Năm
nay Mẹ quyết định cho Hà và Di về ăn tết ở quê ngoại. Khi được loan
báo. quyết định này, cả hai đứa cùng reo lên mừng rỡ. Chúng nó xúm lại
ôm lấy mẹ hỏi tíu tít:
– Về quê hở mẹ? Bao giờ về?
– Về mấy hôm? Đi bằng gì? Mẹ có về không ?…
Hình như chúng đặt ra câu hỏi nhưng chẳng cần mẹ trả lời, bởi trong óc cả hai đứa tràn ngập những hình ảnh vui thú ở nhà quê.
Từ
hồi bé đến bây giờ, Hà và Di mới chỉ được về quê chừng ba, bốn lần. Mỗi
lần vào một khoảng thời gian khác nhau, nên lần nào quê nhà cũng đầy
những trò vui thú mới lạ. Nhưng Hà và Di thích nhất là được về quê vào
dịp hè. Chúng nó không quên được những đêm trăng sáng như ban ngày, cả
nhà đem kê chõng ra sân nằm, vừa nhìn những vì sao đan kín một bầu trời
vừa chỉ trỏ nhận xét chỗ này là sao Tua Rua, chỗ kia là sao Chức Nữ, sao
Thần Nông, cùng bầy vịt bơi trên dải Ngân Hà. Nhưng những vì sao dù lấp
lánh cách nào thì cũng không thể sánh bằng những con đom đóm xanh biếc
lập lòe gần gũi ngay trên những lùm cây. Nằm ngắm sao chán mắt thì Hà và
Di được lũ con dì Lụa rủ đi bắt đom đóm cho vào vỏ trứng. Đến khuya,
quả trứng đầy nhóc một bầy đom đóm. Khi đem về nhà, mỗi lúc chúng lóe
lên là khiến quả trứng biến thành một viên bích ngọc khổng lồ, sáng xanh
cả một góc buồng. Đó là một vài trò vui thú về ban đêm. Còn buổi trưa
hè nắng gắt, cả bọn rủ nhau ra bờ ao. Nước trong vắt và mát rượi như
hồ thu. Đứng ở cầu ao nhìn xuống, Hà và Di thấy từng đàn cá Đuôi Cờ sặc
sỡ màu xanh, màu đỏ bơi tung tăng quanh mấy cọng hoa Súng nổi lững lờ
trên mặt nước. Đàn cá đông đúc gợi cho lũ trẻ cái ham muốn ngồi ở bờ ao
câu cá. Cần câu làm bằng những nhánh tre khô.
Lưỡi
câu thì uốn lấy bằng những cây kim cài đầu. Mồi thì đi lật những viên
gạch vỡ ở trong sân lên sẽ kiếm được vô khối là giun. Câu cá ở bờ ao rất
thích thú vì cá rất tham ăn. Toàn là những thứ cá Săn Sắt, Mài Mại,
Đuôi Cờ to không quá một ngón tay. Cá câu được rồi đem bắc một cái bếp
bằng gạch ở góc vườn chơi trò thổi cơm, kho cá. Chơi chán thì đem cá
trộn với cơm cho chú mèo tam thể trong nhà ăn thỏa thích. Vào những ngày
hè, gần như suốt ngày Hà và Di chạy rong ruổi đầu làng, cuối xóm.
Nếu
không câu cá thì tập bơi bằng những thân gỗ cây soan đã tước nhẵn vỏ
ngoài thả sẵn ở bờ ao. Dù chẳng biết bơi, cứ vịn lấy thân soan nổi lều
bều là cũng đủ an toàn để đập chân lên mặt nước ùm ùm. Chả mấy chốc mà
biết bơi. Bơi chán rồi thì đi lang thang trong những khu vườn rộng bát
ngát để tìm Sâu Kèn trên những chiếc lá Na, lá Ổi, lá Hồng Bì. Sâu kèn
là cái tổ kết bằng tơ chắc chắn của những con sâu. Mỗi tổ tròn ở một
đầu, thuôn ở đầu kia, treo toòng teng trên những cái cuống lá. Ngắt được
xuống, đem cắt bằng hai đầu, lấy con sâu ra là có một cài kèn thổi kêu
“te te” rất thích thú. Hôm nào kiếm được nhựa mít thì cả bọn bầy trò đi
dính Cồ Cộ trên những thân cây Hồng, thứ hồng đỏ thắm như chu sa, ngọt
lịm như nước đường, ăn với cốm xanh vào dịp tháng Tám thì hết chỗ chê.
Cồ Cộ chỉ xuất hiện vào mùa hè. Nó thuộc cùng một loại với ve sầu, nhưng
lớn gấp đôi gấp ba, với cái đầu đen bóng nổi lên hai đốm mắt thật to.
Đôi cánh Cồ Cộ lớn và cứng hơn cánh Ve Sầu, đặc biệt mình của nó có hai
mầu: một mầu xanh biếc điểm trên mầu vàng cam trông rất sặc sỡ. Cồ Cộ
kêu rất to, chỉ cần bấm khẽ vào cái “mõ” ở bên mạng sườn là cu cậu cất
ngay cái giọng kêu ò ò nghe khàn khụa như một ông cụ, mà tiếng cũng to
đến váng trời, váng đất. Bắt Cồ Cộ cũng là cả một nghệ thuật. Phải leo
cây thật giỏi, thật nhanh mà lại nhẹ nhàng không làm rung động đến cành
lá. Lúc tới gần một chú Cồ Cộ rồi là phải rón rén giơ cái cần nhích gần
lại. Đầu cần có phết một cục nhựa của cây Mít. Nhựa Mít dính không chê
được. Chỉ nhắm làm sao dí được cái đầu cần vào giữa lưng Cồ Cộ là anh
ta hết bề cục cựa. Nhưng trò chơi bắt Cồ Cộ không phải là trò kéo dài
được lâu. Bởi vì nghe cái giọng khàn khụa ò ò của hắn ta thì chỉ một lúc
là chán tai. Bọn con trai thì rủ nhau đi leo lên cây Ổi, vừa kiếm cái
chạc đôi làm súng cao su, vừa ăn ổi xanh chấm muối ớt. Còn bọn con gái
thì kéo nhau ra sân chùa làng kiếm búp đa. Búp đa là những cái búp của
cây Đa, thứ cây già nua, rễ đan chằng chịt và có tán lá rậm rì che kín
cả một khoảng sân chùa. Búp đa hay rơi vương vãi trên khắp mặt cỏ xanh,
nhiều cái thật lớn và dài đến cả gang tay. Thổi búp đa cũng là một nghệ
thuật. Hơi phải nhẹ và đều. Thổi mạnh quá màng búp sẽ bị rách. Thổi yếu
quá, màng búp chỉ tróc ra chừng phân nửa. Phải làm thế nào cho hơi lùa
dần vào suốt thân búp, tách được cái màng mỏng lên, làm nó tróc ra và
phồng to lên từ đầu đến ngọn búp. Sau đó với đầu ngón tay khéo lên đẩy
ngược lên là có thể lộn trái lộn phải cái búp đa hoài hoài cho đến khi
nó trở nên nhàu nát hoặc rách ra mới vứt bỏ. Với lưng rổ búp đa, ngồi
trên bờ hồ sen tỏa hương ngào ngạt, bọn Hà có thể chơi mải miết từ lúc
trời còn gay gắt nắng cho đến xế chiều mà không thấy chán. Đó là kể sơ
một vài thú vui ở nhà quê vào những dịp sang hè.
Ăn
tết ở nhà quê thì chưa bao giờ Di và Hà được trải qua lần nào. Cho nên
khi được nghe mẹ tuyên bố năm nay về quê ăn tết, cả hai đứa cùng múa
lên. Chúng nó sẵn sàng hy sinh một cái tết ở tỉnh để được biết mùi ăn
tết ở nhà quê. Như thế là năm nay chúng nó sẽ không đi chợ tết ở trên
phố nữa, không đi ngắm những con đường đỏ ối toàn là cành đào bầy bán lạ
liệt ở hai bên hè phố, hay có những dãy phố vàng rực lên vì những chậu
cá vàng, trong có những con cá đuôi dài tha thướt như áo nàng công
chúa. Kể từ hôm ấy, chẳng ngày nào mà Hà và Di không đếm từng ngày để
tính toán tới hôm được lên đường về quê ngoại.
Rồi
mới có tới rằm tháng Chạp, ông bà ngoại đã cho dì Lụa lên đón hai đứa
về quê trước. Bởi vì đặc biệt năm nay ở nhà quê, ông bà cho tát ao bắt
cá. Ôi chao ! Nghe nói đến tát ao là cả hai đứa mắt đã sáng lên như đèn
ô tô. Mấy năm trước, chỉ nghe bọn trẻ trong làng tả cảnh tát ao là
chúng nó đã cảm thấy sướng mê người lên rồi.
Đúng
sáng hôm mười lăm tháng Chạp, dì Lụa dẫn hai đứa ra bến xe. Bố thì mắc
đi làm, nhưng mẹ ra tiễn cho đến lúc xe chạy. Mẹ dặn tới giáp tết thì
cả bố lẫn mẹ cũng về quê cùng. Chỉ đứa nào ngoan, không trèo cây, không
tắm ao, không đi lang thang ra vườn lúc nắng, không uống nước lã, không
ăn ổi xanh, không bắt đom đóm, không tìm sâu kèn, không dính nhựa cây
bắt con Cồ cộ, không nhặt búp đa, không chạy nhẩy trong chùa ngoài miếu
và trăm nghìn thứ “không” khác nữa, thì mẹ mới đem quần áo mới về quê
cho mà mặc tết. Cả hai đứa luôn miệng hứa lu bù. Lúc đó thì mẹ bắt hứa
cái gì chúng nó cũng đều dám hứa văng mạng tuốt !
Chiếc
xe đi qua những cánh đồng lúa xanh mướt như thảm nhung, một mầu xanh
mát rượi trải rộng đến tận chân trời. Thỉnh thoảng lại thấy nhô lên một
căn nhà ngói đỏ. Đó là những chỗ dành cho nông phu nghỉ ngơi lúc đi làm
đồng. Gió thổi lồng lộng qua hai bên kính xe. Vì đường vắng nên Hà và
Di thò hẳn cổ ra ngoài để hít mạnh mùi thơm của đồng lúa. Sống lâu ở
tỉnh, chưa bao giờ Hà và Di được hưởng bầu không khí trong lành như
thế. Không gian như mở rộng tới cuối tầm mắt, ánh nắng chan hòa rực rỡ.
Bầu trời trong vắt không vẩn một làn mây. Thỉnh thoảng một đàn cò vỗ
cánh bay lên in trên nền trời thành những đốm trắng phau, chuyển động
nhịp nhàng. Chiếc xe nuốt hơn ba chục cây số đường nhựa thì ngừng lại ở
đầu một con đường đất. Từ đây vào đến cổng làng, mọi người còn phải đi
bộ mất hơn cây số nữa. Mặc cho dì Lụa hò hét, Hà và Di phóng mình chạy
lên trước. Con đường bây giờ thu hẹp chỉ còn một rẻo nhỏ và dài giống
như một dòng suối tí hon chạy ngoằn ngoèo dưới những bụi tre um tùm.
Gió thổi đưa từng thân tre cọ sát vào nhau tạo nhành những tiếng kêu
kẽo kẹt. Lá tre vàng úa rụng xơ xác đầy đường. Trên những mô đất ẩm
ướt, thỉnh thoảng lại có từng đám gà con mới nở với những bộ lông vàng
chóe chạy ríu rít theo chân gà mẹ đi tìm mồi.
Chạy
đua được chừng một quãng dài thì Hà và Di gặp một đàn trâu cũng đang
lững thững trở về. Dẫn đầu là một thẳng bé đầu trọc lông lốc. Một tay nó
cầm sợi thừng, một tay nó ôm cái tổ chim. Nó kéo con trâu đầu đàn đen
bóng như gỗ mun, ức nở, sừng dài và nhọn hoắt. Theo đằng sau là ba bốn
con trâu khác cùng một bầy nghé thấp lũn chũn. Lâu lâu mấy chú nghé lại
nhẩy cẫng lên. Thằng bé vừa ngoái cổ lại thấy Hà và Di là reo to ngay
lên:
– Ái chà chà… Về quê ăn tết đấy hở ?
Di nhận ngay ra nó là thằng Tư, con bác Hiệp. Di vui vẻ nói lớn:
– Tư ơi Tư ! Đằng ấy còn nhớ chúng tớ cơ à ?
Tư nhoẻn một nụ cười, rõ ra là hai hàm răng của nó sún gần hết:
–
Nhớ chứ sao lại không? Hè năm ngoái lúc đằng ấy ra tỉnh rồi trứng chim
của tớ nở luôn một bầy sáu con. Còn nhớ tổ chim mình bắt ở sau đình
không ?
Di gật đầu lia lịa:
–
Phải rồi. Tổ chim Vành Khuyên trên cây Muỗm có ba chạc ở sau đình. Úi
chà chà, hôm đó suýt nữa tớ bị cụ Từ phết cho một gậy, may quá vừa vặn
leo qua được cái tường hoa.
Tư xuýt xoa:
–
Bây giờ ở đấy còn nhiều tổ lớn lắm. Đủ thứ cả. Vành Khuyên này. Chích
Chòe này. Chèo Bẻo này. Có cả tổ Sáo Sậu nữa. Chờ ít nữa có trứng rồi
mình tha hồ mà bắt.
Câu
chuyện của chúng nó nổ như pháo ran. Chẳng mấy chốc đã về đến cổng
làng. Khung cảnh không khác gì mùa hè năm trước. Vẫn chiếc ao đình rộng
bát ngát với làn nước xanh lơ và phẳng lì. Vẫn những lùm cây um tùm in
bóng trên mặt nước. Ngôi đình ngói đỏ đã ngả màu rêu xanh. Trên nóc có
hai con rồng chầu hai bên một mặt nguyệt. Từng hàng cột cẩn mảnh bát sứ
sặc sỡ đứng cao sừng sững. Khung cảnh quen thuộc làm Di nhớ tới những
ngày hè, cả lũ rủ nhau lặn xuống ao đình bắt từng con ốc đá bám chặt lấy
bờ rêu. Nhiều hôm bước xuống mấy bậc thềm ao, chỉ cần thọc tay mò theo
những bờ gạch là tóm được dăm bẩy chú rồi. Ốc này đem về luộc chấm với
nước mắm gừng, ớt thì phải biết. Chỉ cần nghĩ như vậy là Di đã thấy
nước rãi ứa ra ở chân răng.
Nhà
của ông bà ngoại ở bên trong xóm Giếng. Dì Lụa dẫn hai đứa đi qua những
con đường cẩn gạch sạch sẽ và ngăn nắp. Hai bên đường, hoa Tầm Xuân nở
rực rỡ trên từng dẫy bờ rào, có những nhà trồng cây Tơ Hồng, dây tơ nở
ra một mầu vàng ối rực rỡ như màu áo bào vua. Rải rác đây đó, nhiều nhà
đang quét vôi, tô cổng, sửa soạn ăn tết. Chừng đó cả hai đứa mới lại
sực nhớ ra là tết đã gần kề. Hôm nay mười lăm tháng Chạp. Tuần sau cúng
ông Táo về Trời. Tuần sau nữa là tết. Từ nay đến tết còn cả một nửa
tháng để rong ruổi với những thú ở nhà quê. Đặc biệt là dì Lụa đã cho
biết nhà bà ngoại tát ao bắt cá.
Khi
Hà và Di về tới nhà thì ông ngoại đã qua bên vườn từ sáng sớm rồi. Đúng
ngày hôm nay, công việc tát ao được khởi sự. Theo lời bà ngoại thì tuy
trễ mất một hôm, nhưng hôm nay tốt ngày. Vả lại, ông ngoại đã tăng
cường thêm người làm rồi.
Theo
kinh nghiệm của dì Lụa thì năm nào nhà tát ao sẽ ăn tết thật lớn, nhất
là vựa lúa năm nay được mùa, kho lẫm trong nhà đều đầy ăm ắp. Mưa
thuận, gió hòa, trúng lúa, đó là dấu hiệu của quê nhà yêu dấu vào những
năm thời bình sung túc. Vườn của ông bà ngoại cách nhà đến bốn, năm ngõ.
Hà và Di chỉ chờ bà ngoại hỏi thăm được vài ba câu chuyện là vội vã dắt
nhau ra vườn. Khu vườn của ông ngoại rộng bát ngát. Ngay phía sát bờ
rào, từng dẫy cây Cam trĩu nặng trái chín làm đỏ ối cả một vùng ngập đầy
bóng mát. Vào sâu hơn nữa là vườn Ổi và Hồng Bì. Rồi tới khu trồng Mít,
trồng Xoài. Sau cùng là cả một khu rộng mênh mông trồng Cải bắp, Su
hào, Khoai lang, Chanh, Ớt. Qua dẫy vườn rau thì tới ao cá. Cái ao này
rộng hơn ba sào, lan ra sát tới tận bờ tre, phía bên kia là cánh đồng
chiêm ngập nước.
Việc
tát ao được thực hiện rất dễ dàng. Chỉ cần be một con lạch trên bờ ao
ăn thông ra tới bờ tre. Đoạn dựng cầu nổi ra ngoài mặt nước cho hai
người dùng gầu Sòng đứng tát. Nước đổ vào con lạch chẩy tới chặng thứ
nhì ngay sát bờ rào tre, ở đó lại có hai người đứng tát nữa để đưa nước
ra ngoài cánh đồng. Cả thảy có tám người thợ thay phiên nhau tát nước
suốt ngày đêm. Họ dựng lều ở ngay bờ ao, để ăn ngủ luôn tại chỗ. Bầu
không khí trong vườn bỗng trở nên nhộn nhịp khác thường. Trẻ con trong
làng bu đông lại đứng xem tát nước. Thật ra là anh nào cũng nhăm nhăm
chờ tới lúc được nhẩy xuống ao mót cá trước khi nước được tháo trở về.
Tư giảng giải:
–
Nhưng từ đây đến đó sẽ còn lâu. Phải mất năm ngày để ao cạn, ba ngày để
bắt cá. Kỳ dư dân đi mót mới được bước xuống ao bùn dùng nơm để bắt
cá còn sót lại. Lúc đó thì loại cá lớn như cá Chép, cá Chầy, cá Trắm,
cá Quả, cá Đuối đều bị bắt hết rồi, chỉ còn nhiều nhất là Trạch, Diếc,
Rô và Trê. Cá Trê có biệt tài rúc xuống bùn. Nhiều tay may mắn có khi vớ
được những con cá Trê to bằng cả một bắp tay. Còn Trạch thì khỏi nói:
con nào con nấy thật dài và to tròn bằng ngón tay cái trở lên. Khó tóm
được cu cậu lắm nhé. Lẩn như Trạch mà lị. Trạch đem kho mặn, rắc muối
tiêu rồi ăn với cơm nắm thổi bằng gạo Mùa còn thơm mùi nhựa mới thì
tưởng không còn món ăn gì ngon cho bằng.
Chỉ
mới nghe thằng Tư tả sơ như vậy, Di đã thèm rỏ rãi. Nó bèn ra ngồi
chồm hổm bên bờ ao nhìn chiếc gầu Sòng nhẫn nại múc từng gầu nước xanh
đẫm mầu rêu hắt lên chỗ be bờ. Chung quanh nó mùi đất ẩm lên mùi cỏ
ướt, mùi hương thanh thoát của các loài hoa dại, mùi nhàn nhạt, hăng
nồng của nước ao đang tát cùng mùi khói đốt từ những đống lá khô ở các
góc vườn, tất cả đã tạo thành mùi vị đặc biệt quen thuộc của nhà quê.
Quanh
quẩn trong vườn một hồi lâu, Tư rủ bọn Hà, Di đến nhà bác Hương của
nó xem in tranh tết. Nhà bác Hương ở bên xóm Chùa. Căn nhà thật nghèo
nhưng tươm tất. Qua một giậu hàng rào bằng lá dâm bụt thì tới một cái
cổng gỗ xộc xệch, mái lợp bằng rơm cũ kỹ. Ngay bên cạnh cổng là cái cối
giã gạo. Ở nhà quê, không nhà nào là không có cối. Lòng cối làm bằng một
phiến đá vuông, lớn, khoét trũng ở giữa và chôn chặt xuống đất. Chày
giã làm bằng một thanh gỗ lớn, đầu bịt sắt. Chiếc chày này được một cái
cần dài thường là thân một cây Ổi nâng lên, thả xuống do một hay hai
người dùng chân ấn xuống ở một đầu. Về đêm khuya, tiếng chày nện thình
thịch vào lòng cối tạo thành một âm thanh quen thuộc của tất cả mọi nhà.
Đi
qua một cái sân đất nhỏ thì đến một căn nhà ba gian lụp xụp. Tường
xiêu, vách lở, nền đất cũ kỹ, mái rạ ẩm ướt mốc meo. Khung cảnh chứng
tỏ nhà bác Hương không bao giờ dư dật. Quanh năm, bác Hương sống
bằng nghề làm đồ vàng mã. Vào dịp tết Trung Thu, bác sản xuất Tiến sĩ
giấy, đèn Ngọc thỏ và đầu Sư tử. Đến tết Nguyên Đán thì bác in tranh Gà,
Lợn, Nghi Xuân Tiến Lực, tranh Mai, Lan, Cúc Trúc và chế những đồ chơi
như lực sĩ đánh đu bằng gỗ cây Bần. Bởi vậy những ngày gần tết, gian nhà
của bác tràn ngập những giấy má, phẩm mầu và khuôn gỗ. Mỗi khuôn gỗ
được khắc hình và để in một mầu. Một bức tranh năm mầu phải cần bốn cái
khuôn. Bao giờ tranh tết cũng dùng những mầu như vàng, xanh, đỏ, lục,
tím và đen. Tuy có tới 6 mầu, nhưng chỉ cần có 4 khuôn in vì mầu lục là
mầu xanh in chồng lên mầu vàng, mầu tím là mầu xanh in chồng lên mầu đỏ.
Bức tranh vẽ hình lợn mẹ với bầy lợn con có đủ loại mầu, biểu dương cho
sự thái bình sung túc. Có tranh thì vẽ Tiến sĩ Chuột vinh qui, cờ quạt
linh đình, biểu hiệu cho sự vinh hoa phú quí. Cũng có bức họa thầy giáo
Ếch lấy theo tích Lão Oa giảng độc v.v… Mặc dầu năm nào cũng như năm
ấy, đề tài, nội dung bức tranh không thay đổi, nhưng nhà nào cũng phải
mua hằng chục bức đem dán la liệt trên vách đất. Ngày tết mà vắng bóng
tranh gà, tranh lợn thì kể như là thiếu mất hương vị Tết cổ truyền. Đó
là chưa kể đến sự mê tín là cả năm làm ăn không phát đạt nữa.
Nhà
bác Hương đông con, đứa nhỏ nhất cũng đã lên bẩy. Đứa lớn nhất tới
mười bốn, mười lăm. Cả bọn năm, sáu đứa đều có thể giúp bố mẹ trong
việc in tranh. Những tờ giấy tầu bạch được đặt lên khuôn gỗ có phết sẵn
phẩm mầu, sau đó dùng bàn chải xoa đều là tranh đã in được một mầu. Thủ
công nghiệp một tí nhưng cũng rất lẹ làng. Vả lại mầu sắc càng loè loẹt
ấn loát càng thô sơ, giản dị thì bức tranh lại càng mang một vẻ dân tộc
tính dễ thương, mộc mạc.
Sự
hiện diện của Di và Hà được bác Hương kể như khách quí. Học trò trên
tỉnh về mà. Cho nên bác cho Hà và Di tha hồ lựa tranh đem về để treo
Tết. Hà xin năm tấm: một ông Thiện, một ông Ác, một tranh Gà, một tranh
Lợn và một đám rước Chuột Vinh qui. Còn Di thì tinh nghịch hơn, nó đòi
thằng Út nhường chỗ cho nó in thử. Trông người ta làm thì ngon, đến lúc
mó tay vào mới thấy là cả một nghệ thuật. Mực phải xoa cho mịn, giấy
thì phải đặt cho ngay, bàn chải phải xoa cho đều. Mực không mịn, giấy
không ngay, xoa không đều kể là tranh bị hỏng. Trong phút chốc, Di làm
hư luôn bốn bức. Nó đỏ mặt tía tai nhường chỗ lại cho thằng bé, nhỏ
hơn nó đến ba bốn tuổi. Thằng này làm thoăn thoắt, ngon ơ. Rõ ra một con
nhà nghề.
Càng
tới ngày giáp tết, mọi người càng trở nên hối hả. Riêng nhà ông bà
ngoại, dì Lụa ngược xuôi suốt từ sáng đến khuya. Năm nay tát ao được cá
nhiều hơn hết mọi năm. Dì Lụa phải chuyển lên chợ bán buôn. Thu xong
tiền là dì đã đi sắm tết. Thôi thì đủ thứ không thiếu thứ nào. Từ lá
dong gói bánh, đến gạo nếp, đậu xanh, dưa hành, đường, mật, vàng,
hương phấn sáp, gương lược, cùng hàng trăm thứ vụn vặt khác, kể cả
những bánh pháo hồng điều bọc ngoài bằng lớp giấy bóng thơm phức.
Từ
sáng ngày hai mươi tám Tết là xóm làng rộn rã vì tiếng lợn kêu. Nhà
nghèo thì chung nhau (gọi là “đụng”) một con. Các cầu ao luôn luôn nhộn
nhịp kẻ lên người xuống, tiếng gọi nhau léo nhéo, ồn ào. Trong lúc dì
Lụa với bà ngoại bận túi bụi sửa soạn gói bánh chưng thì Hà và Di theo
bén gót ông ngoại để giúp ông quét vôi tường, dọn cỏ ngoài sân và thích
thú nhất là sửa soạn dựng Cây Nêu. Năm nay cây Nêu nhà ông cao nhất.
Ông đã dành sẵn một thân tre thật cao từ nhiều tháng trước. Cây Nêu mang
theo những lá cờ phướn, với những cái khánh bằng đất nung để khi gặp
gió, chúng đụng vào nhau kêu rủng roẻng. Ông ngoại còn tết cả những cái
ngù bông ngũ sắc, treo quanh thân Nêu thành một cái vòng tròn có đủ bùa
chú trừ tà ma, yêu quái. Sáng sớm ngày ba mươi, cây Nêu được dựng lên
ngay giữa sân nhà. Cờ phướn theo gió bay phất phới. Ông ngoại còn chọn
ba bánh pháo thật tốt treo ở thân Nêu để sửa soạn đốt vào đêm Trừ tịch.
Ở
trong nhà, bàn thờ chính giữa được sửa soạn thật kỹ lưỡng. Các đỉnh
trầm, chân nến được đánh bóng sáng choang. Những án thư, hoành phi, câu
đối cũng được đem chùi rửa sạch sẽ. Hương vị của ngày tết thật tràn
ngập ở mọi đồ vật mọi công việc, ở cả nét mặt hân hoan nhưng vội vã của
mọi người. Ai cũng muốn níu thời gian chậm lại hơn nữa đề kéo dài sự sửa
soạn. Bọn Hà và Di cũng muốn thời gian chậm đi, bởi vì chúng đã bắt đầu
sốt ruột khi thấy đã xế trưa ngày ba mươi mà bố mẹ ở trên tỉnh chưa
về. Chúng nó trông đợi nhất là những bộ quần áo mới mà mẹ đã hứa mang về
quê lúc xe của Hà và Di sắp sửa chạy.
Chờ
mới đến gần xế chiều, bố mẹ mới về đến cổng. Cả gia đình bên nhà ngoại
như vụt ồn ào hẳn lên. Mọi người ùa nhau ra đón và khuân đỡ những gói
đồ thật to do bố mẹ mang về. Cái Hà giở trò làm nũng mẹ, vừa vùng vằng
trách mẹ về trễ vừa đe dọa bằng màn ngủ nhè. Di thực tế hơn, đánh đu lấy
lưng bố, nhờ bố “chỉ điểm” cho biết quần áo mới mẹ cất trong gói nào.
Bố tuy bận tíu tít nói chuyện với ông bà ngoại về lý do trễ xe, nhưng
cũng phải ngừng nói để chỉ cho Di về phía một chiếc bồ nhỏ. Di phóng
lại, gỡ tung nắp bồ buộc bằng dây kẽm lên. Nó lấy ra được đủ thứ quần áo
sang trọng đắt tiền. Khăn xếp, giầy da của Ông, áo the, khăn nhung của
Bà, quần lĩnh, phấn sáp, nước hoa của dì Lụa. Bộ đồ của Hà và Di bị nhét
tít xuống tận đáy. Hà có áo đầm thật đẹp bằng voan trắng phủ ngoài lớp
vải mầu hồng. Di có những hai bộ quần tây bằng nhung và sơ mi mầu sặc
sỡ. Mỗi đứa lại thêm một đôi giầy mới. Ngần ấy đồ dùng được tất cả mọi
người sử dụng ngay vào đêm Trừ tịch.
Trời
mưa xuân lâm râm. Bầu trời tối đen như mực, nhưng đèn nến trong nhà
sáng choang, khói hương nghi ngút. Đúng vào phút Giao Thừa, ông bà
ngoại bắt mọi người ăn mặc tề chỉnh theo ông ra sân đốt liền năm bánh
pháo rồi vào bàn thờ làm lễ Gia tiên và xem hoa Thủy Tiên nở. Mùi hoa
thơm ngát cả một gian nhà rộng rãi. Lễ bái xong, mọi người xúm lại quanh
nồi bánh Chưng sôi sùng sục. Một bàn Tam Cúc được bầy ra. Vừa đánh bài,
trông nhà, vừa canh nồi bánh. Hà và Di hẹn nhau sẽ thức suốt đêm không
ngủ, rồi ngày mai sẽ theo ông bà ngoại xuất hành đi lễ chùa, hái lộc
sớm.
Ấy
vậy mà mới qua giao thừa được chừng hơn một tiếng thì cả hai đứa đã lăn
quay ra ngủ khò. Chắc trong giấc ngủ, cả hai đều mơ thấy xác pháo nổ đỏ
cả một bầu trời rực rỡ muôn ngàn loài hoa để chào mừng một mùa xuân
thanh bình đã trở về trên quê nhà yêu dấu.
NHẬT TIẾN
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.