Tiếng
còi cuối cùng của anh Đoàn Trưởng vừa chấm rứt thì Đội Báo của Hùng
cũng vừa dịch xong bản tin đầu tiên bằng dấu hiệu morse. Sau đây là nội
dung của bản hiệu lệnh khởi đầu trong trò chơi lớn gồm bốn đoàn tham dự:
Đoàn Vạn Kiếp, đoàn Chí Linh, đoàn Bình Than và đoàn Diên Hồng:
"Dấu
"Bắt đầu đi" được ghi tại gốc cây Sồi thứ ba bên trái trên con đường từ
Chùa Vôi xuống Miễu Bà. Chúc các em thượng lộ bình an"
Nhanh
như những con báo trong rừng sâu, đội Báo của Hùng, thuộc đoàn Vạn
Kiếp, lập tức tập hợp thành một hàng dọc. Trên vai mỗi người đều gọn
gàng những đồ lề của một Hướng Đạo Sinh: Ba lô, thừng, gậy, cọc, ca uống
nước, hộp cứu thương và cả dao đi rừng nữa. Hùng cầm cờ lao đi trước.
Vừa chạy, Hùng vừa vẫy tay để cả đội cùng chạy theo. Thế là đội Báo dẫn
đầu, trước cặp mắt ngơ ngác của mười mấy đội còn đang lúng túng với bản
tin dịch dở dang.
Hùng
dẫn toàn đội chạy qua sân cỏ ở mé sau chùa, nhẩy tưới qua một dẫy tường
thấp, rồi băng qua cửa tam quan. Con đường thẳng tắp từ cổng chùa Voi
dẫn xuống Miễu Bà với những thân sồi cao chót vót hiện ra ở trước mặt.
Cả đội lao nhanh về mé đường bên trái. Cây sồi thứ nhất, thứ nhì rồi thứ
ba. Tiểu đội Phó Sơn Kều la lên:
- Kia rồi!
Cả
đội nhìn theo ngón tay Sơn cao Kều chỉ. Mọi người đều trông thấy một
dấu chấm nhỏ và bên cạnh là một mũi tên. Đó là dấu khởi hành. Mũi tên
không chỉ theo con đường thẳng tắp mà bắt mọi người băng ngang xuống
ruộng. Các anh huynh trưởng thật là ác. Hùng la lên:
-
Hấp! Nhẩy cho lẹ! Bẩy cậu bé như bẩy con sóc cùng co chân đạp lớp sậy
mọc cao đến đầu gối và cùng lao xuống bờ ruộng. Thái cận thị chỉ tiếp
theo ngay một cái dấu thứ hai vẽ trên một tảng đá đặt ở bên bờ ruộng. Cả
đội hoan hỉ chạy lên trước. Hùng ngoái cổ lại đằng sau và vui mừng nói:
- Chưa thấy bóng dáng mấy đội kia đâu. Anh em ráng lên, chuyến này ta giật cờ danh dự.
Các
dấu đi dường tiếp tục hiện ra. Chúng hướng dẫn đội Báo của Hùng băng
qua cánh đồng tới một con lạch nhỏ, rồi men theo bờ lạch nhỏ tới một cây
cầu.
Dấu
đường đến đó là chấm dứt nhưng trên thành cầu một anh huynh trưởng án
ngữ. Lập tức Hùng sắp xếp đội ngũ lại cho chỉnh tề, và trình diện bằng
bài hát của đội. Anh huynh trưởng tiến lại gần chỉ ngay vào Thái cận thị
để bắt đọc điều luật thứ 8. A! Ra chặng đầu tiên khảo luật Hướng đạo.
Như một cái máy, Thái cận đọc ngay:
- Luật thứ tám: Hướng đạo sinh vui tươi dù gặp khó khăn.
Hùng
mỉm một nụ cười kiêu hãnh. Chẳng kỳ họp đội hàng tuần nào mà Hùng lại
không tổ chức cuộc thi khảo luật. Và anh em trong đội không một tên nào
lại không nhớ luật, như những điều luật đã ăn sâu vào từng đường gân,
thớ thịt. Bây giờ đến lượt Sơn Kều phải đọc điều thứ nhất:
- Luật thứ nhất: Hướng Đạo sinh trọng danh dự, ai cũng có thể tin được lời nói của một Hướng Dạo sinh.
Anh
huynh trưởng có vẻ hài lòng. Anh chỉ cho cả đội nhìn thấy cái túp lều
nhỏ của bọn mục đồng nằm ở mé bên kia cầu, cách đó hơn ba trăm thước.
Anh dặn:
- Lá mật thư nằm ở trên mái lá, ngay cửa lều. Các chú xem xong rồi để lại chỗ cũ. Thôi, đi lẹ lên!
Hùng
điều khiển cả đội nghiêm chỉnh chào anh, rồi cả bọn chạy thoăn thoắt
băng qua cầu. Ở phía đằng xa, xa tít cả đội mới thấy lố nhố bóng dáng
các đội sau đang tìm kiếm dấu đi đường. Hùng hô anh em nhanh nhẹn hơn
nữa. Cả bọn băng qua những con đường đất nhỏ trên bờ ruộng. Và một lát
sau, cả bọn dừng chân trước túp lá. Sơn Kều lợi dụng thân hình cao kều
của mình với lên mái lều trước. Hắn ta moi xuống được bức mật thư. Cả
bọn xúm lại coi, ở trong ghi những con số nhằng nhịt:
- 14 - 7- 104 - 35 -, 27 - 29 - 54 - 42 - 82 - 86 - 79
Ở dưới con số là một giòng chữ:
"Là công dân, em có thuộc Quốc Ca không?"
Hùng nhắc lại:
- Là công dân, em có thuộc Quốc Ca không? Trời ơi! Quốc ca thì ai mà không thuộc. Nhưng như thế nghĩa là gì?
Sơn kều bàn:
- Như vậy có thể bản quốc ca là chìa khóa giải lá mật thư nầy.
- Có lý lắm đấy! Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng...
Hùng giơ tay ra hiệu:
- Im! Hát suông như vậy không thể giải được bức mật thư này. Cậu nào tình nguyện chép ra giấy cho tôi...
Thái cận bàn:
- Thì giở sổ bài hát ra!
Hùng sực tỉnh:
- Ừ nhỉ! Thế mà không nghĩ ra. Cậu nào giở giùm tôi cuốn sổ hát.
Cuốn sổ lập tức được giở ra. Hùng ra lệnh:
- Đếm cho tôi đến chữ thứ 14 trong bài quốc ca.
Thái đếm rồi trả lời:
- Chữ 14 là chữ đi!
Hùng tiếp:
- Chữ thứ 7?
- Chữ đến!
- Chữ thứ 104?
- Chà... chà... dài dữ!... tuốt dưới này kia lận!... Đây rồi, chữ bờ!
- Hay lắm! Đến chữ thứ 35.
- Một... hai... ba... à... à... chữ sông.
Hùng reo lên:
- Đi đến bờ sông! Mật thư dễ quá! Nào, dò tiếp chữ thứ 27?
- Chữ 27 là chữ xông!
Hùng hỏi lại:
- Sông nữa?
- Không, xông viết ích-sì (x) cơ!
- À, xông! Còn chữ thứ 29?
- 29 là chữ khói!
Hùng reo lên:
- Xông khói! Đúng rồi, cậu nào đi vơ hộ ít cỏ khô đi để tôi dịch tiếp.
Trong khi cả bọn túa đi tìm cỏ thì Hùng và Thái cũng đã dịch xong toàn bức mật thư:
- "Đi đến bờ sông, xông khói báo cho người đến nơi".
Lập
tức cả bọn băng qua cánh đồng để kéo nhau ra tuốt tận bờ sông. Hùng ra
lệnh cho mấy người vun cỏ khô thành đống rồi châm lửa đốt. Một luồng
khói xanh lơ từ từ bốc cao lên trong cánh đồng êm ả và phẳng lặng. Tất
cả mọi người đều hồi hộp mở to cặp mắt ra đón chờ. Giây phút chờ đợi
thật là nặng nề và căng thẳng. Nhưng đâu đó, từ lùm cây, bụi cỏ, đến
những con đường có cát mịn dọc theo ven sông vẫn vắng lặng bóng người.
Bốn bề chỉ có tiếng gió vi vu trên ngọn cỏ, tiếng nước vỗ óc ách vào mạn
bờ, và ở phía rất xa, vọng lại tiếng bác nông phu nào đó đang kêu
"vắt... vắt..." điều khiển trâu cày. Hùng sốt ruột ra lệnh:
- Vun thêm cỏ khô nữa và thổi lửa cho to lên!
Cả
bọn lại xúm nhau chất thêm cỏ thành một đống lớn. Những cuộn khói lại
thi nhau bốc lên cao tỏa thành một đám xanh um bay tản mát trong bầu
không khí êm ả, thanh tịnh của đồng quê. Những con mắt lại mở to lên
nhìn. Không một hốc cây, không một bụi cỏ nào không được họ sục sạo bằng
mắt. Nhưng người đưa tin theo như ước hiệu trong mật thư vẫn bặt vô âm
tín. Hùng sốt ruột mở lại mảnh giấy đang còn cầm trên tay ngắm đi ngắm
lại. Một người bàn:
- Hay là mình dịch sai?
Hùng cãi:
-
Không thể sai được. Diễn tiến hợp lý vô cùng! Mà lời lẽ trong mật thư
cũng hợp lý nữa. "Đi đến bờ sông. Xông khói báo cho người đến nơi."
Đúng quá rồi mà! Hãy thử chờ thêm vài phút nữa xem sao.
Nhưng rồi năm phút trôi qua. Rồi mười phút vẫn không có điều gì khác lạ xẩy ra. Hùng quyết định thật nhanh:
- Chắc là có sự gì trục trặc xẩy ra đây rồi. Tất cả anh em cùng xuống bờ sông xem sao.
Cả
bọn đồng ý kéo nhau chạy băng qua đám lau sậy để tìm lối xuống bờ sông
rồi phân tán mỗi người một chỗ đi tìm tòi. Một lát sau, bỗng có tiếng
Sơn kều la lên:
- Anh em ơi!... Lại đây mà coi!...
Tất cả đội cùng chạy lại phía Sơn kều.
Theo
tay chỉ của Sơn, họ tìm thấy trên mặt cát có vô số dấu chân người dẫm
lộn xộn kéo dài từ một vùng bằng phẳng rộng rãi xuống đến mặt sông. Cả
bọn nhìn sang bên kia bờ. Chắc đoàn người qua sông ở chỗ ấy. Thái cận
nêu lên một câu hỏi:
- Mình quay trở lại báo tin cho các anh ấy, hay là mình qua sông?
Trong lúc Hùng còn đang lưỡng lự thì Sơn kều đã bàn:
- Qua sông đi! Biết đâu mình chả tìm được điều gì mới lạ.
Hùng hỏi:
- Theo ý các cậu thì tại làm sao lại không có người đón mình theo hiệu khói?
Một người nói:
- Biết đâu đây lại chẳng là một cách các anh ấy thử lòng kiên nhẫn của bọn mình thì sao?
- Không đúng! Cuộc chơi chưa qua được phần đầu! Tôi vẫn nghi là có trục trặc.
Hùng kiên nhẫn nói:
- Trước khi qua sông, mình thử cố tìm xem có dấu hiệu gì để lại đây không.
Cả
bọn đồng ý với nhau đi theo hình vòng tròn mở rộng. Tâm điểm là chỗ có
dấu chân người lộn xộn. Chỉ trong vòng một phút, bỗng có tiếng reo lên:
- Đây rồi!
Cả bọn lại ùa nhau kéo đến. Họ tìm thấy trên mặt cát một dấu hiệu đi đường viết rất vội vàng: Dấu hiệu bảo đi qua sông!
Hùng lại nhìn về phía bên kia bờ sông và nói bằng một giọng lo lắng:
- Mình phải cẩn thận lắm mới được. Bắt đầu từ đây không còn là một trò chơi nữa.
Một người hỏi:
- Làm sao anh biết được?
Hùng chỉ cái dấu đi đường rồi nói:
-
Các cậu không có nhận xét gì à? Một anh huynh trưởng Hướng đạo có khi
nào ghi dấu đường trên mặt cát. Nó không thể tồn tại được lâu. Điều đó
chứng tỏ anh đã phải qua sông rất vội vàng, vả lại anh cũng biết trước
là bọn mình sắp sửa tới đây, nên ghi như vậy mà không sợ mất dấu.
- Nhưng tại sao anh lại phải qua sông vội vàng kia chớ!
- Đó là vấn đề đáng lo ngại. Anh ấy phải bỏ dở cuộc chơi để qua sông một mình, tất phải có sự quan trọng, cấp bách hơn.
- Vậy thì chúng mình cùng vượt sông.
- Phải đấy!
Hùng ra lệnh:
-
Các đồ lề lủng củng xếp gọn lại ở ngay chỗ này. Gậy có thể mang đi
nhưng bó lại thành một bó. Cậu Sơn kều có nhiệm vụ vừa bơi vừa kéo qua.
Sang đến bên kia sông phải tập hợp đầy đủ chờ tôi rồi mới được tiến lên.
Tuyệt đối cấm đi lẻ từng người...
Ra lệnh xong, Hùng cúi xuống, lấy mũi dao vạch trên cát ướt một hàng chữ:
"Đội Báo qua sông lúc 09giờ 15 phút. Đi tìm dấu của anh huynh trưởng không có mặt ở bờ sông".
Sau
đó, cả đội lục tục kéo nhau lội xuống nước. Mỗi người biểu diễn một
kiểu bơi. Bề ngang của con sông không quá nửa cây số, một khoảng cách mà
mọi người dễ dàng vượt qua vì tất cả đều có bằng bơi lội từ năm trước.
Non nửa giờ sau, cả bọn tập họp ở dưới một đám sậy um tùm. Họ nhận ra
ngay dấu chân lộn xộn của đám người sang sông từ lúc trước. Hùng quan
sát một lát lâu rồi nói:
- "Họ" khá đông. Ít ra là có tới bảy lốt chân khác nhau.
Sơn kều tiếp theo:
- Có mấy người gánh nặng vì dấu chân của họ in rất sâu xuống cát.
- Đúng! Và kẻ dẫn đầu chắc chắn thọt chân vì có vết gậy chống theo hai lối chân mà một bên đậm, một bên nhạt.
- Có tìm thấy dấu của anh huynh trưởng đi theo không?
- Chắc ở lẩn quất quanh đây. Nếu đi theo dò xét thì anh ấy phải núp ở một chỗ cách xa đám người này.
Hùng cho lệnh vạch lau đi tìm. Cuối cùng họ bắt được một mảnh giấy viết nguệch ngoạc bằng bút chì rất vội vàng: "Phải hết sức cẩn thận. Bọn cướp có hai tay súng. Hồ".
Sơn kều reo lên:
- A! Anh Hồ, đoàn trưởng đoàn Chí Linh đây!
- Mình phải theo anh ấy gấp! Nào, cứ theo vết chân của đám người mà tiến lên. Kể từ phút này cấm nói chuyện!
Cả
bọn ai nấy đều nắm chắc cây gậy nhọn của mình và lủi qua những đám lau
um tùm tiến tới như những con sóc. Dấu chân đưa họ băng qua một cánh
đồng, tới đầm nước rồi lại một cánh đồng. Càng đi, xóm làng càng xa dần,
và bốn bề chỉ còn có tiếng gió rì rào thổi trên những đám lau sậy dầy
đặc. Tới gần xế trưa thì cả bọn thấy hiện ra trước mặt một khoảng đất um
tùm đầy cây cối, thấp thoáng ở đằng sau có một nhà tranh. Hùng tụ họp
anh em lại, thì thào:
-
Có thể bọn cướp đóng sào huyệt ở đấy. Anh em mình phải rút xuống chỗ ở
bờ rạch đằng kia, núp sau bụi cây lớn rồi cử người đi dò xét. Ai xung
phong làm nhiệm vụ đó?
Sơn kều giơ tay:
- Tôi xin đi. Các anh em cứ nằm yên ở đó chờ.
Hùng giơ tay xem đồng hồ:
- Bây giờ là một giờ mười phút. Cậu lấy lại giờ đi. Đúng chưa?
Sơn gật đầu. Hùng tiếp:
-
Đúng hai giờ, dù khám phá được điều gì hay không, cậu cũng phải trở lại
báo cáo. Hai giờ hơn không thấy cậu, chúng tôi coi như cậu bị nguy rồi
và chúng tôi tự vạch lấy kế hoạch hành động.
Sơn mỉm cười:
- Yên chí đi. Bắt được Sơn kều này cũng còn mệt. Cậu không nhớ tên rừng của tôi là Báo khôn ngoan à?
- Đành rằng cậu khôn ngoan nhất ở đây rồi, nhưng đối đầu với bọn cướp không phải chuyện đùa. Ráng hết sức cẩn thận nghe không.
Sơn
nháy một bên mắt, mỉm cười rồi lủi thật nhanh vào bụi cỏ. Trong chớp
mắt, mọi người đều không thấy tăm hơi của hắn ta đâu nữa. Chờ cho Sơn đi
khỏi, Hùng mới hướng dẫn anh em bò xuống bụi cây um tùm dưới bờ mương.
Tất cả nằm ép sát xuống nền đất ướt chờ đợi. Hùng nói:
-
Mình được nghỉ ngơi trong vòng một giờ. Tuyệt đối không ai được rời chỗ
và cấm nói chuyện. Ai cần được điều gì phải ra hiệu cho tôi trước.
Mọi
người lặng lẽ tuân theo. Thời khắc trôi qua một cách nặng nề và hồi
hộp. Bón bề không gian êm ả một cách lạ lùng. Thỉnh thoảng chỉ có tiếng
cá quẫy nước trong lòng mương, tiếng chim hót đâu đó trên cành lá, và xa
xa, tiếng gió vọng lại rì rào.
Đúng bốn mươi phút sau, Sơn kều quay trở lại, cả bọn xúm lại, châu đầu vào nghe Sơn báo cáo:
-
Trái với điều mình dự đoán, ở đây không có vẻ gì là sào huyệt của bọn
cướp cả. Túp lá chỉ rộng vừa đúng một gian, hình như trước nó là một cái
nhà của bọn chăn trâu hay tá điền ngủ để canh lúa. Đám đông người không
biết biến đi đâu mất, tôi chỉ thấy có một gã thật to béo ngồi ngủ gật ở
cửa chòi mà thôi.
Hùng hỏi:
- Cậu có quan sát dấu chân của mọi người không?
-
Cái đó mới là lạ. Ngoài sân đất, tôi thấy dấu giầy rất lộn xộn. Nhưng
chỉ tới đó là biến mất. Tôi đi tìm rất kỹ ở những lối đi chung quanh,
nhưng không thấy có vết tích gì khả nghi cả.
- Vậy thì nhất định có hầm bí mật ở dưới rồi. Căn chòi khả nghi lắm, mình phải tìm cách vô đó mới được.
Bỗng một người hỏi:
- Có tin tức gì của anh Hồ không?
- Có! Tôi nhận ra ngay cái dấu này do anh ấy xếp bằng những hòn sỏi nhỏ, ngụy trang rất khéo.
Vừa nói Sơn kều vừa vẽ xuống đất một vòng tròn có dấu chấm ở giữa. Mọi người cùng kêu lên:
- Dấu báo hiệu "chấm hết dấu đi đường". Vậy đúng là tận cùng ở đây rồi!
- Nhưng anh ấy đâu?
Sơn kều lắc đầu:
- Bây giờ thì chưa biết được. Nhưng ta có thể an tâm phần nào. Chắc anh ấy chưa gặp sự gì nguy hiểm.
Hùng suy nghĩ một lát rồi nói:
-
Bằng mọi cách phải bắt được liên lạc với anh ấy mới được. Nếu anh ấy
chưa hề gì, thì chắc lẩn quẩn đâu đây chờ chúng mình. Bây giờ tôi sắp
đặt thế này: Cậu Tuấn, cậu Bằng, cậu Toản, ba người đi ghi thật nhiều
dấu hiệu để báo tin cho anh ấy biết sự hiện diện của chúng mình. Phải
ngụy trang cho khéo để chỉ có một mình anh ấy nhận ra được thôi.
Tuấn hỏi:
- Mình sẽ ghi dấu hiệu gì bây giờ?
Hùng đáp:
-
Cũng làm một cái dấu "chấm hết" để chứng tỏ mình ngừng lại ở đây. Còn
cậu Thái, cậu bắt chước rất tài, có bắt chước nổi tiếng chim hót ở vùng
này không?
Thái cận thị vểnh tai làm bộ nghe ngóng rồi mỉm cười:
- Tôi nhận ra ngay từ lúc mới tới kia rồi. Khu này có nhiều loại sáo đen, có mỏ vàng, chân vàng lắm.
Hùng gật đầu:
- Sáo sậu!
Thái nháy mắt ra hiệu đồng ý rồi bỗng hắn ta hót lanh lảnh lên một tràng. Y hệt tiếng hót của anh sáo sậu!
Hùng mỉm cười hài lòng:
- Vậy cậu lợi dụng tiếng hót này để truyền đi cứ năm phút một, bản tin bằng dấu morse như sau: "Liên lạc với chúng em gấp. Báo Vạn Kiếp".
Thái đổi giọng, tiếng sáo của cu cậu phát ra thánh thót:
- Tu tút tu tu (L)... tu tu (I)... tu (E)... tút tu (N)... choét... choét choét...
Hùng lại sắp đặt tiếp:
-
Còn Sơn kều thì trở lại túp lều quan sát mọi động tĩnh. Có tin gì, chạy
về báo tin cho tụi tôi ở đây. Mình sẽ chờ anh Hồ đến 6 giờ chiều. Nếu
không có thấy tin tức, tôi sẽ có kế hoạch hành động. Có ai cần góp ý gì
nữa không?
Thấy mọi người im lặng, Hùng tiếp:
-
Vậy trước khi phân tán, chúng mình hãy chia nhau phần bánh mì để ăn cho
chắc dạ cái đã. TỪ sáng đến giờ chắc là ai cũng đói rồi. Bánh mì ai
giữ...
Cả đội dồn mắt về phía Hải Bệu. Anh chàng to béo phục phịch này bỗng đỏ mặt tía tai, điệu bộ hết sức lúng túng:
- Ơ! Bá... ánh... bánh... bánh mì... tôi... ôi...
Hùng giật mình:
- Làm sao? Cậu vất nó đi rồi à?...
Hải ngượng nghịu:
- Tôi... ôi... tôi bỏ... bỏ... ở... ở... bờ... ờ...
Cả đội "ồ" lên một tiếng làm Hùng phải giơ tay lên "xuỵt". Một anh chép miệng:
- Thôi cậu đúng là Báo Cù Lần. Anh em đặt cho như vậy chẳng oan tí nào.
Hải Bệu lại ấp úng:
- Ơ!... Tô... tôi... ôi... sợ... nó... nó...ướt... ớt!...
Hùng chép miệng:
- Ăn bánh ướt còn hơn là đói meo bụng. Bây giờ biết làm sao đây?
Một người bàn:
- Hay mình đi bắn chim?
Hùng mỉm cười:
- Bắn được rồi làm sao? Cậu định nổi lửa thui chim để tự tố cáo lậy ông tôi ở bụi này à?
Anh chàng vừa đưa đề nghị thộn ngay mặt ra không nói được. Hải Bệu muốn đới tội lập công, bèn nói:
- Tôi... ôi... tôi... ôi... tôi... đề... ề... đề... nghị...
Một người riễu:
- Thôi đi ông! Chờ ông nói hết, con nhà người ta đã chết đói nhăn răng ra rồi.
Hùng giơ tay:
- Yên, để cho cậu ấy nói.
Hải Bệu cố nín thở để lấy bình tĩnh rồi tiếp:
-
Tôi... tôi... đề... ề... nghị... tôi... qua... qua... sông... tì...
tì... ìm... bá... bá... bá... ánh... ớ... ớ... có... được... ược...
không?
Hùng mỉm cười lắc đầu:
-
Không được đâu. Mọi di chuyển bây giờ hết sức giới hạn để khỏi lộ mục
tiêu. Thôi, anh em ráng nhịn đói chờ tin tức anh Hồ xem sao. Đúng sáu
giờ mình tập hợp ở đây để bàn tính lại. Bây giờ ai có nhiệm vụ thì đi
đi. Những người còn lại phải theo sát bên tôi, cấm chuyện trò, cấm nô
rỡn. Ai muốn nói gì phải giơ tay xin phép trước.
Nói rồi Hùng giơ tay làm hiệu. Tất cả mọi người phân tán trong im lặng và nhanh nhẹn như bầy sóc trong rừng sâu...
Hơn
một tiếng đồng hồ nữa trôi qua trong im lặng nặng nề. Tiếng chim hót
liên lạc của Thái vẫn rúc lên theo một nhịp điệu đều đều, năm phút một,
có khi ở rất gần, có khi ở rất xa, có khi nghe như sát mặt đất, có khi
lại ở chỗ thật cao, điều đó chứng tỏ Thái rất chịu khó di chuyển chỗ nấp
của mình. Nhưng rồi bỗng mọi người trong bọn cùng giật thót người lên
và không ai bảo ai tất cả đều ngồi thẳng cả dậy. Một người thốt lên:
- Thái cận thị!...
Hùng
vội vàng giơ tay ra hiệu bảo im để có thể lắng nghe được tiếng sáo của
Thái bỗng đột nhiên đổi sang một giọng điệu khác thường, với những âm
thanh thay đổi hoàn toàn, so với bản tin mà Thái có nhiệm vụ phải truyền
đi. Tiếng sáo im lặng trong giây lát rồi lại nổi lên, lần này thì tất
cả mọi người đều có thể nhận được một cách đầy đủ và hoàn toàn bản tin
mới do Thái từ một chỗ khá cao ở đâu đó trong lùm cây đánh xuống:
- Báo Vạn Kiếp chú ý!... Báo Vạn Kiếp chú ý!... Có người đi tới từ mé đồng!... Có người đi tới từ mé đồng!...
Cả
bọn quay phắt cả lại và hướng mắt về phía đồng trống. Hùng đưa mắt ra
hiệu rồi bò lên trước. Mọi người nhanh nhẹn bò lên theo. Cả bọn lên tới
một gò đất cao và nằm phục dưới những đám lau rậm rạp. Ở đó, họ có thể
quan sát được rõ ràng con đường đất nhỏ chạy ngoằn ngoèo từ phía đồng
trống tiến về túp nhà tranh. Quả nhiên mọi người đều trông thấy một bóng
người từ xa đang đi lại, dáng dấp lom khom, bước đi có vẻ nặng nề chậm
chạp. Chỉ một lát, bóng người tiến ngang qua trước mặt mọi người, cách
xa không đầy mười thước. Đó là một bà cụ già, quần áo rách rưới, mặt mũi
nhếch nháp đầy bùn, vai đeo một cái giỏ cua đi lom khom, bước thấp,
bước cao, như mệt mỏi trước sức nặng đè chĩu của tháng năm tuổi tác. Bà
ta như không hay biết có người theo rõi những cử động của mình. Bà ta
cũng hầu như không hề hay biết căn nhà trước mặt đang chứa chấp một đám
người nguy hiểm, nên cứ lẳng lặng tiến tới. Chờ cho bà vượt qua khỏi chỗ
toàn đội đang ẩn nấp, Hùng mới đưa mắt ra hiệu cho mọi người lặng lẽ bò
theo. Một lát sau, cả bọn nhìn thấy bà ta đang tiến vào sân đất, và
bỗng một tiếng quát mạnh mẽ, vang lên làm rung động tất cả tâm trí mọi
người:
-
Ai? Đứng lại!... Đó là tiếng quát của tên canh cửa, to béo phục phịch
mà Sơn kều đã báo cáo cho toàn đội biết từ lúc trước. Tiếng hét của gã
làm bà cụ đứng khựng lại. Bà ta ngó gã với cái nhìn bỡ ngỡ:
Một giây lâu, bà cất giọng khàn khàn:
- Lão đi bắt cua ngoài đồng, gặp gió độc thấy choáng váng quá. Ở đây có dầu nóng làm phước cho lão xin...
Gã đàn ông lắc đầu quầy quậy:
- Không có dầu nóng, dầu lạnh gì hết cả, đi ngay khỏi chỗ này đi...
Bà lão đổi giọng tức giận:
-
Chà ôi!... Cái nhà bác này mới hung hăng dữ. Nào lão có tới trộm cắp
cái gì ở đây đâu mà xua lão như xua tà vậy. Không có dầu thì cho lão vô
bếp sưởi ấm đôi chút vậy. Lạnh quá!
Gã đàn ông lạnh lùng:
- Không có cái gì cho mụ hết, đã bảo đi khỏi là đi mà, sao mụ rắc rối quá vậy.
Bà lão vẫn lải nhải:
- Không có gì cho lão được thì bán vậy. Lão mệt quá, đi không nổi nữa rồi. Giúp lão đi, lão đền công bằng tiền...
Vừa
nói bà cụ vừa moi hầu bao lấy ra một xấp giấy bạc giơ lên. Gã đàn ông
vừa trông thấy đã sáng mắt ra. Gã nhìn lại bà cụ một lần nữa từ đầu đến
chân rồi tắc lưỡi:
- Thôi được... vô đây tôi đốt lửa cho mà sưởi...
Nói
rồi gã đẩy cánh liếp sang một bên. Bà cụ mừng rỡ lom khom đi vào. Gả
đàn ông cũng bước vào theo và quài tay ra khép kín ngay tấm liếp lại.
Bọn Hùng ở phía ngoài tức tối, hậm hực. Một người định bò lên sân đất ý
chừng muốn tới gần để quan sát kỹ hơn nhưng Hùng đã giơ tay cản lại. Anh
ta thì thào:
- Nguy hiểm lắm. Cậu không thấy gã đó có súng hay sao? Mình sơ xuất một chút là hỏng hết mọi việc mà lại còn mang họa nữa!
Một người lên tiếng hỏi:
- Vậy, mình phải làm gì bây giờ...
Hùng dằn giọng một cách cương quyết:
- Chờ tin của anh Hồ!...
- Ngộ lỡ anh ấy bị bắt rồi thì sao?
-
Nếu gặp nguy hiểm, anh ấy đã báo tin cho mình rồi. Dù có nằm trong tay
giặc, anh ấy cũng có thiếu gì cách để loan tin cho mình thấy. Vậy mà
quanh đây không có dấu vết gì chứng tỏ anh ấy gặp nguy cả. Cho nên tôi
vẫn đoán là anh ấy lẩn quẩn ở đâu đây và vì một lý do nào đó, anh ấy
chưa tiện ra mặt với bọn mình...
Hùng
đang nói chưa hết câu, thì bỗng trong gian nhà tranh có một tiếng rú
lên thất thanh của một kẻ bất thần bị tấn công rồi lại im bặt hoàn toàn.
Sơn kều buột miệng:
- Trời ơi! Bà cụ!...
Hùng cũng thốt lên:
- Tên gian đã đập bà ta để cướp tiền rồi.
Nói rồi Hùng đứng phắt dậy, miệng hô khẽ:
- Anh em Báo tập hợp!
Mọi
người líu ríu làm theo nhưng trong đầu đầy những câu hỏi không biết
Hùng có ý định gì. Ngoại trừ Thái cận thị canh gác trên chòm cây, tất cả
còn lại mười người. Hùng ra lệnh:
-
Tuấn, Hải, Long nằm lại ngoài này nghe động tĩnh. Sơn, Thành trở lại
đồng trống đốt lửa lấy khói truyền đi dấu hiệu S.O.S cho các anh em, nếu
họ có mặt ở bên kia sông họ sẽ nhận thấy. Còn những người khác đi theo
tôi, chúng mình không giấu diếm nữa. Mình sẽ đóng vai trò của một tốp
Hướng Đạo Sinh đi lạc đường tới đây.
Những
người nhận nhiệm vụ ở lại rút nhanh vào bụi cỏ. Những người còn lại
trong phút chốc đã so hàng ngũ thật nhanh, thật gọn. Thế mới biết tinh
thần đồng đội và sự tháo vát của đội Báo đoàn Vạn Kiếp đã đạt tới mức độ
rất cao. Họ răm rắp theo nhau như những bộ phận của một chiếc máy
chuyển động, không có một bộ phận nào riêng lẻ, không có một bộ phận nào
lệch lạc. Nhanh nhẹn, chu đáo và nhiệt thành là châm ngôn
hành động của đội Báo dưới quyền điều khiển của Hùng, với tên rừng: Báo
Trầm Tĩnh. Phải vào giây phút này mọi người mới nhận rõ hoàn toàn đức
tính trầm tĩnh của Hùng. Mặc dầu tình hình có vẻ khẩn trương nhưng Hùng
không hề bối rối. Hùng liếc thật nhanh bốn bề chung quanh để ước tính
tình thế một lần cuối rồi vẫy tay ra hiệu. Tất cả mọi người đều xông
lên. Những bàn tay nắm chắc lấy những cây gậy nhọn. Sức lực dồn xuống cả
từng đường gân nổi lên trên từng cánh tay dắn chắc. Trong phút chốc,
mọi người đã vượt qua con đường nhỏ để ngừng lại trước sân đất. Dấu chân
lệch lạc của bà lão vẫn còn in rõ trên lớp bùn ẩm ướt. Bọn Hùng ngạc
nhiên khi thấy bên trong vắng ngắt như tờ. Một người đưa mắt nhìn Hùng
như dò hỏi. Hùng cố dằn cho tâm trí thật bình tĩnh để lắng nghe mọi
tiếng động xẩy ra ở chung quanh. Nhưng toàn thể cảnh vật như chìm đắm
trong một bầu không khí im lặng, nghiêm trọng đến nghẹt thở. Thỉnh
thoảng trên cành cây đâu đó mới vọng lại một tiếng cành khô gẫy hay
tiếng chim chuyền cành hót lanh lảnh trong khóm lá. Hùng giơ tay ra hiệu
cho mọi người đứng yên chỗ rồi anh ta đẩy mạnh cánh liếp bước vào. Bóng
tối của căn buồng làm Hùng hoa mắt. Phải một lúc sau, Hùng mới nhận rõ
cảnh vật ở bên trong. Đó là một căn phòng thật hẹp, tối tăm và ẩm thấp.
Đồ đạc trong buồng chỉ vỏn vẹn có một cái phảng gỗ bụi bặm, đầy mạng
nhện kê ở một góc, bên cạnh đó là một cái bàn cũ kỹ với vài chiếc ghế
xộc xệch, cũng có rêu phủ, bụi bám chứng tỏ đã lâu ngày chúng không được
sử dụng.
Bỗng
Hùng chú ý đến một khung cửa hẹp và thấp thông sang buồng bên cạnh.
Trong bóng tối mờ mờ, Hùng thấy hiện ra hai bàn chân của một kẻ bị ngã
sóng xoài. Định thần nhìn kỹ, bỗng Hùng thốt lên:
- Tên gác cửa!
Quả
thật vậy, tên gác cửa lúc nãy bây giờ nằm im bất động trên nền đất ẩm.
Cả thân hình của hắn bị bóng tối ở buồng trong nuốt mất, duy chỉ có hai
bàn chân thô kệch thò ra với hai chiếc ống quần bằng vải xanh mà hắn ta
đã mặc hồi nãy. Kinh ngạc đến tột độ, Hùng tiến nhanh về phía cánh cửa
thấp. Trong lúc đó đồng đội của Hùng cũng đã lố nhố luồn qua cánh liếp
đứng chật chỗ ra vào, giương những cặp mắt nhớn nhác nhìn ra chung
quanh. Hùng vẫy tay một đội viên lại gần, hỏi mượn cây đèn bấm rồi rọi
vào phía buồng trong. Luồng ánh sáng vàng úa quét nhanh trên nền đất,
rồi đưa ngang lên những bức vách. Bây giờ thì Hùng nhận ra tên gác cửa
nằm ngất lịm, im lìm không cử động. Khẩu súng cũ kỹ của hắn không còn
trên tay. Nó mất biến theo cùng với tông tích của bà già lạ mặt lúc vừa
rồi. Hùng quét thêm một lần ngọn đèn bấm ra chung quanh. Lần này Hùng đi
từng chỗ soi xét một cách tỉ mỉ hơn nữa. Và bây giờ Hùng nhận ra căn
buồng không phải chỉ vỏn vẹn có khoảng đất chật hẹp đó. Có một cánh cửa
bí mật thông xuống một đường hầm nằm ở đằng sau một cái quây bằng cót.
Hùng vội vàng vẫy tất cả mọi người lại và chỉ xuống miệng hầm. Ánh đèn
pin lại lóe lên soi rõ một chiếc thang gỗ dẫn xuống, một chiều sâu ước
chừng hai thước. Dưới đáy là một khoảng đất hẹp, chắc là còn một cửa
khác thông tới một lối đi ở dưới sâu. Bỗng một người trong bọn kêu lên:
- Anh Hồ!...
Mọi
người sửng sốt quay cả lại. Nhưng không có anh Hồ xuất hiện, mà theo
tay chỉ của kẻ vừa kêu, tất cả đều trông thấy một hàng chữ viết bằng
than nguệch ngoạc trên một tấm gỗ phế thải, nét chữ còn mới nguyên như
vừa được viết lên: "Các em phải hết sức cẩn thận - Cấp báo S.O.S. về
Ban Huynh Trưởng Liên Đoàn - Trói giùm tên gác cửa vừa bị anh đánh ngất -
Nửa giờ nữa hắn có thể tỉnh dậy gây phiền phức - Chờ ở đây, đừng xuống -
HỒ".
Không
chờ Hùng ra lệnh, một người rút ngay một cuộn thừng tháo thật nhanh.
Một người khác quay lại phụ giúp. Trong phút chốc tên gác cửa đã bị trói
gô như một khúc giò ngày tết. Một người đưa sáng kiến:
- Nhét giẻ vô mồm!
Lập
tức có kẻ rút khăn mùi xoa thi hành ngay sau khi nhắc lại như những
thủy thủ trên tầu nhận được lệnh truyền "Nhét giẻ vô mồm!"
Một anh khác khoái chí ra lệnh tiếp:
- Bịt mắt nó lại!
- Bịt mắt nó lại! (Kẻ thứ hai dạ ran như thế và sử dụng chiếc khăn quàng buộc luôn lên mắt tù nhân lúc đó vẫn nằm yên bất động).
Một tiếng khác tiếp theo:
- Treo nó lên!...
Cả bọn ồ lên cười nhưng Hùng gạt ngay đi:
- Thôi đừng vẽ chuyện. Cứ để hắn nằm như thế được rồi, và hãy giữ im lặng.
Bây
giờ mọi người mới nhận ra mình đã ồn ào một cách quá lố. Thì ra sự hiện
diện của anh Hồ ở nơi đây, đã đem lại một niềm tin tưởng cho tất cả mọi
người. Và không còn ai nghĩ là mình đang tham dự vào một cuộc chơi nguy
hiểm. Chờ cho mọi người im hẳn tiếng cười rồi, Hùng mới cắt đặt:
-
Ta không nên túm tụm cả ở đây. Tất cả hãy rút ra ngoài tìm chỗ núp bao
quanh căn nhà này. Tôi chỉ cần một người canh gác ở cửa hầm này và một
người nữa đi theo tôi xuống hầm.
Tất
cả đều nhao nhao đòi đi theo. Hùng chọn Tính, một anh đội sinh khỏe
mạnh nhất. Chờ cho tất cả rút ra ngoài rồi, Hùng mới nói với Tính:
- Tôi xuống trước, còn cậu theo sau, và lúc nào cũng giữ khoảng cách là năm bước nhé.
Tính
gật đầu. Miệng hắn mím lại, hai cằm bạnh ra, đôi mắt sáng rực, chứng tỏ
hắn đang sống trong những cảm giác nghiêm trọng. Hùng vỗ nhè nhẹ lên
vai hắn ta để khích lệ rồi tuột nhanh xuống cầu thang. Khi xuống tới bậc
chót thì quả nhiên một con đường hầm tối hun hút hiện ra trong ánh sáng
lờ mờ. Hùng mò mẫm tiến tới. Tính bám sát ở phía đằng sau. Con đường
khá dài và hình như càng đi càng dẫn xuống sâu hơn. Thỉnh thoảng trên
vách đất lại có một chiếc ống lớn làm bằng thân vầu (một loại tre lớn)
đóng xuyên lên mặt đất để làm chỗ thông hơi, tỏa ra ở đó một vệt ánh
sáng lờ mờ. Nhờ những vệt ánh sáng đó mà Hùng không cần dùng đèn bấm
cũng nhận ra được đường đi. Lối đi cũng mỗi lúc một bằng phẳng hơn và
bây giờ Hùng bắt đầu nghe thấy tiếng người lao xao vọng lại. Hùng tiến
thận trọng hơn. Qua một chỗ rẽ, Hùng đụng phải một cánh cửa bằng gỗ khép
kín có ánh sáng le lói từ phía đằng sau hắt ra. Hùng vẫy Tính tiến sát
lại gần, để ghé mắt nhìn qua. Hai người đều trông thấy trước mắt là một
căn phòng khá rộng, chật kín mít, chung quanh toàn những thùng đồ quí
giá: nào đỉnh đồng, khay bạc, ngà voi, hàng đống vải vóc lụa là, có cả
những chiếc két tiền nhỏ bằng sắt nữa. Tất cả những dụng cụ ngổn ngang
hỗn độn này chứng tỏ đó là đồ đã đánh cướp được của bọn gian và đây là
kho chứa chất của bọn chúng vậy. Trong buồng có tất cả bốn tên, bốn tên
đang bị dồn vào một góc dưới họng súng cổ lỗ và dài như súng săn, do
chính bà cụ già cầm trên tay uy hiếp. Hùng vụt hiểu ra:
- Anh Hồ!...
Tính vội hỏi:
- Đâu, anh ấy đâu?
- Bà cụ già đó!...
Tính kêu lên:
- Trời ơi! Anh ấy hóa trang cực kỳ là khéo!
Tiếng kêu của Tính bị át đi bởi tiếng quát khàn khàn của bà cụ nổi lên:
- Đừng hy vọng chống cự gì cả. Thằng Bẩy gác trên nhà đã bị bắt và cảnh sát đang vây kín căn nhà này rồi!...
Một kẻ trong bọn bỗng cười to lên:
-
Mụ già tưởng dọa dẫm bọn con nít hay sao mà nói rằng cảnh sát vây kín
được ở đây. Không bao giờ cảnh sát có thể biết ở đây mà tìm tới được. Mà
cho có tới bắt được thằng Bẩy, thì ít ra nó cũng kịp thời báo động cho
mọi người rồi!... Thôi đi bà cụ ơi, bỏ khẩu súng xuống rồi mình tính
chuyện với nhau.
Bà cụ cương quyết:
- Không tính toán gì hết! Hãy bước từng bước một ra khỏi căn phòng này. Tên nào nhào tới lập tức khẩu súng này không tha đâu.
Vừa
nói bà cụ vừa đi giật lùi, khẩu súng vẫn chĩa về phía năm người. Bỗng
bà cụ vướng phải một chiếc hòm gỗ ở phía sau nên mất đà ngã rúi xuống,
khẩu súng lạng ngay đi. Không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, một tên lập tức
nhào ngay lại. Hắn ta túm lấy đầu của bà cụ rúi xuống. Tấm khăn mỏ quạ
đen tuột văng ra để lộ một cái đầu đàn ông hớt cao với vầng trán cao đầy
vẻ cương nghị. Một tên la thất thanh:
- A! Thằng này giả bà lão!...
Trong
khi ấy một tên khác cũng nhanh không kém, đứng từ xa trên ba thước hắn
ta phóng cả một cái cẳng dài như vượn vào tay cầm súng của anh Hồ. Khẩu
súng của anh văng ngay ra phía cửa. Một tên khác nhào ra định cướp lấy.
Nhưng chẳng chậm một giây, Hùng đã tung cánh cửa nhẩy vào giơ lên một
họng súng thứ hai, chĩa đúng vào hắn ta và quát lớn:
- Lùi lại!... Giơ tay lên!
Trong
cơn hốt hoảng, cả năm tên lùi lại thật nhanh, vừa đủ kịp để anh Hồ nhặt
lại khẩu súng, và cũng vừa đủ thì giờ để cả bọn nhận ra kẻ mới vào chỉ
là một cậu bé chưa đầy 16 tuổi, và khẩu súng của nó chỉ là một cây gậy
nhọn! Anh Hồ khen ngợi:
- Hùng khá lắm! Chú vào thật đúng lúc. Anh em đâu?
- Tất cả đã vây kín trên miệng hầm.
- Các chú phụ nhau tròi giùm từng tên lại cho tôi. Ê! Tất cả quay mặt vào tường và cho hai tay ra đằng sau.
Cả bọn tức tối nhìn nhau nhưng đành khuất phục trước mũi súng mà anh Hồ đang chĩa về phía họ.
Hùng và Tính làm nhiệm vụ thật nhanh với tất cả sự cẩn thận và chu đáo.
Mười phút sau, cả bọn đều bị áp tải lên miệng hầm. Qua cánh cửa liếp bên ngoài mọi người đều thấy những bóng người lố nhố. Hùng nhận ra ngoài anh em đội Báo, còn có một số đông huynh trưởng và những người Cảnh sát mặc sắc phục. Lúc bước ra sân đất một người Cảnh sát reo lên:
-
A! Tưởng ai xa lạ đây chính là bọn Năm Đen mà chúng tôi đang truy tầm.
Không thể ai ngờ được rằng bọn chúng đã dùng nơi này làm sào huyệt.
Anh Hồ vừa trút bỏ bộ lốt bà cụ già vừa mỉm cười:
-
Cũng là một sự tình cờ. Tôi đang chờ các bạn chơi trò chơi lớn ở bờ
sông thì bắt gặp tụi chúng qua đò với vẻ khả nghi. Tôi liền theo rõi
ngay.
Hùng cũng đáp vui vẻ:
- Còn chúng em chờ không thấy anh, biết là có chuyện không hay xẩy ra rồi. Chúng em cũng tìm cách qua sông.
Hùng
định hỏi thêm các anh huynh trưởng và Cảnh sát làm sao biết được chỗ
này mà tìm đến, nhưng bỗng Hùng trông thấy từng luồng khói vằn ngun ngút
bốc lên theo từng nhịp điệu ở ngoài cánh đồng, nên chỉ giơ tay về phía
đó nói vui vẻ:
- Kìa các anh trông! Thông tín viên của chúng em vẫn truyền đi tín hiệu khói S.O.S.
Cả bọn nhìn theo mỉm cười vui vẻ.
NHẬT TIẾN
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.