Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2020

THỢ CÀY TRÙN ĐẤT - Phan Khương Thái

 

Những nhát cuốc kinh hoàng bổ xuống để vỡ đất hoang. Một tốp người im lặng làm việc, kẻ cuốc người quăng những cục đất: to có, nhỏ có... Họ chất hết lên xe cam nhông. Gia đình gã thơ Hai ở nửa thước bề sâu dưới mặt đất vẫn không thoát cảnh dọn nhà bất đắc dĩ. Cha gã thợ Hai và các bác hàng xóm ngơ ngác trước biến cố. Riêng bọn nhóc tì và các em gã thợ Hai thì sung sướng. Chúng reo hò và thơ thẩn đi thăm thú với nhau. Thời gian di chuyển lỡ khóc lỡ cười trên xe chính là thời gian tụi chúng được nghỉ việc đồng áng. Cha mẹ chúng băn khoăn dù số lượng đất đai trên xe hãy còn nhiều. Họ hàng nhín nhút vẫn có thể sống cả năm.

Họ hàng đây chính là họ hàng trùn (giun) đất. Họ chính là những gã thợ cày rất mực siêng năng. Những người thợ cày mẫn cán, quanh năm ngày tháng, đêm hay ngày luôn làm việc với đất, đem lại chất bổ cho cây cỏ. Không có chất bổ cần thiết này, cỏ sẽ không mọc được. Vậy, loài người sẽ bị tiêu diệt vì một lẽ rất giản dị: không đủ thức ăn.

Trên đá, sỏi, vôi, gạch... loài người không cày bừa chi được. Lớp đất mỏng trên mặt đất thì hao hụt dần chất bổ. Liên tiếp không ngừng, thợ cày trùn đất nhẫn nại, mạnh mẽ đào bới, biến hòn đất thành một thứ đất tơi và biến rác rưới, các loài vật, lá cây, cành chết thành một chất mùn thật tốt cho sự trồng trọt, và các khoáng vật ở dưới đất thành những thức ăn cây có thể tiêu hóa được.

Thế mà bỗng dưng họ hàng trùn đất phải xa lìa "quê cha đất tổ", đi nghỉ mát ngang xương. Họ đang lưng chừng không rõ đời sống mới ra sao?... Tương lai họ về đâu? Biết có sống đời khoáng đãng rộng rãi và tự do không? Vì cứ mười thước vuông đất có khoảng trên dưới một ngàn trùn đất chứ ít ỏi gì. Thế nên sự cần cù, kiên nhẫn là phương châm cho đời sống của họ hàng trùn đất. Nhưng chỉ có các bậc cha mẹ kinh nghiệm mới biết thế nào là "cái ăn là cái khó khăn". Miếng ăn, sự sống xuất phát từ sự cần lao chính là số lương trả công quý báu cho họ hàng trùn đất. Họ hàng trùn đất không mong gì hơn một đời sống tầm thường và chất phác với đất cát thân yêu. Bởi vậy thế hệ này qua thế hệ kia, họ hàng trùn đất truyền lại cho nhau cái nghề mộc mạc, cày sâu cuốc bẫm. Đặc biệt chúng ta không bao giờ gặp họ làm việc ban ngày đâu nhé.

Dĩ nhiên là họ hàng trùn đất rất sợ những tai họa bất ngờ khi đang còng lưng dưới ánh sáng mặt trời. Họ như những giống dân trong truyện cổ xưa, chỉ sống tự do về đêm. Ban đêm họ mới dám chui lên khỏi mặt đất, từ những hang dài ngoằn ngoèo, họ hàng trùn đất đi thở hít khí trời. Nhưng họ không rảnh rỗi mà du lịch, họ làm việc hoài, kiếm ăm trên mặt đất...

Để rồi sáng mai lại vội vã chui xuống lòng đất. Hình như họ không ngủ nghê bao giờ thì phải? Đâu đâu, nơi nào có đất là chúng ta có thể tìm bắt được trùn đất. "Trùn đất" để đi câu cá này, "trùn chỉ" cho cá lia thia ăn, "trùn hổ" cho gà, vịt ăn v.v...

Thế là họ hàng trùn đất tầm thường, hèn mọn... tưởng rằng vô giá trị mà có ích vô cùng cho loài người chúng ta.

Cũng như mọi người, gia đình gã thợ Hai phiêu lưu đến một chỗ không biết đâu là đâu. Vì họ chưa từng dự cuộc hành trình nào xa xôi như vậy, gần ba tiếng đồng hồ chứ mau sao. Thì ra người ta đổ đất xuống các vũng, các chỗ đất trũng, đọng nước... chỉ để đắp nền. Ở đâu cũng được, miễn có đất là tốt rồi. Họ hàng trùn đất bảo nhau, "với tài nguyên đất đai sẵn có, chúng ta lại gầy dựng (sự nghiệp nhà cửa) lo gì..." Người ta vẫn tiếp tục lấy đất tận mãi đâu, đổ thêm vào. Nhịp sống của họ hàng trùn đất chưa đàng hoàng, chưa ăn khớp, thì người ta lại dùng nện nén chặt đất lại. Có lẽ họ đắp nền, cất nhà... (?)

Thật vậy, công trình kiến trúc của người ta làm khổ tâm cho gia đình gã thợ Hai. Gia đình gã thợ Hai thế là mất "lối lên trời". Vì lẽ dễ hiểu, người ta tráng nền nhà bằng xi măng hay lót bằng gạch bông. Lần này gia đình gã thợ Hai phải dọn nhà và dọn nhà có lý do. Gia đình gã cũng rất cần thoáng khí. Gia đình gã nhắm thẳng một hướng mà đào địa đạo ngầm. Cha gã và gã khỏe mạnh đi trước. Đất vừa đào vừa ăn, vừa dùng môi hắt qua hai bên đường hầm cho chắc chắn khỏi sụp. Mà nếu đường hầm có sụp đổ cũng không hại, mấy chục đứa em gã thợ Hai dư sức lo liệu lấy thân. Chúng cũng cày cục, nhai nuốt, tiêu hóa... được đất, dù lớp đất vàng này quá xấu. Nhưng chúng làm biếng lắm cơ (Điều này tệ quá, vì ngược lại với qui luật và truyền thống của loài trùn chúng nó), chỉ có gần mười đứa là chịu tự lực cánh sinh. Còn mấy đứa kia cứ muốn nghỉ xả hơi hoài hoài. Cha gã thợ Hai vẫn thường dạy dỗ các con quen đời sống cần lao, đừng nên ăn không ngồi rồi. Mặc lời khuyên của cha già, mấy đứa em lười biếng của gã thợ Hai cứ bỏ ngoài tai. Nói nôm na là nếu có nghe tai bên này, lời nói cũng sẽ thoát ra tai bên kia.

Trùn đất lại không có mắt, có mũi, và thiệt thòi hơn hết, trùn đất lại chẳng có lỗ tai, dù chỉ để nghe khúc nhạc giang hồ của các nhạc sĩ tài hoa dế hay ve. Cái thú duy nhất của trùn đất là nhậu nhẹt bằng cái miệng độc nhất, cũng là chỗ ăn, chỗ uống... Họ vừa đào, vừa cuốc, vừa vày, vừa xới... vừa ăn ngốn ăn ngấu, bởi vì dạ dày trùn đất dài lắm, chỉ kém chiều dài của thân mình trùn đất độ vài milimét mà thôi.

Lũ em lười của gã thợ Hai càu nhàu vi ăn toàn là thứ đất xấu. Thứ đất có pha cát lẫn đất sét chẳng hấp dẫn tí nào. Thằng Út bảo với các anh cũng một bọn lười như nó:

- Ớ này mấy anh ơi, chầm chậm đợi tôi theo, tôi kể nghe cái chuyện này hay lắm.

Mấy đứa kia liền mắng:

- Thôi đừng xạo Út ơi! Đường còn xa mà tụi tao mệt gần đứt hơi rồi.

- Thiệt mà, tôi mới gặp thằng bé con ông nhạc sĩ ve.

- Rõ ràng thằng Út xạo quá trời! Con nhạc sĩ ve mà chui xuống đất chơi với mày?? Khó tin.

Mấy anh của thợ Út cười to lên chế riễu, chúng rùn rụt cái thân hình do một số các vòng tròn dính liền với nhau, độ vài trăm vòng, tùy theo đứa dài hay ngắn mình. Bao nhiêu vòng ấy chính là bấy nhiêu các bắp thịt kéo dài từ đầu đến chót đuôi nhọn hoắt. Chúng cười há cả miệng, bắn cả vụn đất lăn long lóc xuống đầu thợ Út. Thợ Út rất bực mình:

- Nè, không nghe tôi nói thì thôi! Báo tin cho mấy anh hay tôi sắp đi giang hồ.

Mấy thằng anh ngơ ngẩn dừng lại, đằng trước cha con thợ Hai và mấy đứa siêng đã bỏ tụi lười này một quãng khá xa.

Bấy giờ thợ Út mới chậm rãi kể đầu đuôi cùng các anh:

- Các anh tưởng con nhạc sĩ ve nó ra sao? Tâng bốc nó cho oai chứ nó tên con Sùng.

- Ối! Thôi tụi tao biết rồi, cái thằng bé trắng trắng, vàng đục thì đúng hơn, nó xí gạt mày đó. Còn lâu lắm nó mới dám ló đầu lên mặt đất. Mà mày đi một mình có ai đâu để dẫn đường?

- Tôi sẽ đi. Tôi đi một mình. Tôi sẽ hỏi thăm bác ốc sên này, hay họ hàng nhà kiến..., khối người tốt và biết đường.

- Hay dữ a! Kiến nó thui mày luôn, ốc sên thì nhai đầu mày.


Thợ Út bị mấy thằng anh dọa thì ngán thầm nhưng trong lòng vẫn còn ấm ức.

Thế rồi gia đình gã thợ Hai lặng lẽ đi mau, họ dọn nhà rất gọn vì không có vật dụng gì mang theo cho cồng kềnh, bận bịu cả.

Đến nữa đêm cha gã thợ Hai và gã quyết định trồi đầu lên. May mắn thay họ đã ra đến sát bờ lộ. Trên mặt đường tráng hắc ín lấm tấm sương đêm, và hơi nóng ban ngày đã bốc hơi hết. Gã thợ Hai khoan khoái vặn vẹo các bắp thịt. Thân hình vốn  nhám của gã bây giờ ướt đẫm "mồ hôi", những chất nhờn nhụa tiết ra từ những túm lông dựng ngược trên thân mình, phân phối từng chùm đều đặn bây giờ dính kết với nhau.

Gia đình gã thợ Hai ngừng lại ở đó. Thợ Út và mấy anh cũng lục tục đến nơi. Bọn chúng thở phào nhẹ nhõm. Cả ngày đi với những địa đạo do cha và các anh đào sẵn từ trước mà chúng còn kêu ca là vất vả quá sức.

Gã thợ Hai mắng các em:

- Thế mấy cái xẻng trời sinh ra cho chúng mày để làm gì? Phải làm việc mới có mà ăn chứ. Chúng ta sinh ra để suốt đời hoạt động, không nên lấy đó làm buồn. Nào bây giờ bắt đầu từ mai, tụi bây phải chia chỗ ra mà sống, mà ở, mà làm việc, mà ăn. Lớn rồi phải lo lấy thân.

Vừa nghe anh nói xong, tụi em gã lại ồn ào cãi cọ, giành đất, giành nhà, tự chia khu vực...

Cuộc đời tụi trùn thật đáng buồn nào biết chi cái vui, sự đẹp... Quanh năm vất vả đi cày, như là để trả nợ cho ai (?)

Một hôm có một bọn trẻ con tay xách hộp thiếc, tay cầm dao phay đi tìm bắt trùn về câu cá. Có đứa còn hí hửng vạch cỏ tìm dế nữa kia. Xui xẻo thay, bọn trẻ lại nhè ngay khu vực gia đình gã thợ Hai cư trú mà xâm phạm. Bọn trẻ vừa xắn, vừa đào thong thả bắt từng đứa thợ cày. Gia đình trùn đất tan tác, lủi trốn mọi phía. Chúng dùng lợi điểm nhờ có thể chui vào bất cứ chỗ đất nào: đất cát, đất sỏi, đất cằn, đất rắn hay đất ẩm. Nhưng chúng vẫn phải chào thua bàn tay loài người. Bọn trẻ tóm được nhiều lắm, có thể nói gần trọn gia đình gã thợ Hai. Thêm sáu gia đình hàng xóm ngụ gần đó cũng chung số phận. Gã thợ Hai chứng kiến từ đầu đến cuối tấn thảm kịch. Bọn em gã vùng vẫy cố quăng mình ra khỏi hộp thiếc. Không hề gì, con trùn bò trên đất rất chậm, hễ thấy mặt trùn là được dù cho có vùng vẫy cho rơi bọn trẻ cũng bắt bỏ trở lại ngay vào hộp thiếc. Thằng Út ham đi giang hồ, nay bị hai ngón tay kéo ra. Thằng Út cố dùng mấu đuôi nhọn ngoéo chặt trong một đường hầm. Thân mình nó bị kéo dãn ra, dãn ra đến khi đứt "bựt" một cái. Một tia máu lạnh cũng vọt ra, phân nửa người còn lại của nó bị móc tiếp lên. Mấy đứa kia oằn oại thun người trốn tránh. Nhưng mũi dao phay vô tình cứ xắn sâu, và thăm dò tứ phía. Tội nghiệp cha gã thợ Hai, ông quá to và hơi chậm chạp. Thân mình lại dài nên bị mũi dao xắn ra ít nhất là mười hai đoạn. Không hiểu tại sao chỗ ông ẩn trốn lại bị đâm dao nhọn vào nhầu nát, như thể khi người ta trộn cát với xi măng. Giá có bị đứt làm hai như thợ Út, thì cơ thể ông vẫn thích ứng để sống với hai con người. Đằng này ông bị cắt vụn ra, chỉ chờ đón cái chết mà thôi. Gã thợ Hai nhờ bò đại vào chỗ cha gã nằm hấp hối nên thoát nạn cùng với mấy đứa em nhanh chân đã lủi xuống thật sâu dưới lòng đất.

Bọn trẻ đã đủ số trùn để đi câu, bỏ về. Thợ Hai, thợ Ba, thợ Tư, thợ Năm... (bảy đứa) run rẩy, tụ họp lại xúm xít bên khúc đầu đang hấp hối của cha già. Cái môi trên lẫn môi dưới mạnh mẽ của ông ngày nào, bây giờ chỉ đủ sức thều thào từng tràng tiếng dặn dò, khó nhọc và đứt quãng:

- Các con ơi, cha cũng từng biết mộng ước giang hồ của thằng Út. Nó đang phiêu lưu đấy, nhưng nó sẽ gầy ốm trong hộp, trong ngục tù tăm tối thiếu hẳn ánh sáng và khí trời. Có lẽ nó cũng sắp làm nạn nhân cho cuộc tế thần.

- Hu hu... cha ơi đừng chết. Cha đừng nói nữa, tụi con sợ quá.

- Cha biết sức mình mà, cha và mấy đứa kia sẽ là mồi câu cá. Người ta sẽ luồn nguyên người kẻ bạc số vào lưỡi câu nhọn có ngạnh, càng vùng vẫy cáng mau chết. Cha tiếc rằng không sống lâu để giúp ích cho đời. Thằng Hai con!

- Dạ con nghe đây.

- Nghe cha bảo, ráng mà dìu dắt các em. Ráng mà tinh xảo nghề nghiệp, ráng mà học hỏi cho được "nghề nông". Vì cuộc đời chúng ta chỉ mới vượt được nửa giai đoạn. Cày bừa mà không trồng trọt thứ gì thì công lao chưa xứng với đời sống.

Cha của bọn trùn thoi thóp độ một giờ thì chết hẳn. Gã thợ Hai và các em vật mình, vật mẩy than khóc. Bọn trùn đất đào sâu, sâu lắm... một cái huyệt để vùi tạm xác cha bị đứt nhiều khúc. Chúng vừa đào, vừa ăn (lại ăn)... nhả ngay ra nhiều viên đất tròn tròn, có lẽ tròn hơn viên thuốc tễ của ông lang nhưng nhỏ hơn. Ngày nào bọn chúng xếp những viên thuốc tễ (các nhà khoa học đã từng nghiên cứu, phân chất và so sánh với các loại phân bón tốt đến đâu cũng thua các viên đất tròn ấy) thành từng đống xinh xinh, bây giờ chúng chất làm mộ cha chúng. Chúng không dám chôn nông, sợ các loại côn trùng khác bới móc mà ăn sẽ xảy ra sự đau lòng cho chúng sau này.

Đáng lẽ thì gã thợ Hai phải ở lại để lo việc hương hỏa. Nhưng ngược đời chưa, thợ Hai lại nối chí thằng Út, thực hiện hoài bão xa xưa: phiêu lưu. Không phải gã thợ Hai lười biếng và muốn sống long đong đầu đường xó chợ, mà chính ra gã đi tìm người để hấp thụ thêm nghề nông. Đó chính là cái nghề thích hợp cho những người giỏi chịu đựng "chân lấm, tay bùn", dẫu rằng họ hàng trùn đất trơ trọi không có chân, tay. Thợ Ba, thợ Tư... nhút nhát lắm, không dám theo thợ Hai. Chúng sống an phận nơi này được rồi. Để đáp lời thợ Hai, thợ Ba nói:

- Thôi, đất ở đây còn rộng chán. Tụi em hết dám ước mơ đi giang hồ. Vả lại mỗi lần dọn nhà là mỗi lần tốn kém, hao hụt và sút cả người.

Thợ Hai buồn bã:

- Vậy anh đi một mình. Em Ba hãy thế quyền anh mà dìu dắt các em nghe. Liệu mà thăm nom mồ mả cha ta. Anh đi tìm một ngày mai tươi sáng hơn. Hy vọng chúng ta sẽ khuếch trương nghề nghiệp, chứ cứ mãi dùng phương pháp cổ truyền này thì sự thu hoạch rất ít ỏi.

- Anh an tâm mà đi. Ngày anh quay về sẽ được thấy công trình vun xới của tụi em. Tụi em nhất định là sẽ biến đất hoang thành ra tươi tốt. Tụi em không cầu vọng chi cao xa, miễn sao ấm no là vui rồi Thợ Ba hăng hái nhận lấy bổn phận còn hứa bao nhiêu điều với thợ Hai như trên.


Phải chờ cho đến hoàng hôn thợ vày Hai mới gọi là khăn gói lên đường. Thợ Hai rời bỏ các đường hầm ngang dọc, bị xáo trộn lúc ban mai. Thợ Hai nhìn lần cuối chỗ quen thuộc rồi quay phắt đi nhanh. Thức ăn trên mặt đất dĩ nhiên ngon hơn dưới hầm nhiều. Nhưng gã chỉ ăn để lấy sức, không phải là lúc để thưởng thức, gã phải tranh thủ với thời gian. Vì ban ngày gã thợ Hai phải chui xuống đất để tránh bao tai họa hiểm nghèo đang chờ đón người lữ khách cô đơn.

Suốt đêm gã thợ Hai chỉ gặp các nhạc sĩ dế lang thang ở rải rác khắp nơi, và gã không hỏi thăm được gì. Mấy ả đom đóm lập lòe trên không, lâu lắm mới có chị mỏi cánh rơi đánh phịch xuống cỏ khô. Nhưng hỏi thăm thì các chị chẳng biết gì hơn là mỗi đêm lo đánh quần đánh áo đi dự dạ hội. Gã thợ Hai vừa đi vừa ăn. Thợ Hai đi bằng cả thân mình. Với một dáng điệu cố gắng, thợ Hai lấy cái đuôi tì xuống đất làm điểm tựa rồi nhoai khúc trên ra phía trước. Xong xuôi dùng đầu tì xuống đất, kéo nửa mình dưới nhoai lên, thu thật ngắn bề dài lại, rồi tiếp tục nhoai đến khúc đầu... Gã thợ Hai ăn tất cả vật gì bắt gặp trên đường đi. Gã ăn đất rời này, cả vôi, cả sỏi... có lẫn đất bọc ngoài. Gã ăn được cả lá sống, lá chết, các thứ cỏ, rể cây, cành cây... còn xanh tươi hay khô và mục. Bản năng cũng giúp gã thợ Hai tìm ăn những vi khuẩn lẩn trong đất mà không sợ trúng bệnh. Ăn xong lại tống ngay các chất bã ra. Các viên tròn rơi rớt dọc đường như "thằng bé Tí Hon rải đá cuội làm dấu cho đường về nhà". Gã thợ Hai cũng không có thì giờ sắp xếp thành đống cho gọn gàng như lúc trước. Khi vài tia nắng mon men, có tia tò mò tìm soi gã thợ Hai thì gã thợ Hai hốt hoảng chui ngay xuống đất. Hệ thống bắp thịt được gã sử dụng tối đa, không cần chi đến xương sống xương sườn, gã thợ Hai vừa dùng miệng xúc túi bụi, vừa ăn mau, vừa chùi xuống nhanh. Bình minh bắt đầu với vầng hồng thoáng ửng phương Đông.

Gã thợ Hai đi lâu lắm và khá xa chỗ cũ. Cuộc hành trình của gã vẫn chưa gặp trắc trở. Ban ngày gã đã khôn ngoan  tránh những móng vuốt của gà, của chim... tìm mồi. Ban đêm gã cũng rất cẩn thận trong lúc di chuyển. Gã gặp trên đường gian lao vô số bạn trùn đất không quen, tên nào cũng ân cần mời gã ở lại. Họ dẫn gã đi khoe cùng khắp các đường hầm rộng rãi, nhà đất thênh thang, tỏ ý dư sức chứa và nuôi gã thợ Hai. Trong thâm tâm gã thợ Hai quyết sống đời tự lập, không muốn nương tựa nhờ vả ai.

Một đêm gã đi qua rẫy bắp thì gặp một chuyện buồn cười. Trên thân cây bắp có một kẻ đang lấp la lấp ló... Nhìn rõ gã, kẻ ấy mới thôi hốt hoảng, nhưng kẻ ấy vẫn lên giọng phách:

- Anh sên kia đi đâu vậy, mà làm tớ đây giật mình?

- Tôi không phải sên, tôi là trùn hay giun đất đây. Còn anh tên gì? Thợ Hai ngạc nhiên hỏi lại.

- Tớ là "sâu cắn chẽn", quen nghề đạo tặc.

- Ủa, sao trông anh khỏe mạnh, lại đi trộm cắp lén lút thế này?

Nửa buồn, nửa khôi hài, sâu cắn chẽn trả lời:

- Chứ anh nghĩ coi, tôi làm sao trồng được bắp mà ăn.

- Bộ anh không ăn được đất và cỏ, lá... ư? Anh lại đi phá hoại nông sản của người ta. Sống nhờ ở đậu trên đất đai loài người đã không giúp ích cho họ thì thôi, sao lại ăn hư làm hại công lao trồng tỉa của họ?

- Ừ nhỉ! Nhưng anh tưởng ai cũng cạp đất ăn giống như anh sao? Tớ mà xơi cái món đó chắc đứt ruột mất. Tớ chỉ xơi được rau, cải, bắp này... và thêm cây thuốc lá thôi.

- Thật, không biết nói thêm lời gì với anh, không chịu sống đời lương thiện, làm ăn bằng chính sức lao động trí óc hay chân tay, chỉ lo ăn bám, ỷ lại vào những gì không phải của mình.

Rồi thợ Hai tiếp tục chí hướng và ý nguyện, không muốn kết bạn với cặn bã của xã hội là sâu cắn chẽn. Gã biết rằng ngày đẹp trời nào đó, sâu cắn chẽn sẽ hóa bướm bay đi, hay là sẽ bị loài người dùng thuốc xịt tiêu diệt.

Một đêm mưa, gã thợ Hai gặp chú nhái bén. Chú nhái bén còn nhỏ mà nom thật tinh ranh, thật phong trần. Không phong trần sao được khi chú ta thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Chú nhái bén kể lại chú đã bị móc vào lưỡi câu để câu cá. Nỗi kinh khiếp tột độ khiến chú ngất đi và chết giả. Ông câu lại sốt ruột thay mồi và quẳng chú đi không luyến tiếc, thêm một lẽ là khúc sông đó quá ít cá, hầu như không có mống nào lai vãng vì thuyền bè qua lại đông đảo. Thế cũng đủ cho gã thợ Hai tưởng tượng ra cái chết đến chậm và lạnh lẽo của mấy đứa em bất hạnh, bị bắt ngày nào. Bọn chúng hay ngo ngoe phần mình thừa ra trong nước, khó mà thoát khỏi sự chú ý của bọn cá háu ăn. Chú nhái bén khuyên gã thợ Hai quay về vì đường đi còn nhiều nguy hiểm. Gã thợ Hai từ tốn cám ơn và cương quyết không bỏ dở lý tưởng. Gã thợ Hai băn khoăn vì lời hứa với cha già là học hỏi nghề nông. Nghề cày cuốc đã quen rồi thì trồng trọt khó chi. Nhưng ai là người có phương pháp mới?


Gã thợ Hai say sưa lý tưởng cứ đi, đi mãi... Gã có biết đâu rằng tiến mãi gã sẽ đến mũi của cù lao. Hành trình của gã sẽ gián đoạn bởi sông dài và rộng bao la phía trước mặt.

Mũi cù lao oan nghiệt sẽ dập tắt lửa nhiệt tâm của gã thợ cày cô đơn và cầu tiến. Có lẽ không bao giờ gã thợ cày ấy chuyển nghề được. Lẽ huyền bí của tạo hóa chỉ cần gã siêng năng chừng ấy, và làm cái nghề quan trọng cỡ đó mà thôi. Tiếc thay, nay mai gã thợ cày sẽ gặp ngỡ ngàng. Không rõ gã thợ Hai quay về cùng mấy em hay nản chí giang hồ mà dừng chân, trú ngụ hẳn bên bờ sông vắng? Cũng mong gã mãi mãi tiếp tục cái nghề cày cuốc của cha ông truyền lại. Chỉ bấy nhiêu cũng đã giúp nhân loại chúng ta quá nhiều. Cũng mong gã đừng chui vào bụng chim, hay gà, hay cá để ngày đêm còn tạo chất bổ dưỡng làm đất phong phú, hoài hoài. Hình như có nơi người ta nuôi giun thì phải. Nuôi giun để bán cho nông gia thả vào ruộng đất của mình. Chính nơi đó các thợ cày trùn đất "yêu mến đất đai" hùng dũng, không ngủ bao giờ luôn dùng sức tạo ra chất mùn, thải ra chất bã có chứa gấp 5 lần chất đạm, 11 lần chất bồ tạt, 7 lần chất lân tinh, 3 lần chất ma nhê di... hơn là đất thường. Chính các thợ cày trùn không bao giờ chê bỏ, phản bội đất đai. Chính các thợ cày trùn sống đời cơ cực cho loài người chúng ta được sống ấm no mà không cần một ai biết ơn. Thợ cày trùn đất không thể coi là ti tiện và hèn mọn dù chúng mang ngoài cái bộ dáng rất tầm thường.


PHAN KHƯƠNG THÁI       
(Theo sưu tầm của ông Hoàng Cung)

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 62, ra ngày 29-10-1972)

Bìa của Vi Vi : Chị ơi

Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com


Không có nhận xét nào: