Theo như Thế Lân tính toán, cung nữ
thường xuyên là ba ngàn người, có thể chia làm ba loại: một loại cực tốt và một
loại cực xấu, chiếm tỷ lệ nhỏ, xen giữa hai cực là hạng đông đảo bình thường.
Loại rất tốt này có thể ước khoảng chừng 500 người, đó là những kẻ có nền giáo
dục vững vàng, ý thức về phẩm giá mình sâu sắc, không thể lung lạc hoặc bị dao
động vì tình huống nào. Còn hạng rất xấu ắt cũng xấp xỉ số lượng như thế độ 500
người, là loại lẳng lơ, dâm đãng, sẵn sàng làm theo ý muốn nhất thời, mà không
đếm xỉa gì đến danh dự, tương lại. Giữa hai loại người kể trên, số người bình
thường gồm độ hai ngàn, đó là những kẻ thường xuyên chòng chành giữa tốt và xấu,
dễ bị tác động của các ảnh hưởng bên ngoài. Nói theo ngôn ngữ chính trị ngày
nay, đó là đa số thầm lặng. Như vậy, Thế Lân sẽ để yên lành cho số 500 cực tốt
mà không phí sức hoài công gạ gẫm, chỉ hướng hoạt động vào số 500 cực xấu rồi
sẽ dùng lực lượng này tác động vào cái số đông thầm lặng hai ngàn, nâng dần con
số có thể thao túng là hai ngàn rưỡi. Với cái sức lực sung mãn của gã, nếu như
mỗi đêm giao tiếp năm người, thì phải mất gần năm rưỡi mới quay vòng được.
Nhưng làm thế nào giao tiếp cho được an
toàn, giữa đám thái giám đầy lòng nghi hoặc và lớp cung tần đa sự, chua ngoa?
Thế Lân vắt óc để tìm phương kế. Bây
giờ sáu tháng đã qua, tác dụng của thuốc không còn, sinh lực đã được phục hồi
mau chóng, gã muốn số vàng bỏ ra cho lão họ Lưu phải được thu về lợi tức tối
đa. Bỗng gã chợt nhớ nội cung có một chuồng lớn nhốt đầy loại chó sung mãn, để
người nuôi dạy, cho vua sử dụng trong dịp săn bắn đầu xuân, thỉnh thoảng vẫn
được thả cho chạy rong để giãn gân cốt và gần như chẳng mấy ai buồn lưu ý đến.
Nếu gã có thể cải trang làm chó, dọ dẫm đi giữa đêm khuya, chẳng là thượng sách
hay sao?
Thế Lân hì hục chọn mua một loại vải
đen, tìm ít da thuộc làm cốt, lúi húi khâu kết tạo tác ra một lốt chó – một con
chó mực, cho phù hợp với đêm đen – rồi một đêm khuya gã khoác vào người, khi
chắc thiên hạ đã an giấc điệp. Gã mở nhẹ cửa bò ra khỏi phòng, rồi cứ bốn chân
men xuống bực cấp, theo các lối đi, nép mình vào dãy tường hoa, thỉnh thoảng
dừng lại hít ngửi ở dưới gốc cây y hệt loài khuyển chính hiệu. Gã rẽ phải, quẹo
trái, đi vào khuôn vi gần nhất và đến căn phòng Thúy Liễu, là người cung nữ
lẳng lơ mà gã đã chọn làm điểm đột phá đêm nay. Vẫn cúi khom người, gã đưa một
tay cào lên cánh cửa. Chỉ nghe im lìm. Gã cào mạnh hơn. Và cửa sực mở, hắt ra
ánh sáng của ngọn đèn hồng. Gã chồm vào trong, Thúy Liễu vừa buột miệng kêu:
- Con…
Thì gã bật dậy kịp thời, ngăn chận
tiếng “chó” khỏi ra đầu miệng, hổn hển nói ngay:
- Ta là Chu Thái giám đây…
- Ồ!
Dưới ánh hồng lạp chập chờn, long lanh
đôi mắt đa tình của người cung nữ:
- Ta đến tìm nàng, nên phải tự biến
thành loài súc vật luồn lõi trong đêm. Ngoài đôi ta đây, không ai biết được
cuộc hội ngộ này.
Thúy Liễu có thừa thông minh để hiểu
việc gì đang đợi chờ mình – và mình chờ đợi – nên vội đưa tay tắt ngọn đèn
hồng.
Trái hẳn với điều Thế Lân suy tính,
đêm ấy gã không còn đủ thời gian tìm đến với người thứ hai, nói gì đến bốn, năm
người. Đã nhiều năm rồi chờ đợi mỏi mòn mà không gặp được nhà vua – khát vọng
duy nhất của đời Thúy Liễu cũng như của những phi tần – dồn nén ấy đã lâu ngày
thành mối ám ảnh gây nên cuồng loạn. Vì thế, mỗi một đêm xuân làm sao bù đắp
cho nhiều năm dài đã là những ngày đông lạnh triền miên, và Chu Thế Lân dẫu đem
tất cả háo hức chất chồng qua bao thời gian mơ tưởng vẫn không thực sự làm nàng
toại nguyện. Chưa tàn canh ba, gã phải vội vã cáo từ, nhưng còn bị kéo lui lại
mấy lần mới khoác được cái lốt chó, lết về phòng mình.
Sau thử nghiệm ấy, họ Chu thêm phần
bạo dạn, từ đấy không đêm nào gã lại không bốn cẳng ra đi sục sạo khắp chốn tam
cung. Nhưng sau hai tháng, gã thấy mình gần kiệt lực trong khi đối tượng tìm
gặp thảy đều ở buổi ban đầu phơi phới tình nồng. Đến tháng thứ ba, gã đã đuối
sức, cố gắng đến tháng thứ tư thì bước không nổi, đầu ù, mắt hoa, chân tay run
rẩy. Con số những kẻ dâm đãng mà gã thống kê thì gã chỉ mới tiếp xúc trên một
phần năm, và số còn lại chỉ cần nghĩ đến đã khiến gã thấy hoảng sợ. Hẳn khát
thèm nào đã được thỏa mãn cho đến thừa mứa, no nê, cũng dễ khiến thành nhàm
chán đến độ khủng khiếp. Đồng thời, như có một luồng thông tin ngấm ngầm trong
giới, Thế Lân được sự đón mời khẩn thiết của nhiều cung phòng. Gã phải vét hết
số tiền dành dụm gởi mua đủ loại sâm nhung cùng các liều thuốc bổ dương có mặt
trên thị trường, để nhờ tiếp sức. Nhưng các loại thuốc kích dục có làm cho gã
chồm lên như một con ngựa đuối sức nếm phải đòn roi quất mạnh, để rồi sau đó
lại rơi xuống sự đuối liệt thảm thương, bởi mọi trợ lực giả tạo mang đến từ
ngoài càng làm cạn kiệt nhiều hơn chút ít nội lực đang còn thoi thóp. Cuối
tháng thứ năm, Thế Lân hoàn toàn là kẻ suy bại, giống hệt như các thái giám
thực sự. Và sự thái quá, cuối cùng đã gặp được sự bất cập.
Tuy vậy, Thế Lân không thể làm ngơ
trước sự đón mời nồng nhiệt của kẻ chào hàng, và nhiều cung nữ đã từng với gã
qua đêm thân mật nay thành liều lĩnh một cách quái đản, thường dám réo gọi mỗi
khi bóng gã thoáng qua. Để xoa dịu các cung nữ quá đỗi nhiệt tình hòng tránh
những điều tai họa, gã lại lê cái thân xác suy nhược bọc trong lốt chó tìm đến
bọn họ vào lúc đêm khuya, một hai lấy lời an ủi, vỗ về, mượn cớ bệnh hoạn để mà
chối từ… nhiệm vụ. Thoạt đầu, gã không dám tự thú nhận về sự bất lực của mình.
Đàn ông nào trên đời này thảy đều có lòng tự ái đặc biệt ở trong khả năng giới
tính của mình, và họ thường vẫn phao tin thất thiệt để tự chứng tỏ vượt trội
trên người đồng loại. Rốt cuộc, Thế Lân thấy chỉ có lòng thành khẩn khai ra sự
thực mới cứu được mình.
Nhưng dẫu gã đã dẹp bỏ tự ái truyền
thống của người đàn ông bằng những chứng minh cụ thể về sự bất lực, các nàng
cung phi vẫn cứ bừng bừng nổi giận, nhất định không tin đó là sự thực. Người ta
đã nhiếc mắng gã bằng những ngôn từ cay độc và phũ phàng nhất, và nhiều người
đã đánh gã, cắn gã, thậm chí rút các trâm cài lược giắt rạch da thịt gã cho đến
chảy máu. Gã đã làm họ hụt hẫng, thất vọng và họ trả thù. Bây giờ họ không còn
sợ gã nữa, vì gã đã cùng phạm tội và phạm nhiều hơn. Thà cứ để họ chết héo dần
đi trong sự mỏi mòn, hơn là châm lửa đốt khu rừng cấm cho cháy bùng lên mà
không tìm phương dập tắt.
Hóa ra những sự gắn bó giữa người,
thuần bằng ngã dưới, lại dẫn đến những kết quả bi thảm vậy sao? Trong khi ê ẩm
khắp mình, đau từng khớp xương, nhức từng bắp thịt, gã đã khom mình lê lết đi
trên bốn chân về lại chỗ ở, thấm thía hiểu rằng phải đi bằng chính đôi chân giữ
sự ngay thẳng cho một mái đầu ngẩng cao mới tiếp nhận được nguồn vui thực sự
của lòng tự hào.
Một hôm ngắm mình trong gương, Thế Lân
hoảng hốt đối diện với một con người xa lạ, má hóp, mắt sâu, dáng vẻ lờ đờ, cọm
rọm như một ông già suy yếu ngoài tuổi 70. Sự biến đổi thật mau chóng, vượt xa
qui luật tang thương của trò tạo hóa. Thì ra, mọi vật, mọi việc trên cõi đời
này đều phải trả bằng cái giá tương xứng, và mọi khả năng, kể cả khả năng ước
vọng, đều có lằn ranh khó nỗi vượt qua. Ý thức được các điều đó thì đã muộn
rồi. Có lẽ, những câu kết luận tìm thấy chậm nhất là điều tệ hại nhất của nhân
loại.
Và khu rừng cấm đã bị đốt cháy cứ cháy
phừng lên, mỗi ngày quạt cái sức nóng vào vùng lân cận. Các cung nữ đã đạp ngã
các thứ tường thành cấm kỵ để tiếp đón Chu Thế Lân, bây giờ như leo lên trên
mình cọp, không còn kiêng sợ gì nữa. Các ả đem sự bí mật của mình tiết lộ cho
kẻ đồng hội, đồng thuyền, thêu dệt, vẽ vời cho thêm kỳ thú để tự thỏa mãn qua
sự khiêu khích nơi người nghe chuyện, và lầm nghĩ rằng ngoài gã Thế Lân hẳn còn
nhiều vị thái giám cương cường có thể gạ gẫm vào vòng thân mật. Hậu cung rõ
ràng đã có khá nhiều triệu chứng bất thường, và những con người xét nét, đa
nghi rất mực, là các thái giám, bắt đầu sục sạo đi tìm sự thực. Chức vị phó
quản của gã Thế Lân còn là nguyên cớ cho sự sục tìm, bởi các thái giám chính
hiệu đã bị tước đoạt khả năng ham muốn bản năng, chuyển đổi dục vọng thành nỗi
khát thèm quyền lực. Và một thái giám họ Cù, sau khi nắm chắc nguồn tin, đã làm
tường trình tâu lên vua.
Thoạt nghe, vua tái cả mặt, không muốn
tin chuyện động trời như thế là điều có thật. Lập tức, lệnh truyền gọi Chu Thế
Lân đến trước bệ rồng. Vua quát:
- Tên súc sinh kia! Mày đã giở trò
cuồng loạn ở nơi cung cấm, ngàn lần đáng tội bêu đầu!
Họ Chu đập đầu xuống bệ, một mực kêu
oan, khóc than thảm thiết. Vua nhìn thấy gã gầy ốm, xanh xao, má hóp lưng còng,
không tin gã dám cả gan xúc phạm hậu cung, bèn cho tạm giam vào ngục để chờ tra
hỏi phi tần. Một đoàn giám sát được gấp thành lập, thẩm vấn từng người cung nữ.
Dĩ nhiên ả nào cũng đều xác quyết về sự trong trắng, trung thành đối với nhà
vua, lên án những phường dâm đãng, lăng loàn. Vua chợt hiểu rằng trong vấn đề
này nếu không bắt được quả tang tại trận thì ai cũng đều tự cho là mình đạo
hạnh thập toàn. Viên thái giám đã tố cáo nội vụ, thấy việc chưa được làm rõ, sợ
mình sẽ bị kết tội vu cáo, bèn xin vua cho khám xét chỗ ở của Chu Thế Lân, và
được chấp thuận.
Một đoàn mười viên thái giám được phái
đến nơi, rà soát, lục lọi, xâm tìm từ ngoài vào trong, từ trên mái nhà xuống
đến nền đất, vẫn không thấy một dấu vết khả nghi. Họ toan quay về bỗng thấy ở
trên bàn thờ tiên tổ họ Chu có một tráp lớn bằng bạc, chạm trổ khá đẹp đặt sau
lư hương, bèn lấy xuống xem. Tráp được khóa kỹ, phải dùng mũi gươm thật bén cạy
nắp, và họ tìm thấy một đống vải màu đen và có viền nẹp da. Lôi ra, mọi người
bàng hoàng và cũng mừng rỡ nhận rõ đấy là tấm áo mượn hình loài chó với chiếc
đầu chó độn bằng bông vải.
Vua thấy tang vật, ngồi chết lặng đi,
căm giận cùng cực. Một sự xúc phạm thể giá vương triều đến mức như thế thật đã
ra ngoài trí tưởng mọi người. Khi điệu gã lên, vua ném tang vật xuống đầu của
gã, hét to: “Cẩu đại tặc”, rồi lại nín lặng. Trong bầu không khí trang nghiêm
và yên tĩnh như trước cơn giông bão, chỉ nghe có tiếng nghiến răng của đấng
quân vương.
Không có một hình phạt nào tương xứng
với tội trạng ấy. Dẫu đem băm vằm xác gã ra trăm ngàn mảnh thì cũng vô ích, vì
sau khi chết thân xác của gã có đem xào lăn hay là nướng chả cũng không làm gã
động lòng. Cuối cùng nhà vua nảy ra một ý: cho đem treo gã lên một cành đào ở
giữa hậu cung và buộc cung nữ mỗi người đánh gã đúng ba chục hèo. Như thế, vừa
có tác dụng răn đe thị chúng, vừa ngầm theo dõi những ai đã có tình ý với gã
đặng đem trừng phạt, vì vua cho rằng kẻ nào đánh nhẹ hoặc là đánh không đủ số
qui định, ắt có liên hệ với tên cẩu - tặc.
Nhưng tất cả đám cung nữ đã đánh đập
gã một cách nhiệt tình. Không phải vì họ sợ bị theo dõi, nhưng vì ai cũng căm
thù: các nàng đã tiếp xúc gã trong đêm thì quá bất bình vì gã đã khơi bùng dậy
ham muốn ở nơi lòng họ rồi lại bỏ cuộc đột ngột, chia sẻ niềm vui với đám người
khác, các nàng chưa gặp được gã thì bất mãn hơn, phải đánh để cho hả giận vì gã
đã không tìm cách gặp mình. Còn những cung nữ đạo hạnh thì phải trừng phạt gã
thật quyết liệt để bênh vực cho thể giá hậu cung. Vì vậy, mới nếm gậy của
khoảng ba chục người gã đã tắt thở. Những kẻ còn lại cứ tiếp tục đánh vào cái
xác chết cho đến tan tác, rã rời.
Nhà vua truyền đem ném xác giữa đồng
cho loài côn trùng dưới đất và loài diều quạ trên không tiêu thụ tử thi của
phường cẩu tặc. Rồi cho bắt Lưu ngự y là tội phạm gốc của tai họa này. Nhưng đã
từ lâu ông xin cáo quan về nuôi mẹ già, rồi bán sạch hết nhà cửa ruộng vườn,
mua chiếc ghe lớn để đưa toàn gia ra ngoài bể khơi tìm đến một xứ sở khác,
không rõ là nơi chốn nào.
Vua chưa nguôi giận và cũng khốn khổ
vì không biết rõ trong đám cung nữ những ai đã có giao tình với loài cẩu tặc.
Tốt nhất là cho sa thải toàn bộ ba ngàn cung phi để họ trở về đời sống dân dã
và tuyển mộ một lớp mới. Vì họ kể như là hạng bị ô nhiễm rồi nên được cho phép
lấy chồng để phân biệt với phi tần đúng hiệu, khi trả về dân không quyền được
lập gia đình, và những ai vi phạm vào qui định đều bị kết tội.
Cung nữ sau những năm dài cay đắng ở
nơi hậu cung đã tưởng đời mình tàn lụi thảm thương trong chốn tù ngục lụa là
nay được thả về, rất là vui sướng. Đi qua cánh đồng còn phơi xương của Thế Lân,
họ bèn lấy đất lấp lại, vun thành mộ lớn. Về sau, nhiều cô có chồng, có con,
được sống vui vầy, mỗi khi qua đó vẫn nhớ ơn gã bèn trồng nơi mộ một loài hoa thơm
hoặc một giống cây ăn trái. Cây hoa nở rộ, lớn lên, gọi chim chóc đến khiến
chẳng bao lâu mộ đã thành rừng, và đất tự nhiên nổi lên như một gò lớn – hình
như thái giám họ Chu xúc động được sự chăm sóc của các cung nữ nên không chịu
nằm bất động – do đó, có người gọi đây là hòn Cẩu Sơn, tức là núi Chó.
Một số nho sĩ trong vùng nghĩ về núi
Chó và chuyện Thế Lân, cho rằng tai họa làm cho đồi phong bại tục là sự dâm ô
và làm rối nát xã hội là tệ tham những. Có Chu Thế Lân, là sự tồi bại, nhưng
nếu không có được Lưu ngự y tiếp tay, thì cái thể giá vương triều đâu bị tổn
thương như thế? Các vị bèn dựng ở tại Cẩu Sơn một tấm bia lớn, ghi hai câu thơ
để nhắc nhở đời. Xin dịch sát ý, nhưng kém văn vẻ, như sau:
Dâm
ô đảo lộn, người ra thú
Tham
nhũng lộng hành, quỷ nhục vua.
Về sau có một nịnh thần cho rằng tấm
bia đã bêu xấu vua, hơn nữa lấy thú
mà đối với vua là chuyện khi quân,
nên cho đập nát tấm bia.
Riêng số phận của các vị thái giám thì
bi đát hơn. Nhà vua không còn tin tưởng ở phép châm cứu, nên kể từ đấy, thái
giám được tuyển vào cung phải bị thiến gọn, do các quan lớn đầu triều kiểm tra.
Danh từ hoạn quan xuất hiện từ đấy. Nhưng theo sử sách, do còn tham nhũng nên
vẫn có sự thiến sót và các loại yêm - hoạn dỏm đã có một thời náo động hậu
cung, gây nên lắm chuyện cực kỳ quái đản mà chúng ta sẽ nói đến, trong một dịp
khác.