng ăn giấc ngủ:
Mong đêm rồi lại mong ngày
Vì con mẹ phải mình gầy xác xơ
Hình ảnh nhẫn nại của bà Trần Tế Xương cũng là một minh chứng cụ thể cho đức tính của phụ nữ Việt Nam:
Quanh năm buôn bán ở ven sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Nếu
người đàn bà, trong bài ca dao trên biết thương yêu, lo lắng cho chồng
và cho gia đình như thế, thì trong kho tàng ca dao, chúng ta cũng còn
gặp rất nhiều hình ảnh nói lên tấm lòng ngập tràn tình thương của người
vợ thảo lo lắng cho chồng ăn học nơi xa:
Mùa hè cho chí mùa đông
Mùa nào thức nấy cho chồng đi thi
Hết gạo em lại gánh đi
Hỏi thăm trường học ở thì nơi nao
Duyên dáng hơn nữa, người thiếu phụ lại chúng tỏ đức hạnh dịu dàng, ngôn ngữ lễ độ của mình qua câu:
Hỏi thăm đến chỗ thì vào
Vai đặt gánh xuống miệng chào "thưa anh"
Như
thế, qua ca dao, kho tàng văn chương phong phú của dân tộc Việt, chúng
ta đã thấy được phần nào các đức tính của người đàn bà Việt Nam thuở
trước, điển hình là người thiếu phụ trong bài ca dao trên.
Sống
trong phạm vi hạn hẹp của gia đình, hàng ngày phải đương đầu với bổn
phận khó khăn và phức tạp, trong những lúc rỗi rảnh người đàn bà Việt
Nam lấy chồng "kẻ sĩ" thường ôm ấp ước mơ: chàng đỗ đạt hiển vinh để
"ngựa anh đi trước võng nàng theo sau"
Để
khuyến khích người chồng đạt được giấc mộng khoa danh ấy, người vợ hiền
đã khôn khéo phác họa tương lai huy hoàng của một thư sinh công thành
danh toại, cho bõ công đèn sách:
Nữa mai Chúa mở khoa thi
Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh
Vào
thời Nho Giáo cực thịnh, kẻ sĩ trong xã hội được trọng vọng thì người
đàn bà nào cũng mong muốn cho chồng vinh hiển. Đó là mối ước vọng lớn
nhất của họ. Nhưng trên thực tế sống trong hoàn cảnh khó khăn một mình
quán xuyến việc gia đình cùng nuôi chồng ăn học, nhiều khi người phụ nữ
còn có những ước mơ giản dị như tâm hồn chất phác của họ: mong chồng
chăm lo đèn sách và có đủ tiền nuôi chồng theo đòi nghiên bút.
Để
đạt được hy vọng đó, người đàn bà đã ra công làm việc, một tay thu vén
gia đình cả về tài chánh cũng như nội trợ, để chồng an tâm và đủ thì giờ
lo việc sách đèn.
Người đàn bà Việt Nam hiền hòa và an phận, đã tìm thấy hạnh phúc trong bổn phận, trong thiên chức của mình.
Ngoài
ước vọng chồng mình thành công trên đường khoa cử, họ không đòi hỏi đổi
thay mà chấp nhận bổn phận nặng nề của mình trong cuộc sống gia đình
thường nhật.
Một
mái nhà ấm cúng, một hình ảnh êm đềm bên người chồng theo đòi kinh sách
đã là nguồn hạnh phúc chan chứa trong tâm hồn người phụ nữ Việt Nam
ngày trước, giúp họ quên đi những mệt nhọc hàng ngày vì gánh nặng gia
đình.
Phụ nữ Việt Nam ngày xưa như thế, còn phụ nữ Việt Nam hiện tại thì việc làm, ước vọng cùng đức tính của họ có gì thay đổi?
Chúng
ta nhận thấy, dù ở bất cứ thời đại nào, người đàn bà Việt Nam vẫn là
linh hồn của gia đình. Một mái nhà hạnh phúc không thể thiếu hình bóng
dịu dàng của người vợ, một tổ ấm yên vui không thể vắng bàn tay nhiệm
mầu của người mẹ. Công việc tề gia nội trợ trong gia đình vẫn là trách
nhiệm chính yếu của người phụ nữ Việt Nam. Dù cho người đàn bà ngày nay
có góp mặt ngoài đời, nhưng sau những giờ phút căng thẳng làm việc trong
cộng đồng xã hội, họ vẫn cần được sự an ủi của những người thân yêu. Đó
là lúc họ trở về với thiên chức làm vợ và làm mẹ vậy.
Mặc
dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Âu
Mỹ, người đàn bà Việt Nam vẫn giữ được các đức tính đáng quý của người
phụ nữ Á Đông: hiền hòa, dịu dàng, kiên nhẫn, yêu thương và hy sinh cho
chồng con.
Tuy
rằng trong hiện tại chúng ta nhận thấy khoa cử không còn là phương sách
tiến thân duy nhất của nam giới, nhưng người đàn bà nào cũng mong mỏi
cho chồng hiển đạt, góp danh với đời. Đó chính là niềm hãnh diện và ước
vọng mà họ đã đặt vào chồng vậy.
Tóm lại, ở bất cứ thời đại nào, xưa hay nay, người đàn bà Việt Nam cũng giữ một vai trò quan trọng trong đời sống gia đình.
Bàn
tay khéo léo của người phụ nữ làm êm ấm mái nhà, giọng nói dịu hiền của
người vợ làm tươi mát tâm hồn người chồng, trái tim tràn ngập yêu
thương của bà mẹ làm chan chứa tin yêu nơi con cái. không ai có thể thay
thế thiên chức ấy của họ trong đời sống gia đình. Thêm vào đó, người
phụ nữ Việt Nam còn được tạo hóa phú bẩm cho các đức tính đáng quý: hy
sinh, chịu đựng và kiên nhẫn vô biên. Bản tính hiền hòa, niềm ước vọng
của họ không gì hơn là mong chồng được công thành danh toại để được hãnh
diện với làng xóm, bạn bè.
Với các yếu tố trên, người phụ nữ Việt Nam quả có đầy đủ đặc tính của người đàn bà Á Đông hiền dịu đảm đang.
VŨ THỊ LỆ DUNG
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 175, ra ngày 15-4-1972)
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.