Lên
ba tuổi, tôi đã phải xuống Châu Đốc ở với gia đình bác trai. Lúc đó tuy
còn rất nhỏ, nhưng hình như tôi đã sớm biết thân phận "ăn nhờ ở đậu"
của mình, nên tôi đã chẳng dám hó hé gì: buồn riêng mình biết, vui chẳng
ai hay, mặc dù gia đình bác cũng chẳng có ai cay nghiệt gì với tôi. Lẽ
ra tôi chẳng nên có cái mặc cảm đó, nếu tôi biết , như khi đã lớn lên,
rằng gia đình bác và gia đình tôi đã nhờ vả, trao đổi con cho nhau, vì
mấy chị lớn con bác gái trước đều lên Sài Gòn ở trọ trong gia đình tôi.
Vậy là huề!
Ngoài
giờ đi học ở trường và học thêm ở nhà, tôi tương đối được tự do chơi
đùa trong xóm. Tôi dùng chữ "tương đối" ở đây vì muốn nhấn mạnh ý nghĩa
"được tự do trong khuôn khổ". Vì có lần tôi và chị Tâm lén bác trai chạy
qua đường để tới công viên ngang chùa Bồ Đề chơi và bị bác trai bắt
gặp, hai đứa tụi tôi đã bị rầy một trận và phải chịu phạt, mặc dù hình
phạt là gì thì tôi lại không nhớ. May là đường xá dưới Châu Đốc lúc đó
cứ gọi là vắng tanh như chùa bà Đanh, chớ nếu đông đúc như Hòn Ngọc Viễn
Đông thì chẳng biết hình phạt sẽ tới đâu.
Là
con gái, lại thêm cái tính tình nhút nhát, ít nói, không giống như chị
Tâm, tôi chẳng bao giờ là người khởi xướng bất kỳ một trò chơi nào. Ai
dẫn đâu tôi đi đó. Chiều tối cơm nước xong, chị San thường dắt chị Tâm
và tôi tới nhà chị Lệ bạn thân của chị. Cả bốn người sẽ ghé uống rau má
hoặc sinh tố mãng cầu, trước khi ra cầu tàu ngoài bờ sông hóng gió. Chị
San trước khi yên vị để nhỏ to tâm sự với chị Lệ, bao giờ cũng căn dặn
tụi tôi phải cẩn thận kẻo té xuống sông. Nói thật chớ khỏi cần phải nhắc
nhở thì tôi cũng biết là không nên lại gần mép nước, vì sợ "ma da" kéo
giò, nên chỉ cần nhìn xuống nước sông đen thui dưới cầu tàu, hai chân
của tôi cũng đã cảm thấy bủn rủn rồi. Tôi cứ ngồi đó, nhìn về bên kia
sông là Tân Châu, với những ánh đèn vàng phản chiếu lung linh trên mặt
nước mênh mông, tận hưởng những làn gió lồng lộng mát rượi như ướp nước
đá. Chẳng hiểu lúc ngồi hóng mát ở đó, trong đầu tôi đã suy nghĩ về
điều gì, vì tôi sớm biết mình là đứa đa sầu đa cảm, lại hay mít ướt.
Nhưng lúc ấy có lẽ tôi chẳng cả nghĩ như khi lớn lên, đơn giản chỉ vì
còn nhỏ quá. Nhưng mỗi khi hoài niệm về tuổi thơ ở Châu Đốc, tôi thường
nhớ đến hình ảnh mình ngồi đón gió ở cầu tàu tối đen bên bờ sông.
Cũng
có hôm chị Tâm và tôi lôi ở đâu ra được cuốn nhạc đóng bìa da của chị
San, và cứ thay phiên nhau nghêu ngao hết bài này tới bài khác, mặc dù
chẳng quen thuộc bài nào, nghĩa là hát phịa! Nhưng chỉ được một lát, chị
San khám phá ra được tội của tụi tôi đã lục đồ chị, nên chị la mắng
chúng tôi rằng từ rầy về sau không được hát nhạc "người lớn" nữa, mặc dù
vì lúc đó còn rất nhỏ, nên chúng tôi nào đã hiểu ý nghĩa mấy bài hát đó
đâu. Nhưng tôi vẫn còn nhớ mài mại tên vài bài, như bài Yêu của Trần
Thiện Thanh, bài Ảo Ảnh của Y Vân, bài Hai Phương Trời Cách Biệt của
Hoàng Trọng... Đúng là toàn nhạc dành cho người lớn thiệt!
Trong
xóm chúng tôi, trẻ em trai rất nhiều, và chúng thường rủ nhau chơi đủ
thứ trò, nhưng vì toàn là trò dành riêng cho con trai, nên tôi chẳng bao
giờ được tham gia, nên đành làm khán giả vậy. Tối
tối nhất là về mùa hè, nếu ở trong nhà thì không có ngay cả quạt máy,
nên người ta thường ra hàng ba hay sân trước nhà ngồi hóng mát, nói
chuyện vãn, ăn quà vặt, và trẻ em thì chạy nhảy chơi đùa quanh người
lớn. Nhiều trò cho tới bây giờ tôi cũng không biết chơi, như chơi
u, chơi tạt lon, chơi bắn bi, chơi đá cầu, đá dế... May ra thì tới bây
giờ, tôi có thể thành thạo một trò, đó là quay bông vụ, nhưng không phải
thứ bông vụ hồi xưa lơ xưa lắc làm bằng gỗ nặng trịch, và trẻ em trai
dùng một sợi dây gai quấn suốt thân bông vụ để điều khiển, mà là cái
bông vụ làm bằng mủ đủ màu sắc và nhẹ bưng. Thằng cháu tôi chỉ cần "dạy"
tôi chưa đầy hai giây đồng hồ là tôi có thể khiến cái bông vụ xoay
tít, trông y như đĩa bay trong phim khoa học giả tưởng. Chẳng hiểu là do
nó khéo bày, hay do tôi sáng dạ bất ngờ!
Lũ
con trai còn có một trò chơi mà tôi rất thích, mặc dù chưa bao giờ dám
thử lấy một lần. Hơn nữa, sau này trò chơi đó đã hoàn toàn bị thất
truyền, đó là trò bắn pháo dây bằng súng. Thuốc pháo được chứa trong
những khoanh tròn, nằm cộm lên trên một sợi dây bằng giấy hồng điều, bề
ngang bằng một cọng hẹ. Nhét nó vào súng rồi bóp cò, pháo sẽ nổ và
phát ra tia lửa tuy nhỏ nhưng cũng vui tai vui mắt. Lúc ấy, ta sẽ kéo
sợi dây pháo tới đúng vị trí pháo chưa nổ, và tiếp tục chơi cho đến cuối
dây pháo.
Trung
thu, lũ con gái tụi tôi thường lấy đèn cầy dùng để đốt đèn ra chơi trò
Đổ Bánh Khọt. Nghiêng cây đèn cầy đang cháy trên một ca nước để tạo ra
những cái "bánh khọt" bằng nến tròn tròn xinh xinh đủ màu nổi bập bềnh
trên mặt nước, trông như những chiếc đèn hoa đăng lung linh được thả
trên bến Hàn Giang.
Thỉnh
thoảng khi thức dậy vào ban sáng, bác gái đôi lúc trao cho tôi những
món quà và bảo rằng đó là của má tôi gởi xuống cho. Khi tôi hỏi thế má
tôi đâu thì bác lại nói rằng "người ta" mang giùm. Bao giờ quà cũng gồm
hai món, cho tôi và cả chị Tâm nữa, vì hai đứa bằng tuổi nhau, chắc bà
sợ nếu chỉ mua cho tôi thì chị Tâm vì không vui sẽ ganh tị chăng Cầm quà
trong tay, nước mắt của tôi bao giờ cũng tuôn như suối, vì còn nhỏ đã
phải xa nhà, xa mẹ. Bao giờ tôi cũng được lựa trước, khi là bộ quần áo
hàng hiệu, (có thêu một khóm bông đàng trước. Tôi thường chọn bông tím,
vì má tôi thích màu tím!), khi thì là một ve dầu thơm hiệu Reina của
Khiêm Tín Hãng, có lúc lại là một cái làn đồ chơi làm bằng mủ. Tôi cứ
căn vặn bác gái mãi, rằng người mang quà đến hồi nào, sao tôi không thấy
họ, và má tôi có nhắn gì không... Rồi suốt ngày hôm đó, và cả nhiều hôm
sau nữa, đừng hòng thấy tôi rời khỏi món quà đó, dù chỉ một giây.
Thỉnh
thoảng tôi cũng thấy bác gái bọc hàng trăm trái mãng cầu dai vào những
mảnh giấy nhựt trình, xếp cẩn thận chúng vào những cái làn bằng mây cho
tới khi đầy hụ, và lại giao cho nhà xe mang lên Sài Gòn biếu gia đình
tôi. Thì ra từ hồi xửa hồi xưa, nhà xe cũng đã có dịch vụ vận chuyển,
giao hàng rồi.
Anh
Chính anh họ của tôi rất đẹp trai, nhưng hơi mập. Anh đã chơi đủ thứ
môn thể thao, uống nước chanh... để bớt mập. Đôi khi anh Chính sai chị
Tâm và tôi cứ "đi bộ" lên lên xuống xuống từ chân lên tới vai anh, chắc
để anh giãn gân giãn cốt, sau giờ tập thể dục hay chơi thể thao. Thế là
hai đứa chúng tôi cứ hết lên lại xuống dẵm lên khắp người anh, rất êm
vì nhiều thịt! Tôi thích nhất lúc đứng trên hai mông của anh Chính, và
cứ bị tuột xuống vì trơn, khiến chị Tâm và tôi cứ phá lên cười khúc
khích.
Thi
thoảng anh Chính sẽ tham gia vào trò chơi của chúng tôi, với vai trò
cố vấn, cũng dễ hiểu thôi, vì anh vừa lớn tuổi nhất lại vừa to xác nên
nếu chơi cùng tụi tôi sẽ không thích hợp chút nào, nhưng hễ anh cố vấn
cho ai thì bảo đảm đứa đó chẳng bao giờ thua! Có lần chơi năm mười, anh
Chính bế tôi lên giấu sau cửa sổ, ngồi trên chiếc ghế bố đã xếp lại
ngoài hàng ba, và tôi đã trở thành người chiến thắng, vì không một đứa
nào đã có thể nghĩ ra chỗ nấp tuy hở nhưng kín như vậy.
Anh
Chính rất sợ bác trai, điều này tôi chỉ biết khi lớn lên. Lúc đến nhà
tôi trên Sài Gòn chơi, anh Chính nói chuyện rất to, tới nỗi khách bộ
hành ngang qua nhà tôi đều phải ngoái đầu nhìn vô nhà! Nhưng khi ở nhà
mình, anh Chính lại nói nhỏ xíu, vì sợ bác trai la rầy! Thầy tướng nói
rằng đàn ông ăn nói oang oang thường làm lớn, hèn chi anh Chính mới hăm
ba tuổi đã làm Trưởng Ty. Nhưng những lúc đi chợ, tôi lại thường hay tự
hỏi mấy anh chàng rao hàng ồn ào cả chợ sao cứ mãi là những người bán
hàng rong quèn!
Ông
Tụng lục sự, láng giềng của chúng tôi ở Châu Đốc, là một người rất vui
tính. Tối tối sau khi cơm nước xong, lũ trẻ chúng tôi, và cả người lớn
nữa, thường hay tụ tập ở hàng ba nhà ông Tụng để nói chuyện phiếm. Ông
Tụng hay kể chuyện vui, hoặc pha trò bằng những câu nói vui có cùng một
vần, hay những bài nhạc chế, khiến lũ trẻ chúng tôi cứ gọi là cười như
nắc nẻ, như, Đêm đông đại đội đốt đèn đi đâu đó? Đêm đông đại đội đốt đèn đi đ.. đây! Hoặc, Bụng cô to như cái thùng nấu phở, rốn cô lồi như cái quả cà chua!...
Đôi
khi, vô tình, tôi cũng là người mang lại những tiếng cười vui ấy, dù
chỉ họa hoằn. Có lần ngủ thiếp đi bất thường, lúc tỉnh dậy thì trời đã
tối, và nhìn quanh trong nhà chẳng thấy ai, tôi đã chạy sang nhà ông
Tụng để tìm. Thấy tôi ông Tụng bèn hỏi, bé Lan ngủ có ngon không? Tôi xí
xọn nói, ăn mới ngon chớ ngủ sao mà ngon được! Hoặc ông Tụng nói, nước
Việt mình chia làm ba phần gọi là Bắc kì, Trung kì, và Nam kì, thì tôi
lại một cách vô cùng ngây thơ cắc cớ hỏi, sao không có Huế kì?
Những
niềm vui thuở nhỏ, những câu nói đùa vô bổ như thế, nhưng lại sống rất
dai, và luôn luôn làm cho lòng tôi ngậm ngùi, se thắt, mỗi khi nhớ về
những năm tháng yên ả tôi được sống nơi tỉnh lỵ êm đềm nên thơ đó. Những ngày xưa thân ái, tôi trả lại cho ai!
Trần Thị Phương Lan
(Bút nhóm Hoa Nắng)
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.