Mới chiều mồng một Tết, mẹ gọi cả bọn lại, dặn dò bằng giọng trang trọng:
- Sáng mồng hai có Gia Đình Tuổi Hoa đến thăm đấy. Các con phải ngoan, phải...
Ba ngắt lời mẹ:
- Mẹ chúng mày lúc nào cũng Tuổi Hoa với lại Tuổi Xanh, làm như trên đời này chẳng còn có việc gì quan trọng hơn.
- Ơ hay! Cái ông này! (mẹ có vẻ cáu nhưng vì là Tết nhất nên mẹ phải cố làm lành). Với tôi thì Tuổi...
- Biết rồi, khoe mãi. Đùa thế chứ tôi cũng chiều ý mẹ con mợ lắm, chả
thế mà tôi đã cấm không cho lũ trẻ đốt hết pháo, dành riêng cho Gia Đình
Tuổi Hoa của mợ đến những non một thước à?
- Thôi, tôi không ơn chuyện đó, tôi ghét pháo lắm, đốt đì đoàng cứ y như là tiếng súng.
- Mẹ quê! Mẹ quê...
- Đứa nào dám nói mẹ quê? Vuốt râu hùm nhá?
Mẹ giả vờ nghiêm nghị, nhưng giọng lại hết sức khoan hồng, âu yếm. Cu Minh được trớn, tiếp luôn:
- Pháo đốt nghe vui tai chớ pháo gì lại y như tiếng súng? Mẹ nhát gan lắm!
- Ha! Mẹ nhát gan thỏ đế! Mẹ nhát gan thỏ đế...
Thế là cả lũ nhao nhao. Thu sắp dùng quyền chị cả quát lên song mẹ đã vui vẻ:
- Thôi con ạ, mặc chúng, cho chúng tự do đầu năm.
Hai mẹ con quay sang bàn chương trình đón khách quí ngày mai.
Phải nhận rằng năm nay mẹ đặc biệt quan tâm đến mấy lọ hoa hơn năm nào
hết: Mẹ chọn lay-ơn mầu đỏ sẫm, thứ bum búp, cánh nào cũng bụ bẫm, cặm
chen vào với những cành liễu trong chiếc lọ to tướng mầu trắng tinh như
tuyết đọng. Pen-xê thì mẹ chọn mầu xanh nâu đựng trong chiếc lọ nhỏ hơn,
bằng thủy tinh mầu hạt dẻ. Thủy trúc cao lêu đêu, lá nào cũng xòe ra
như cái tán, xanh biêng biếc, óng ả nổi bật trên những viên cuội bóng
loáng, trong suốt y như những viên đường phèn, bình đựng là một vật...
thật Thu không biết nên gọi nó là cái gì cho đúng vì nó giống hình dáng
cái bình cà phê, lại vừa giống cái liễn xúp, lại vừa giống cái ca múc
nước, cao, sâu, miệng rộng, có quai, bằng thủy tinh trong suốt và rất
dày, mẹ sắm nó từ hồi Thu mới chập chững biết đi, mà bây giờ Thu đã lái
Suzuki được, đủ biết nó lớn tuổi là chừng nào!
Thu lo kiểm những thứ dọn khách ; này nhé: hạt dưa dòn khứu, mứt sen
thơm ngát, mứt khoai bùi ngậy, mứt dừa beo béo, kim quất đỏ ong, mứt
thơm dẻo quánh, dưa hấu bổ thử quả nào cũng ruột đỏ tươi, ngọt lịm. Hồng
khô thì gồm đủ mùi vị thơm, bùi, ngọt, dẻo... đó là thứ không được dân
tộc tính cho lắm, nhưng con Hà nó ưa nên mẹ chìu nó, chứ Thu thì Thu chỉ
ưa những món cây nhà lá vườn.
Đành rằng sự thật thì Thu không làm được những ngần ấy thứ, nhưng mà ai
biết đấy là đâu? Gia Đình Tuổi Hoa hãy cứ biết rằng thưởng thức những
thứ ấy tại nhà Thu, mà Thu là con gái lớn của mẹ, thì những thứ ấy là
sáng tác phẩm của Thu chứ còn ai vào đấy nữa. Đấy các bạn xem, Thu cũng
biết "tam đoạn luận", Thu cừ đấy chứ?
Vốn là người chu đáo (!) Thu bàn riêng với mẹ:
- Này, mẹ nhớ có phong bao lì xì cho Gia Đình Tuổi Hoa nhé? Năm mới mà!
Mẹ trợn mắt lên:
- Ơ hay, con bé này! Các anh ấy đâu phải trẻ con? Bộ mày tưởng ai cũng như mày chắc, cả năm cứ chong mắt chờ Tết để vòi tiền...
Thu sắp sửa giận mẹ, vì điều này: hễ mẹ sai khiến, quở trách thì mẹ nói:
"con gái lớn tướng" rồi, còn so sánh với ai thì mẹ mới: "đâu phải ai
cũng trẻ con như Thu" có phải mẹ vô lý không?
Nhưng mà Thu nguôi ngay, ngày Tết giận hờn thế, không hên. Mẹ lại tiếp, giọng hết sức âu yếm:
- Con nói phải, nhưng mà mẹ không mừng Tết bằng tiền mới, mẹ có quà đặc
biệt cho các anh ấy bằng... thôi, chả nói. Để lúc đó con sẽ thấy.
*
Tối mồng một, mẹ và Thu lo mang hoa ra sân, thay nước, cắt gốc, bẻ nát
át-pia-rin cho vào lọ, lại chọn chỗ thoáng giữa trời để hoa được hứng
sương đêm. Giọng mẹ êm như lời ru, và có pha một chút hãnh diện:
- Con thấy hoa mẹ chọn hay không? Sáng mai mồng hai sẽ nở đều cho mà xem.
Thu gật gù:
- Con thấy hoa nhà bác K. không đẹp và tươi như hoa mẹ đâu. Mới hôm này mà đã nở tung cả rồi.
- Rõ mẹ hát con khen!
Ba từ nhà trên xuống, trêu một câu. Mẹ lờ đi, làm như không nghe vậy.
Thu cũng vừa sực nhớ, sà đến bên mẹ, nài nỉ:
- Mẹ cho con xem thử quà của...
Mẹ khoát tay:
- Con sao lạ quá thôi. Đã bảo là để sáng mai con sẽ thấy mà.
Chuyến này thì Thu giận mẹ thật sự, Thu vùng vằng đi lên. Trên nhà, ba,
Vũ, Hà, Minh và Bé đang bàn nhau cách đón tiếp khách ra sao.
Thu thấy hay hay cũng nhập bọn, bàn cãi rất hăng. Sau hơn nửa giờ bàn
qua, tán lại, ba phân công thế này: Khi Gia Đình Tuổi Hoa vào đến ngõ là
mẹ vén màn cửa mời vào. Mọi người vừa an tọa thì Hà lập tức khai hỏa.
Gọi là mừng khách quí! Thu trách nhiệm việc mời mứt, kẹo. Vũ lo pha
nước ngọt. Nếu có anh Cả thì ba sẽ mời rượu. Có cả thuốc lá cho anh Vi
Vi và anh Cấp nữa.
Nếu có những nhóc tì của "Đồng cỏ non" thì mẹ đã chuẩn bị sẵn phong bao
lì xì và Minh, Bé sẽ sẵn sàng tiếp đón. Rõ là chu đáo đến một trăm lẻ
một phần trăm. Muốn cho bay bướm, Vũ với Minh thêm:
- Trong lúc mọi người trò chuyện, tụi này cất lẻn ra sân cho nổ một cái pháo lẻ để mẹ và quí khách giật mình chơi.
Ba vỗ tay tán thưởng:
- Các con khá lắm, thật nhiều sáng kiến.
Nhưng mẹ lườm ngay và dọa bằng giọng cực kỳ nghiêm nghị:
- Liệu hồn, nếu chúng mày muốn ăn đòn ngày Tết thì bảo trước.
Cả hai xìu mặt xuống y như cái bánh xe hơi của ba bị xì lốp. Thế nhưng
rồi chỉ một phút chúng lại tươi tỉnh lên như cũ khi nghe mẹ dung hòa ý
kiến với chúng, nghĩa rằng mẹ không bằng lòng chúng cất lẻn đốt pháo lẻ
làm giật mình khách quí nhưng mẹ bằng lòng cho đốt pháo mừng khi khách
bước qua khỏi ngõ!
Nghe con Hà khoe váng lên rằng nó đã được Họa sĩ Vi Vi gọi bằng em và Vũ
thì rằng "Em có nói chuyện với anh Trinh Chí nữa" Thu lấy làm ấm ức hết
sức. (Chả là hôm nọ hai anh tới nhà Thu đi học nên chưa được yết kiến
dung nhan hai vị này) Thu nhất định trọn ngày mồng hai không bước chân
ra khỏi ngõ, chờ cho kỳ được. Nhưng muốn tỏ ra mình không phải tay
xoàng, Thu làm mặt khinh khỉnh, nói:
- Cái gì làm bộ vậy? Tao không như tụi mày đâu. Tao còn quen cả anh Cấp với lại anh Quyên Di kia nữa ấy chứ...
- Nhưng chị làm gì được bác Trường Sơn cho ăn xí muội? Em, em được...
- Ối trời! Tao chở mẹ lại tòa soạn mỗi ngày, bác ấy vẫn hỏi chuyện tao
kia, nhãi ạ! Bác vẫn bảo tao ngồi ở xa lông, khỉ ạ! Đừng tưởng...
- Ghê gớm nhỉ! Này Hà, mày có biết mẹ đối đãi với mấy ông tài xế ra sao không? Mỗi lần các ông ấy đến nhà, mẹ...
Vũ nheo mắt hỏi kháy con Hà. Nó trả lời ngay khi nghe chưa dứt câu:
- Em biết, em biết! Này nhé: mẹ mời ngồi, rồi mẹ giục chị Thu pha nước, rồi mẹ hỏi chuyện vồn vã, rồi...
- Đấy nhá? (giọng Vũ châm biếm) Bác Trường Sơn bác đối xử với tài xế của mẹ lịch sự cũng như mẹ đối xử lịch sự nhã nhặn với tài xế... Có gì đáng hãnh diện đâu?
- Hỗn phải không? Tao đánh bây giờ!
- Đánh đi coi! Ngày Tết, mẹ còn chưa đánh nữa là chị, ỷ lớn phải không?
Cuộc đấu khẩu trở thành "găng" làm mẹ phải can thiệp:
- Thôi! Im! Không được cãi nhau. Đứa nào cãi nhau, ngày mai mẹ không cho phép ra chào khách đó.
Câu đó coi như có hiệu quả. Cả bọn im thin thít. Riêng Thu, Thu có tính nói dai, nên cũng còn cố trả đũa em trai mình một câu:
- Ừ, tài xế đó! Có gì là xấu hổ không? Khối đứa ao ước chảy nước dãi ra mà vẫn không được sờ đến cái bánh xe ấy chứ lị.
- Ai thèm sờ bánh xe chị? Người ta có xe đạp chớ không sao?
- Xe đạp nghĩa lý gì... hừ, xe đạp...
Vũ không kém cạnh một ly con nào:
- Phải! Xe đạp không nghĩa lý gì, mà không tốn xăng là được rồi. Nếu ba mẹ không cho tiền mua xăng coi, chị có bị treo giò không? Nói phét!
- Nói ai treo giò, thằng khỉ? Tao đánh coi!
- Đàn bà con gái mà vũ phu, hở chút là dọa đánh.
Mẹ giận đến một trăm linh hai độ rồi. Máu trong huyết quản mẹ như sôi
lên, mẹ lẳng lặng vô phòng tắm rút cái roi nghe đến "soạt" một tiếng,
may thay, ba can thiệp:
- Thôi, ngày Tết mợ tha cho chúng, rồi sẽ trị tội sau.
*
Sáng mồng hai, mới tờ mờ sáng, mẹ và Thu đã săn sóc mấy lọ hoa. Thu nảy
ra cái sáng kiến là lấy bình bơm nước (mẹ thường dùng bơm nước để ủi
quần áo) mà bơm nước lên cho đều tận các cuống hoa. Mẹ tán thành ngay.
Mẹ lại thay nước cũ, thay bằng nước mát trong tủ lạnh, xong đâu đấy, hai
mẹ con khệ nệ bưng mấy lọ hoa lên. Chưa khỏi cửa nhả ngang đã nghe
tiếng gõ cửa. Mẹ ngạc nhiên, quay hỏi Thu:
- Ai mà đến sớm thế nhỉ?
- Bác dậy chưa? Cẩn thận nhé! Có đánh nhau đấy. Đừng ra đường đấy. Giới nghiêm suốt ngày đấy!
Giọng bác K. vọng vào từ cửa lớn, đầy vẻ kinh hoàng. Mẹ tưởng mình nghe lầm, hỏi lại:
- Bác nói gì? Ai đánh nhau?
- Bên kia chứ còn ai, thế ra bác không hay gì sao? Ra-đi-ô nói từ sáng sớm...
- Trời ơi!
Thu và mẹ cùng kêu lên một loạt. Tuy nhiên, Thu chưa biết mức độ nguy
hiểm đến bậc nào, chỉ ngay ngáy có một điều: nếu quả thật giới nghiêm
ban ngày, cấm đi lại thì hết hy vọng Gia Đình Tuổi Hoa đến được... nhà
mình.
Mẹ tức tốc phóng ba bước lên gác, gọi ba dậy, báo tin này. Ba tức tốc mở
ra đi ô nghe tin tức. Không khí bỗng trở nên căng thẳng. Mẹ ra sân
ngước mắt nhìn lên bầu trời, trời u ám chứ không đẹp như mọi hôm. Mẹ có
vẻ buồn nhưng không nói gì nữa.
Thu vẫn còn ấm ức:
- Như vậy chừng nào con mới đi thăm và chúc Tết các thầy con được, hả mẹ?
Mẹ trầm ngâm không trả lời. Vũ và Hà hí hởn:
- Đi sao được? Chị đem hai hộp quà ra chia cho tụi em quách đi cho xong.
- Sao chúng mày tham ăn thế? Lúc nào cũng mong mỏi có mỗi chuyện ăn.
Ba pha trò nhưng chẳng ai cười được. Có tiếng chuông reo. Hà phóng ra
ngõ, Vũ phóng ra ngõ, mẹ và Thu cũng phóng ra ngõ. Dì Đ. mặc áo ngắn,
tay bế đứa con trai mới đầy năm của dì, tay nữa xách cái tay xách nhỏ,
hớt hải vào nhà, thở hào hển, nói không ra tiếng:
- Đánh nhau to quá, anh ấy chở em đến ở nhờ anh chị đây, không dám ở nhà.
Trọn ngày, mẹ chỉ những ra, vào, lên, xuống và ngong ngóng nghe tin tức.
Lần thứ hai trong đời Thu, Thu trông thấy mẹ chịu khó nghe tin tức ở
đài Phát thanh. (Lần đầu mẹ nghe là lần đảo chính 1/11/63) Giới nghiêm
24 trên 24 tiếng. Nhạc. Tin chiến sự các nơi. Thu chán, hết muốn nghe.
Thu nuôi cái hy vọng mỏng manh là ngày mồng ba sẽ hết giới nghiêm, hoặc
cũng chỉ vào buổi tối.
Song mồng ba chẳng khác gì. Trèo lên gác thượng nhìn về phía Chợ Lớn,
những cột khói, những tiếng nổ thi nhau xuất hiện và vọng lại tai Thu.
Báo có hai trang đăng toàn hình ảnh và tin tức chiến sự.
Thế mà ai cũng đua nhau mua. Ba không cho ai ra đường hết. Mẹ và Thu sốt ruột trông thấy.
Sớm mồng bốn, lại có thêm dì H. và các con của dì đến tránh đạn. Nhà dì ở
cạnh cầu chữ Y nên dì rất hãi, nhà lại có một mình dì và các con, chú
ấy mất đã lâu, còn cậu T. thì lo đi cứu trợ đồng bào với các bạn dưới
trụ sở sinh viên suốt ngày.
Vậy là nhà thêm bốn đứa trẻ nữa, cả bọn tha hồ đùa nghịch ầm ỹ, mặc dù
mẹ và các dì không ngớt lo ngại, đăm chiêu, nhất là vào buổi tối, một
tiếng động khẽ cũng đủ làm cho mọi người nhớn nhác, kinh hoàng.
Mẹ hằng ngày vốn ghét truyền hình, bây giờ mẹ chỉ ngóng đợi đến giờ để
mở ra xem. Mục gì mẹ cũng không chê, chỉ cốt cho thần kinh bớt căng
thẳng, cho quên. Đêm ai cũng giật mình thon thót, nín thở, lắng tai...
Mẹ mặc áo đi lăng quăng trong xóm cho qua thì giờ, nhưng thì giờ như ngưng đọng không chịu trôi qua.
Tối mồng bốn, trong lúc mọi người đang xúm xít trước máy truyền hình,
bỗng có tiếng "kêu gọi" bên ngoài văng vẳng. Mẹ đứng bật dậy đến bên
mành cửa nhìn ra nghe ngóng. Tiếng nói chợt im. Từ bấy giờ trở đi, mẹ ra
lệnh chỉ mở xem hình mà thôi, không cho nghe tiếng. Buồn cười hết sức,
tuồng cải lương đang hồi gay cấn, chỉ còn thấy môi các diễn viên mấp máy
và điệu bộ múa may, chả hiểu gì sốt.
- Chán bỏ xừ đi, tắt quách còn hơn.
Dũng, con trai dì H. cầu nhầu. Dì nạt nó:
- Đứa nào không coi thì đi ngủ đi, đừng chê bai gì hết.
- Cố đoán mà hiểu, thế này con hơn ngồi không.
Thình lình, tiếng kêu gọi lại vọng lên mồn một:
- Yêu cầu đồng bào hãy sẵn sàng giáo mác, gậy gộc để sáng mai ra đường...
Trong một nháy mắt, tất cả đèn đóm đều tắt ngấm, truyền hình cũng vậy. Các dì, mẹ, mỗi người sờ soạng trong bóng tối bồng và dắt lũ trẻ vào giường. Tội nghiệp em Bé: nó sợ cho đến nỗi mồ hôi nó toát ra ướt đẫm lưng, nhưng nó không nói gì cả, chỉ ôm chặt mẹ.
Thằng Xinh đã thôi bú mẹ, nhưng mấy hôm nay lại được mẹ nó cho bú nhiều hơn bao giờ hết. Dì không dám để nó vòi, nó khóc, làm như tiếng khóc của thằng bé mới thôi nôi đó kêu gọi sự nguy hiểm tới vậy.
Trong ngoài, trên dưới phẳng lặng, một sự im lặng ghê rợn đầy đe dọa. Thu nằm yên bên em Bé và mẹ, cả ba đều nghe rõ nhịp thở của nhau.
Ngày mồng năm, ngày mồng sáu, tiếng súng nghe như quen tai đi, khi xa tít, khi xa vừa, nhưng cứ từng chặp, từng chặp đoàn người kéo nhau lũ lượt đi vào con hẻm nhà Thu. Họ lôi thôi, lếch thếch, ngơ ngác như những kẻ mất hồn.
Truyền hình có từ hai giờ rưỡi. Giới nghiêm từ hai giờ chiều.
Cả nhà (kể cả mấy dì) đều ngồi lại chơi bài trừ mẹ và cu Minh, em Bé, Thu, Vũ, Hà đều mê mải say sưa. Con Hà gớm thật, mới tập có mấy hôm nay mà đã thạo.
Mẹ không bằng lòng, nhưng mẹ không nỡ cấm, cấm thì cả nhà còn biết làm gì? Không ra khỏi ngõ được, hạt dưa, mứt, kẹo, hoa quả cạn dần. Thu và mẹ cũng hết muốn can ngăn, dành phần cho những người khách quí mà cả nhà đã mỏi mòn chờ đợi.
Trưa mồng sáu, ba đề nghị:
- Này, hay là anh đi chơi một chốc xem?
- Rồi chiều hai giờ, ba về không kịp thì sao?
- Không sao, nếu về không kịp thì ba cứ ở lại, sáng mai về. (Mẹ nói)
- Không, con không chịu ba đi. (Minh phụng phịu)
- Cái gì mà sợ? Ba ở nhà buồn, hãy để ba đi chơi một hôm cho đỡ quẩn chân. Mẹ ở nhà với con mà.
Chiều mồng sáu, vì không có ba nên mẹ cho ăn cơm sớm, gài chặt cửa nẻo, lên lầu chơi. Không ai nói ra nhưng mọi người đều không che giấu được nỗi lo âu. Truyền hình được mở ra. Ai cũng có vẻ chăm chú nhưng kỳ thật không một ai còn lòng dạ nào mà thưởng thức. Thì giờ ngưng đọng.
Sau cùng mẹ bảo:
- Mẹ chia ra: tụi con trai ngủ trên lầu. Mẹ, dì Đ. và con gái ngủ dưới nhà. (Dì H. và ba con của dì về nhà từ sáng qua). Vũ, Minh và Sơn (con chú B. ở Dĩ An về chơi, bị kẹt) kéo chăn trùm kín mít. Giá mẹ thấy thì mẹ rầy đấy. Nhưng bây giờ mẹ còn lo cắt xếp nhà dưới.
Chỉ một chốc sau là lũ con trai ngủ say. Con gái cũng vậy, còn lại mẹ, dì và Thu thao thức, phập phồng lo sợ. Bỗng mẹ lay khẽ Thu một cái, thì thào:
- Y như có tiếng chân người.
Thu cùng mẹ nhẹ nhàng nhỏm dậy hé cửa sổ nhìn ra, ngoài vườn, một toán người võ trang kéo nhau đi, nép sát vào tường, không nghe tiếng giày mà chỉ nghe võ khí va nhau canh cách. Thu lạnh cả người, không thở được. Song mẹ vẫn bình tĩnh, chạy sang phòng dì phía trước xem, sau cùng mẹ chạy lên lầu, đoàn người vẫn kéo nhau nép sát tường y như một con rắn khổng lổ. Họ vòng ra phía trước và cuối cùng mất hút sau con hẻm đổ ra đường Nguyễn Thiện Thuật.
Mẹ chạy vụt xuống, thì thào với dì Đ. và Thu:
- Nguy quá, chắc là...
Nhưng mẹ chưa dứt lời, một tràng tiếng liên thanh nổ ròn, rồi tiếng chó sủa vang lên.
Mẹ kéo Thu về giường. Súng càng lúc càng nổ mau, nhiều và gần hơn. Mẹ trải chiếu xuống đất, bế Bé đặt nằm xuống với Thu rồi lo chạy lên lầu đánh thức tụi con trai dậy. Sơn lấy chăn che đầu phóng xuống. Vũ vẫn còn ngái ngủ, ngồi lên, nằm xuống mấy lượt mới tỉnh hẳn theo chân Sơn. Mẹ bế cu Minh, sờ soạng trong bóng tối, xuýt ngã mấy lượt.
Phòng bên kia có tiếng ọ ẹ của thằng Xinh, rồi tiếng nó ngoạm vú dì nút nghe chim chíp. Một con mối tắc lưỡi đâu đó. Quái, đồng hồ y như chết rồi, Thu đợi mãi chẳng nghe nó đổ 15 phút đều đều như thường lệ.
Trong sự căng thẳng ghê rợn đó, thỉnh thoảng một tiếng mèo gầm gừ lên, đâu dưới bếp làm Thu giật thót cả mình.
Rồi Thu thiếp ngủ cho đến khi nghe súng bắn gần quá mới thức dậy. Trời tờ mờ sáng rồi, Thu mừng quá. Mẹ lo súc hồ lấy nước và giặt gịa. Mặt trời lên thì xong. Thu giúp mẹ phơi áo quần mà chỉ nơm nớp sợ đạn nó véo trúng mình. Súng càng lúc càng bắn già. Xung quanh xóm nhốn nháo chạy sang gõ cửa xin nấp nhờ. Nồi cơm bắc lên thật khó khăn mới chín.
Mẹ mới mở cửa nhòm một cái thì có tiếng ra lệnh:
- Vào nhà, đóng cửa cẩn thận đi, bà.
11 giờ. Mẹ cho cả nhà ăn cơm, bát đũa mang xuống, nhưng chưa rửa, còn mẹ, mới bới chén cơm bỏ vào chút muối vừng rang, thì súng lớn nổ rung chuyển cả nhà. Thế là mọi người náo loạn cả lên. Mẹ bảo hãy nằm yên. Vừa lúc đó có tiếng ba gọi cửa.
Thu mở cửa cho ba vào, mừng quá. Ba nói:
- Thu coi mở cửa nhà xe, mau. Lũ nhỏ mỗi đứa lo lấy áo quần phần mình cho vô cặp, chờ ba đem xe ra trước, chạy ngay. Dì Đ. bế thằng Xinh đi luôn.
Tụi nhỏ coi thế mà cũng khá lanh. Chỉ một nhoáng là chúng xách mỗi đứa một cái cặp phóng theo ba liền.
Mẹ, Thu ở lại. Vì có muốn theo cũng không kịp nữa. Thu gài kỹ cửa, chạy vào nằm bên mẹ. Tiếng khóc, tiếng cầu nguyện vang lên, thỉnh thoảng bị súng lớn, súng nhỏ át đi. Lũ trẻ (nhà hàng xóm) ban đầu còn khóc thét, khóc ngằn ngặt, sau cùng chúng im thin thít, giương những con mắt kinh hoàng thao láo nhìn quanh. Tội nghiệp con út của bác P. bác bị chặn ở bên nhà, nên Phương là anh trai nó, mới 12 phải bế nó chạy sang. Nhiều đứa không thèm bú mẹ nữa. Một bà ra dáng can đảm nhất chạy xuống cửa bếp nhìn qua khe, chỉ một phút sau bà tái mét chạy bật lên, nói:
- Ghê quá, nhiều lính phía sau quá. Bao nhiêu là súng lớn, súng nhỏ...
- Lính nào?
- Lính nào?
- Đố ai mà biết được. Rõ...
Nhưng không ai giận ai. Trong nguy hiểm, mọi người xích lại gần nhau hơn. Dựa vào nhau để thêm can đảm và như đứa trẻ cần che chở. Bà N. bế con nhỏ, bụng gần sinh, khóc òa lên:
- Trời ơi, nhà tôi cắm trại cả đêm nay, chắc chết thôi!
Mẹ sợ xanh mặt nhưng cố làm gan, nắm tay bà, an ủi:
- Đừng sợ, không sao đâu, chị à!
Rồi mẹ hỏi cô K. ngồi bên mẹ:
- Bà cụ đâu? Chị M. đâu?
Lúc bấy giờ cô Kiên mới nhớ ra mẹ và chị mình bị kẹt bên kia. Cô hoảng lên và nghe tiếng đứa cháu 18 tháng khóc, cô đâm cáu, gắt:
- Có câm họng đi không?
Mẹ can:
- Thôi, tội cháu. Đừng gắt nó.
Lũ trẻ càng khóc già. Mẹ hé cửa tủ lấy chùm nho cuối cùng (chùm nho mà mẹ không cho đứa nào đụng đến, để phần ba) ngắt ra chia cho đứa vài quả.
Đạn nổ nghe lách cách, đạn nổ nghe xoàng, xoàng, xoàng... tạch tạch tạch, đạn nổ nghe veo veo veo... Nhà cửa rung lên từng hồi.
- Con coi lấy ít áo quần cho vào xách tay.
- Còn mẹ?
- Mẹ cũng vậy.
Nhưng hai mẹ con đều không dịch chân được. Các cửa phòng bị những người nấp nhờ dùng đồ đạc của họ mang theo chắn đạn mà đạn cứ xuyên qua vách, lóe sáng lên, xoi cả cầu thang. Mẹ không còn hy vọng mang theo gì được nữa. Song mẹ dặn Thu:
- Hễ ngớt tiếng súng là mẹ con ta chạy liền, nghe chưa. Không cần đem theo gì cả. Miễn thoát chết thôi.
Súng thưa đi. Mẹ ra hiệu bằng mắt, lập tức Thu chạy lại cửa, nhưng rồi Thu lùi lại ngay:
- Trời ơi! Con thấy... ghê quá, không chạy được đâu.
- Cái gì? Cô thấy cái gì?
- Một người đàn ông với một người phụ nữ nhảy tường vào nhà mình, đang chong súng chờ sẵn... chắc...
Tiếng súng tiếp liền theo đó, át lời Thu. Mẹ bịt hai tai lại. Giọng mẹ nghẹn ngào, tuyệt vọng:
- Thôi, thế là mẹ con mình đành chờ chết thôi.
Mọi người không hơn chi mẹ: run rẩy, tái xanh, hoảng sợ. Có người như ngất đi. Tiếng súng ngay sau lưng, tiếng súng ngay trước mặt, ngay bên tả, bên hữu...
Tất cả gục xuống như những cái xác. Lũ trẻ hết cả hơi, không kêu, không khóc nữa.
Mùi thuốc súng cay nồng cả mũi. Có tiếng chân người chạy rầm rập, toán loạn, tiếng kêu: "Cháy, cháy" bên ngoài. Súng thưa đi, tiếng kêu la dồn dập. Mọi người nhất loạt đứng dậy, chạy ùa ra. Lửa rực trời, lửa chói lọi, khói đen như một cái cột khổng lồ...
Máy bay quần đảo rợp trời. Tiếng loa kêu gọi nhưng chẳng ai nghe gì cả. Ba chạy vào nhà, bảo mẹ:
- Mẹ con chạy ngay đi.
- Chạy đi đâu? Sao anh không mang các con đi xa cho yên thân, còn trở lại làm gì?
- Không sao, chúng đã ở xa tầm đạn lửa, an toàn lắm. Mợ và Thu chạy đi. Ngớt bắn rồi, mau lên, không lại không kịp đó.
Thu lúng túng không biết nên lấy cái gì, vơ mấy chiếc áo dài thì mẹ ngăn:
- Không, chạy giặc, con đem áo dài theo làm chi? Lấy những thứ bền, chắc, gọn gàng kia.
Ba vẫn giục. Mẹ nhìn quanh, mẹ nói thế nhưng mẹ thì do dự, cái gì đối với mẹ cũng quí, cũng đầy kỷ niệm. Mẹ không biết nên mang theo cái gì, để lại cái gì.
Sau cùng hai mẹ con mang theo hai cái chăn, hai cái quần đen và một cái áo rách. Ra đến cửa mẹ nhớ sực, hỏi ba:
- Anh để xe chỗ nào để tôi ra với con chứ?
- Cứ đi thẳng. Đi thẳng là tới.
- Còn anh? Đi luôn cho xong.
- Không, để anh xem lửa có thể cháy nhà mình không, anh đi sau. Không sao đâu.
Thế là hai mẹ con bị cuốn trong lớp sóng người cuồn cuộn từ sau đổ ập tới, tuôn thẳng ra đường Phan Thanh Giản.
Mẹ nhìn ngang, nhìn thẳng, nhìn quanh chẳng thấy xe, dì với lũ trẻ đâu.
Súng bắt đầu nhặt lại. Lửa bốc cao, khói mịt mù. Thu với mẹ ngừng lại, lui tới quanh quẩn vẫn không thấy xe. Lính từ trên các lầu cao chĩa súng xuống, to tiếng giục đi qua mau, kẻo nguy hiểm... Mẹ và Thu như hai kẻ mộng du, chẳng còn tỉnh táo gì nữa. Cứ bước, bước tràn... Qua Trần Quốc Toản rồi lại qua Cao Thắng. Nhiều chiếc xe hơi vút qua, nhiều chiếc xe gắn máy vút qua, không thấy tăm dạng ba đâu. Mẹ muốn lộn lại song đường vào hẻm bị chận. Nhưng mẹ không khóc, mẹ đi ra Phan Thanh Giản. Mẹ hỏi Thu:
- Có phải con nghe ba nói cứ đi thẳng không?
- Vâng, con cũng nghe y như mẹ.
- Vậy thì cứ đi. Thế nào cũng gặp.
Thỉnh thoảng hai mẹ con lại bị đuổi, phải ngừng lại, nép sát vào hè phố cho chiếc xe nhà binh, lăm lăm đẩy mũi súng chĩa ra chạy vụt tới.
Mọi người cùng chạy đã tản mát dần. Mẹ con đâm hãi! Gặp ông bà Q. bốn người nhập lại, thấy vững lòng hơn.
Ngang nhà họa sĩ M., ông vồn vã mời ông bà Q. và mẹ cùng vào. Bà chủ nhà cắt dưa, mang bánh mì mời mọi người, nhưng mẹ và Thu chỉ xin cốc nước lọc.
Lúc chia tay, bà chủ nhà nắm tay mẹ rưng rức khóc mà rằng:
- Bà đi bình yên. Chúng tôi chắc cũng chạy thôi. Tôi hãi quá rồi...
- Xin ơn trên gia hộ cho ông bà và các cháu. Mong còn có ngày chúng ta gặp nhau. Bà hãy bình tĩnh, chắc khu này chưa đến nỗi nào...
Ông bà Q., mẹ, Thu và 5 đứa con chị D. với bà S. kéo nhau thành một tiểu đội lếch thếch. Ông bà Q. tỏ ý không bằng lòng, nhưng mẹ không thể nào rứt được mấy người này. Sau cùng ngang nhà thương Bình Dân mẹ chạy vào nài nỉ xin gửi 5 em bé và bà S. lại. Bà ta khóc, mẹ phải giảng giải:
- Chị và lũ trẻ không thể theo tôi được, tôi còn phải quay lại tìm nhà tôi với các con tôi. Nắng, lôi chúng theo chúng đến ốm mất thôi, vả lại vướng chân, chậm, lỡ họ bắn cho thì khốn. Cứ ở đây tránh nắng. Rồi sẽ tính sau. Đừng sợ gì hết. Yên xong tôi sẽ tin cho cha mẹ chúng lại đón.
Bà S, gạt nước mắt, bằng lòng.
Mẹ ngần ngừ, muốn quay về lối cũ tìm ba và các em nhưng ông Q. chỉ cho mẹ những cột khói đen nghịt ngay tầm mắt. Thu và mẹ cùng kêu lên:
- Trời! Cháy lan đến cả đường Nguyễn Thiện Thuật rồi.
Bà Q. lẩm bẩm:
- Những ba cột khói. Thôi, chắc nhà chúng ta tiêu tan rồi, bà ạ! Đừng quay lại, chắc ông và các cháu chạy xa rồi.
- Bây giờ bà và cháu định chạy đi đâu?
Ông Q. hỏi mẹ. Mẹ thẫn thờ đáp:
- Tôi chưa biết chạy đi đâu cả. Vả lại, tôi còn phải tìm các cháu và ba chúng.
- Bây giờ bà hãy cùng chạy với chúng tôi, thong thả sẽ tính sau.
Mẹ và Thu phân vân, nhìn những cột khói ngụt trời, và lắng nghe tiếng nổ một giây, rồi lặng lẽ theo chân ông bà Q.
Trời nắng gắt, mẹ xách hộ ông Q. cái xách tay. Ngang nhà một người quen của ông, ông dừng lại, nói vọng vào mấy câu. Trong nhà chạy ùa ra, chào hỏi, trò chuyện một chút rồi đưa biếu hai quả cam. Lại chia tay trước khi hứa hẹn, dặn dò. Những lời đó thoáng qua tai Thu rồi bay mất.
Đến ngã tư Lê văn Duyệt - Phan Đình Phùng ông bà Q. gọi được chiếc xích lô, ông bà bước lên, chúc mẹ may mắn rồi bảo xe chạy về phía Trương Minh Giảng. Thế là còn có hai mẹ con. Xung quanh toàn người lạ. Ai cũng lầm lì câm nín hay hớt hải, kinh hoàng.
- Giới nghiêm rồi đó mẹ, mẹ tính đi đâu?
- Cứ đi thẳng. Đến nhà bác C. rồi tính sau. Thế nào mẹ cũng phải tìm ba với các em. Mẹ gửi con ở đó đặng dễ...
- Không, con đi với mẹ kia.
- Đi làm gì cho vướng? Mà thôi, hẵng cứ đến đó xem đã.
Đường bắt đầu vắng. Trừ vài cái xe gắn máy chạy vút qua hay chiếc xe Hồng Thập Tự phóng nhanh, không thấy ai đi bộ nữa. Mẹ con lại nhìn nhau, bối rối.
Ngang trước một cái nhà sơn xanh, một thiếu phụ chạy ra hỏi mẹ:
- Bà ở đâu mà chạy đến đây? Giới nghiêm rồi...
Mẹ dừng chân, đáp:
- Thưa tôi ở đường Phan Thanh Giản, trong hẻm Vườn bà Lớn...
- Rõ khổ, xóm đó là xóm nhà của người bạn tôi. Anh L. đấy, không biết gia đình anh ấy có thoát không...
Người chồng lên tiếng. Mẹ nhìn người đàn ông, hỏi lại:
- Thưa, ông có biết nhà tôi?
- Thế chị là chị L. phải không?
- Vâng! Tôi là...
- Anh ấy và các cháu đâu? Trời ơi! Chị vào đây nghỉ đã.
Bác gái nắm tay mẹ lôi vào, còn bác trai thì nắm tay Thu. Mẹ kể lại đầu đuôi. Bác trai chạy sang nhà bên cạnh (hóa ra là nhà bác V. anh họ của ba) báo tin. Bác V. hớt hải chạy sang:
- Bây giờ thím tính sao?
- Thưa, tôi gửi cháu Thu ở đây quay lại tìm nhà tôi, thế nào cũng phải tìm...
- Để tôi bảo cháu nó chở thím đi, đừng đi một mình.
Và bác trở về nhà, bảo con trai bác đem xe qua chở mẹ. Thu có ý không bằng lòng, mẹ phải dỗ dành mãi, Thu mới thuận. Anh K. (tiếng là anh em mà Thu chưa từng biết mặt bao giờ) cho nổ xe rồi mời mẹ lên băng sau, chạy về đường cũ. Thu sốt cả ruột, hết ra lại vào. Lòng dạ nào mà uống nước cam. Làm sao mà vui được trong lúc mẹ một đường, ba và các em một ngả? Nhưng Thu không dám khóc, Thu ngồi dí ở cánh phản, đăm đắm nhìn ra đường.
Cỡ bốn giờ chiều thì anh K. chở mẹ trở về. Dáng mệt mỏi và thất vọng, mẹ nói cho Thu biết rằng không tìm thấy xe ba. Mẹ ngồi rốn, uống cốc nước dừa rồi xin phép vợ chồng bác V. đi đến nhà bác C. vì Thu không thích ở nhà bác V. (Thu không quen ai trong nhà cả, nhà bác C. thì Thu chở mẹ đến ngày một, khi đến chơi, khi đến giao bài cho báo, mẹ lại thân với bác gái, còn Thu thì quen với lũ nhỏ con bác ấy)
Cửa đóng im ỉm, mẹ vừa gõ cửa vừa lo: "ngộ hai ông bà chạy mất thì nguy"
Nhưng may quá, có tiếng bác gái trả lời ngay và cửa mở ra. Thu cảm thấy an toàn, thân mật trong khung cảnh nhà bác C. hết sức.
- Tôi chỉ lo ba cháu bị thiêu trong lửa... và lũ nhỏ...
- Trời ơi! Chị cứ lo... người như anh ấy mà lại dại dột cho đến nỗi... Chị và cháu mệt lắm rồi, hãy cứ nghỉ đây. Mai sẽ tính.
Nhưng mẹ không ngồi yên, bác lại chở mẹ đi nữa. Rồi lại thất vọng trở về. Đường phố im vắng. Mặt trời xuống thấp. Hai bác kiếm đủ lời để trấn an mẹ. Bữa cơm chiều được dọn ra. Thu nghe hai tiếng yên tâm được lập lại nhiều lần, song nét mặt biểu lộ tất cả những gì trái lại. Thu thì chưa kịp biết sợ, biết lo. Đây là lần thứ nhất trong đời, Thu nếm mùi loạn lạc. Đạn nổ, lửa cháy, ngay giữa thành phố Sàigon giữa mùa Xuân. Thu tức nghẹn.
Truyền hình được mở ra. Nhưng tất cả phảng phất quanh Thu như nửa thực nửa mộng.
- Mẹ, con bỏ quên cái học bạ ở nhà rồi, chắc cháy tiêu rồi.
- Tất cả đều cháy tiêu, riêng gì cái học bạ của con đâu.
Mẹ trầm giọng, nói. Bác gái cho giăng màn, mời hai mẹ con đi nghỉ, kẻo mệt.
Đèn tắt ngấm. Hai mẹ con nằm bên nhau cùng nén tiếng thở dài và tiếng kêu than. Mẹ không ngủ được. Mẹ rón rén ngồi lên, ra phòng khách, vặn đèn đọc báo. Song hình như mẹ không đọc được. Mẹ lại tắt đèn chui vào màn. Mẹ quàng tay qua ôm lấy Thu và mẹ nức lên khóc, song mẹ cố giữ, không cho tiếng khóc được bật ra to. Thu thì thào: "Mẹ đừng khóc, mai con sẽ đi tìm ba với mẹ, mẹ con cùng đi, chừng nào thấy mới thôi"
- Tội nghiệp con Bé, nó không bao giờ rời mẹ. Tối nay...
Giọng mẹ nghẹn lại, tiếng khóc lại bật lên. Thu không cầm được nữa. Đến lượt mẹ dỗ dành:
- Chớ khóc, để yên hai bác ngủ. Đừng lo. Đã có mẹ bên con.
Nhưng Thu cứ khóc, Thu cứ khóc. Thu khóc cho đến nỗi khan cả tiếng, ngạt cả mũi, không thở được và Thu phải ngồi lên để thở một chút.
Tiếng súng nhặt thưa từ xa vọng lại trong đêm khuya. Mẹ dìu Thu nằm xuống.
Mẹ hôn lên tóc, lên mặt Thu, thì thào, giọng đẫm nước mắt:
- Phải, mai mẹ con ta đi tìm các em với ba. Nhất định phải tìm ra. Ngày mai...
Ngày mai! Nếu ngày mai không tìm ra? Mãi mãi không tìm ra? Thu lạnh người, rùng mình khi nghĩ tới điều này. Y như có bàn tay khổng lồ bóp nghẹt tim Thu, y như máu trong huyết quản Thu ngừng chảy, tim ngừng đập. Thu nghẹn thở vì kinh hãi. Trong một chiều tai biến đến nhanh như thế sao? Nhà cửa, áo quần, sách vở, tranh ảnh mất?... Được! Nhưng còn ba và các em... Thu nhắm chặt hai mắt lại, nước mắt ràn rụa trào ra. Nước mắt mà Thu tưởng Thu khóc cạn cả rồi...
- Hãy can đảm! Còn có mẹ đây, con ạ!
Còn có mẹ! Còn có mỗi mình mẹ! Với hai cái xách tay nhỏ bé đựng hai chiếc quần và một cái áo rách, hai chiếc chăn. Với mấy phong bao tiền mừng tuổi ngày tết. Với cuốn sổ tay của mẹ, bên ngoài bìa có hàng chữ "Never alone" mầu xanh và cái bút nguyên tử đỏ. Thu xót xa thấm thía. Liệu mẹ có thể đương đầu với những bất trắc của Ngày Mai? Ngòi bút liệu có nuôi nổi mẹ và Thu? Chao ơi! Sao mà ghê rợn thế? Ba và các em giờ này ở đâu? Ba làm sao rửa ráy, săn sóc chúng thay Thu và mẹ được? Chắc là lạnh lắm, buồn khổ lắm. Con Bé và cu Minh chúa bướng, chúng khóc đòi mẹ và chị, ba liệu cách nào?... Hàng chục hàng chục câu hỏi xoay ngang, xoay dọc trong đầu Thu, chật ních.
Thu cảm thấy mình mệt mỏi rã rời, chán nản hơn bao giờ hết. Trong bóng tối, mẹ sờ tay lên mặt Thu, bàn tay ướt đẫm vì nước mắt, giọng mẹ bỗng nhiên trầm tĩnh và tin tưởng lạ thường:
- Con đừng buồn nữa, ngủ đi! Hãy cảm ơn trên, dù sao, mẹ mừng còn có con bên cạnh. Rồi mẹ con ta sẽ vượt qua thử thách ghê gớm này. Chắc xe ba rẽ vào một ngõ hẻm nào đó... ngày mai gặp, thế nào mẹ cũng bị ba rầy... Con yên tâm.
Thu vụt im bặt, một tia hy vọng lóe sáng trong đầu Thu, Thu cố bám vào đó. Phải! Ba điềm tĩnh, khôn ngoan, có lẽ nào...
Vả lại, dù gì đi nữa, mẹ nói đúng: Thu còn có mẹ, mẹ còn có Thu.
Rồi tất cả sẽ qua đi như một cơn ác mộng. Dù đây không phải là ác mộng và chưa biết ngày mai ra sao. Hãy cứ biết cảm ơn trên và tin tưởng. Thu thiếp dần trong vòng tay mẹ và trong tiếng súng rời rạc nhắc nhở nỗi kinh hoàng trong dịp đầu năm.
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 87, ra ngày 15-3-1968)
- Chán bỏ xừ đi, tắt quách còn hơn.
Dũng, con trai dì H. cầu nhầu. Dì nạt nó:
- Đứa nào không coi thì đi ngủ đi, đừng chê bai gì hết.
- Cố đoán mà hiểu, thế này con hơn ngồi không.
Thình lình, tiếng kêu gọi lại vọng lên mồn một:
- Yêu cầu đồng bào hãy sẵn sàng giáo mác, gậy gộc để sáng mai ra đường...
Trong một nháy mắt, tất cả đèn đóm đều tắt ngấm, truyền hình cũng vậy. Các dì, mẹ, mỗi người sờ soạng trong bóng tối bồng và dắt lũ trẻ vào giường. Tội nghiệp em Bé: nó sợ cho đến nỗi mồ hôi nó toát ra ướt đẫm lưng, nhưng nó không nói gì cả, chỉ ôm chặt mẹ.
Thằng Xinh đã thôi bú mẹ, nhưng mấy hôm nay lại được mẹ nó cho bú nhiều hơn bao giờ hết. Dì không dám để nó vòi, nó khóc, làm như tiếng khóc của thằng bé mới thôi nôi đó kêu gọi sự nguy hiểm tới vậy.
Trong ngoài, trên dưới phẳng lặng, một sự im lặng ghê rợn đầy đe dọa. Thu nằm yên bên em Bé và mẹ, cả ba đều nghe rõ nhịp thở của nhau.
*
Ngày mồng năm, ngày mồng sáu, tiếng súng nghe như quen tai đi, khi xa tít, khi xa vừa, nhưng cứ từng chặp, từng chặp đoàn người kéo nhau lũ lượt đi vào con hẻm nhà Thu. Họ lôi thôi, lếch thếch, ngơ ngác như những kẻ mất hồn.
Truyền hình có từ hai giờ rưỡi. Giới nghiêm từ hai giờ chiều.
Cả nhà (kể cả mấy dì) đều ngồi lại chơi bài trừ mẹ và cu Minh, em Bé, Thu, Vũ, Hà đều mê mải say sưa. Con Hà gớm thật, mới tập có mấy hôm nay mà đã thạo.
Mẹ không bằng lòng, nhưng mẹ không nỡ cấm, cấm thì cả nhà còn biết làm gì? Không ra khỏi ngõ được, hạt dưa, mứt, kẹo, hoa quả cạn dần. Thu và mẹ cũng hết muốn can ngăn, dành phần cho những người khách quí mà cả nhà đã mỏi mòn chờ đợi.
Trưa mồng sáu, ba đề nghị:
- Này, hay là anh đi chơi một chốc xem?
- Rồi chiều hai giờ, ba về không kịp thì sao?
- Không sao, nếu về không kịp thì ba cứ ở lại, sáng mai về. (Mẹ nói)
- Không, con không chịu ba đi. (Minh phụng phịu)
- Cái gì mà sợ? Ba ở nhà buồn, hãy để ba đi chơi một hôm cho đỡ quẩn chân. Mẹ ở nhà với con mà.
Chiều mồng sáu, vì không có ba nên mẹ cho ăn cơm sớm, gài chặt cửa nẻo, lên lầu chơi. Không ai nói ra nhưng mọi người đều không che giấu được nỗi lo âu. Truyền hình được mở ra. Ai cũng có vẻ chăm chú nhưng kỳ thật không một ai còn lòng dạ nào mà thưởng thức. Thì giờ ngưng đọng.
Sau cùng mẹ bảo:
- Mẹ chia ra: tụi con trai ngủ trên lầu. Mẹ, dì Đ. và con gái ngủ dưới nhà. (Dì H. và ba con của dì về nhà từ sáng qua). Vũ, Minh và Sơn (con chú B. ở Dĩ An về chơi, bị kẹt) kéo chăn trùm kín mít. Giá mẹ thấy thì mẹ rầy đấy. Nhưng bây giờ mẹ còn lo cắt xếp nhà dưới.
Chỉ một chốc sau là lũ con trai ngủ say. Con gái cũng vậy, còn lại mẹ, dì và Thu thao thức, phập phồng lo sợ. Bỗng mẹ lay khẽ Thu một cái, thì thào:
- Y như có tiếng chân người.
Thu cùng mẹ nhẹ nhàng nhỏm dậy hé cửa sổ nhìn ra, ngoài vườn, một toán người võ trang kéo nhau đi, nép sát vào tường, không nghe tiếng giày mà chỉ nghe võ khí va nhau canh cách. Thu lạnh cả người, không thở được. Song mẹ vẫn bình tĩnh, chạy sang phòng dì phía trước xem, sau cùng mẹ chạy lên lầu, đoàn người vẫn kéo nhau nép sát tường y như một con rắn khổng lổ. Họ vòng ra phía trước và cuối cùng mất hút sau con hẻm đổ ra đường Nguyễn Thiện Thuật.
Mẹ chạy vụt xuống, thì thào với dì Đ. và Thu:
- Nguy quá, chắc là...
Nhưng mẹ chưa dứt lời, một tràng tiếng liên thanh nổ ròn, rồi tiếng chó sủa vang lên.
Mẹ kéo Thu về giường. Súng càng lúc càng nổ mau, nhiều và gần hơn. Mẹ trải chiếu xuống đất, bế Bé đặt nằm xuống với Thu rồi lo chạy lên lầu đánh thức tụi con trai dậy. Sơn lấy chăn che đầu phóng xuống. Vũ vẫn còn ngái ngủ, ngồi lên, nằm xuống mấy lượt mới tỉnh hẳn theo chân Sơn. Mẹ bế cu Minh, sờ soạng trong bóng tối, xuýt ngã mấy lượt.
Phòng bên kia có tiếng ọ ẹ của thằng Xinh, rồi tiếng nó ngoạm vú dì nút nghe chim chíp. Một con mối tắc lưỡi đâu đó. Quái, đồng hồ y như chết rồi, Thu đợi mãi chẳng nghe nó đổ 15 phút đều đều như thường lệ.
Trong sự căng thẳng ghê rợn đó, thỉnh thoảng một tiếng mèo gầm gừ lên, đâu dưới bếp làm Thu giật thót cả mình.
Rồi Thu thiếp ngủ cho đến khi nghe súng bắn gần quá mới thức dậy. Trời tờ mờ sáng rồi, Thu mừng quá. Mẹ lo súc hồ lấy nước và giặt gịa. Mặt trời lên thì xong. Thu giúp mẹ phơi áo quần mà chỉ nơm nớp sợ đạn nó véo trúng mình. Súng càng lúc càng bắn già. Xung quanh xóm nhốn nháo chạy sang gõ cửa xin nấp nhờ. Nồi cơm bắc lên thật khó khăn mới chín.
Mẹ mới mở cửa nhòm một cái thì có tiếng ra lệnh:
- Vào nhà, đóng cửa cẩn thận đi, bà.
11 giờ. Mẹ cho cả nhà ăn cơm, bát đũa mang xuống, nhưng chưa rửa, còn mẹ, mới bới chén cơm bỏ vào chút muối vừng rang, thì súng lớn nổ rung chuyển cả nhà. Thế là mọi người náo loạn cả lên. Mẹ bảo hãy nằm yên. Vừa lúc đó có tiếng ba gọi cửa.
Thu mở cửa cho ba vào, mừng quá. Ba nói:
- Thu coi mở cửa nhà xe, mau. Lũ nhỏ mỗi đứa lo lấy áo quần phần mình cho vô cặp, chờ ba đem xe ra trước, chạy ngay. Dì Đ. bế thằng Xinh đi luôn.
Tụi nhỏ coi thế mà cũng khá lanh. Chỉ một nhoáng là chúng xách mỗi đứa một cái cặp phóng theo ba liền.
Mẹ, Thu ở lại. Vì có muốn theo cũng không kịp nữa. Thu gài kỹ cửa, chạy vào nằm bên mẹ. Tiếng khóc, tiếng cầu nguyện vang lên, thỉnh thoảng bị súng lớn, súng nhỏ át đi. Lũ trẻ (nhà hàng xóm) ban đầu còn khóc thét, khóc ngằn ngặt, sau cùng chúng im thin thít, giương những con mắt kinh hoàng thao láo nhìn quanh. Tội nghiệp con út của bác P. bác bị chặn ở bên nhà, nên Phương là anh trai nó, mới 12 phải bế nó chạy sang. Nhiều đứa không thèm bú mẹ nữa. Một bà ra dáng can đảm nhất chạy xuống cửa bếp nhìn qua khe, chỉ một phút sau bà tái mét chạy bật lên, nói:
- Ghê quá, nhiều lính phía sau quá. Bao nhiêu là súng lớn, súng nhỏ...
- Lính nào?
- Lính nào?
- Đố ai mà biết được. Rõ...
Nhưng không ai giận ai. Trong nguy hiểm, mọi người xích lại gần nhau hơn. Dựa vào nhau để thêm can đảm và như đứa trẻ cần che chở. Bà N. bế con nhỏ, bụng gần sinh, khóc òa lên:
- Trời ơi, nhà tôi cắm trại cả đêm nay, chắc chết thôi!
Mẹ sợ xanh mặt nhưng cố làm gan, nắm tay bà, an ủi:
- Đừng sợ, không sao đâu, chị à!
Rồi mẹ hỏi cô K. ngồi bên mẹ:
- Bà cụ đâu? Chị M. đâu?
Lúc bấy giờ cô Kiên mới nhớ ra mẹ và chị mình bị kẹt bên kia. Cô hoảng lên và nghe tiếng đứa cháu 18 tháng khóc, cô đâm cáu, gắt:
- Có câm họng đi không?
Mẹ can:
- Thôi, tội cháu. Đừng gắt nó.
Lũ trẻ càng khóc già. Mẹ hé cửa tủ lấy chùm nho cuối cùng (chùm nho mà mẹ không cho đứa nào đụng đến, để phần ba) ngắt ra chia cho đứa vài quả.
Đạn nổ nghe lách cách, đạn nổ nghe xoàng, xoàng, xoàng... tạch tạch tạch, đạn nổ nghe veo veo veo... Nhà cửa rung lên từng hồi.
- Con coi lấy ít áo quần cho vào xách tay.
- Còn mẹ?
- Mẹ cũng vậy.
Nhưng hai mẹ con đều không dịch chân được. Các cửa phòng bị những người nấp nhờ dùng đồ đạc của họ mang theo chắn đạn mà đạn cứ xuyên qua vách, lóe sáng lên, xoi cả cầu thang. Mẹ không còn hy vọng mang theo gì được nữa. Song mẹ dặn Thu:
- Hễ ngớt tiếng súng là mẹ con ta chạy liền, nghe chưa. Không cần đem theo gì cả. Miễn thoát chết thôi.
Súng thưa đi. Mẹ ra hiệu bằng mắt, lập tức Thu chạy lại cửa, nhưng rồi Thu lùi lại ngay:
- Trời ơi! Con thấy... ghê quá, không chạy được đâu.
- Cái gì? Cô thấy cái gì?
- Một người đàn ông với một người phụ nữ nhảy tường vào nhà mình, đang chong súng chờ sẵn... chắc...
Tiếng súng tiếp liền theo đó, át lời Thu. Mẹ bịt hai tai lại. Giọng mẹ nghẹn ngào, tuyệt vọng:
- Thôi, thế là mẹ con mình đành chờ chết thôi.
Mọi người không hơn chi mẹ: run rẩy, tái xanh, hoảng sợ. Có người như ngất đi. Tiếng súng ngay sau lưng, tiếng súng ngay trước mặt, ngay bên tả, bên hữu...
Tất cả gục xuống như những cái xác. Lũ trẻ hết cả hơi, không kêu, không khóc nữa.
Mùi thuốc súng cay nồng cả mũi. Có tiếng chân người chạy rầm rập, toán loạn, tiếng kêu: "Cháy, cháy" bên ngoài. Súng thưa đi, tiếng kêu la dồn dập. Mọi người nhất loạt đứng dậy, chạy ùa ra. Lửa rực trời, lửa chói lọi, khói đen như một cái cột khổng lồ...
Máy bay quần đảo rợp trời. Tiếng loa kêu gọi nhưng chẳng ai nghe gì cả. Ba chạy vào nhà, bảo mẹ:
- Mẹ con chạy ngay đi.
- Chạy đi đâu? Sao anh không mang các con đi xa cho yên thân, còn trở lại làm gì?
- Không sao, chúng đã ở xa tầm đạn lửa, an toàn lắm. Mợ và Thu chạy đi. Ngớt bắn rồi, mau lên, không lại không kịp đó.
Thu lúng túng không biết nên lấy cái gì, vơ mấy chiếc áo dài thì mẹ ngăn:
- Không, chạy giặc, con đem áo dài theo làm chi? Lấy những thứ bền, chắc, gọn gàng kia.
Ba vẫn giục. Mẹ nhìn quanh, mẹ nói thế nhưng mẹ thì do dự, cái gì đối với mẹ cũng quí, cũng đầy kỷ niệm. Mẹ không biết nên mang theo cái gì, để lại cái gì.
Sau cùng hai mẹ con mang theo hai cái chăn, hai cái quần đen và một cái áo rách. Ra đến cửa mẹ nhớ sực, hỏi ba:
- Anh để xe chỗ nào để tôi ra với con chứ?
- Cứ đi thẳng. Đi thẳng là tới.
- Còn anh? Đi luôn cho xong.
- Không, để anh xem lửa có thể cháy nhà mình không, anh đi sau. Không sao đâu.
Thế là hai mẹ con bị cuốn trong lớp sóng người cuồn cuộn từ sau đổ ập tới, tuôn thẳng ra đường Phan Thanh Giản.
Mẹ nhìn ngang, nhìn thẳng, nhìn quanh chẳng thấy xe, dì với lũ trẻ đâu.
Súng bắt đầu nhặt lại. Lửa bốc cao, khói mịt mù. Thu với mẹ ngừng lại, lui tới quanh quẩn vẫn không thấy xe. Lính từ trên các lầu cao chĩa súng xuống, to tiếng giục đi qua mau, kẻo nguy hiểm... Mẹ và Thu như hai kẻ mộng du, chẳng còn tỉnh táo gì nữa. Cứ bước, bước tràn... Qua Trần Quốc Toản rồi lại qua Cao Thắng. Nhiều chiếc xe hơi vút qua, nhiều chiếc xe gắn máy vút qua, không thấy tăm dạng ba đâu. Mẹ muốn lộn lại song đường vào hẻm bị chận. Nhưng mẹ không khóc, mẹ đi ra Phan Thanh Giản. Mẹ hỏi Thu:
- Có phải con nghe ba nói cứ đi thẳng không?
- Vâng, con cũng nghe y như mẹ.
- Vậy thì cứ đi. Thế nào cũng gặp.
Thỉnh thoảng hai mẹ con lại bị đuổi, phải ngừng lại, nép sát vào hè phố cho chiếc xe nhà binh, lăm lăm đẩy mũi súng chĩa ra chạy vụt tới.
Mọi người cùng chạy đã tản mát dần. Mẹ con đâm hãi! Gặp ông bà Q. bốn người nhập lại, thấy vững lòng hơn.
Ngang nhà họa sĩ M., ông vồn vã mời ông bà Q. và mẹ cùng vào. Bà chủ nhà cắt dưa, mang bánh mì mời mọi người, nhưng mẹ và Thu chỉ xin cốc nước lọc.
Lúc chia tay, bà chủ nhà nắm tay mẹ rưng rức khóc mà rằng:
- Bà đi bình yên. Chúng tôi chắc cũng chạy thôi. Tôi hãi quá rồi...
- Xin ơn trên gia hộ cho ông bà và các cháu. Mong còn có ngày chúng ta gặp nhau. Bà hãy bình tĩnh, chắc khu này chưa đến nỗi nào...
Ông bà Q., mẹ, Thu và 5 đứa con chị D. với bà S. kéo nhau thành một tiểu đội lếch thếch. Ông bà Q. tỏ ý không bằng lòng, nhưng mẹ không thể nào rứt được mấy người này. Sau cùng ngang nhà thương Bình Dân mẹ chạy vào nài nỉ xin gửi 5 em bé và bà S. lại. Bà ta khóc, mẹ phải giảng giải:
- Chị và lũ trẻ không thể theo tôi được, tôi còn phải quay lại tìm nhà tôi với các con tôi. Nắng, lôi chúng theo chúng đến ốm mất thôi, vả lại vướng chân, chậm, lỡ họ bắn cho thì khốn. Cứ ở đây tránh nắng. Rồi sẽ tính sau. Đừng sợ gì hết. Yên xong tôi sẽ tin cho cha mẹ chúng lại đón.
Bà S, gạt nước mắt, bằng lòng.
Mẹ ngần ngừ, muốn quay về lối cũ tìm ba và các em nhưng ông Q. chỉ cho mẹ những cột khói đen nghịt ngay tầm mắt. Thu và mẹ cùng kêu lên:
- Trời! Cháy lan đến cả đường Nguyễn Thiện Thuật rồi.
Bà Q. lẩm bẩm:
- Những ba cột khói. Thôi, chắc nhà chúng ta tiêu tan rồi, bà ạ! Đừng quay lại, chắc ông và các cháu chạy xa rồi.
- Bây giờ bà và cháu định chạy đi đâu?
Ông Q. hỏi mẹ. Mẹ thẫn thờ đáp:
- Tôi chưa biết chạy đi đâu cả. Vả lại, tôi còn phải tìm các cháu và ba chúng.
- Bây giờ bà hãy cùng chạy với chúng tôi, thong thả sẽ tính sau.
Mẹ và Thu phân vân, nhìn những cột khói ngụt trời, và lắng nghe tiếng nổ một giây, rồi lặng lẽ theo chân ông bà Q.
Trời nắng gắt, mẹ xách hộ ông Q. cái xách tay. Ngang nhà một người quen của ông, ông dừng lại, nói vọng vào mấy câu. Trong nhà chạy ùa ra, chào hỏi, trò chuyện một chút rồi đưa biếu hai quả cam. Lại chia tay trước khi hứa hẹn, dặn dò. Những lời đó thoáng qua tai Thu rồi bay mất.
Đến ngã tư Lê văn Duyệt - Phan Đình Phùng ông bà Q. gọi được chiếc xích lô, ông bà bước lên, chúc mẹ may mắn rồi bảo xe chạy về phía Trương Minh Giảng. Thế là còn có hai mẹ con. Xung quanh toàn người lạ. Ai cũng lầm lì câm nín hay hớt hải, kinh hoàng.
- Giới nghiêm rồi đó mẹ, mẹ tính đi đâu?
- Cứ đi thẳng. Đến nhà bác C. rồi tính sau. Thế nào mẹ cũng phải tìm ba với các em. Mẹ gửi con ở đó đặng dễ...
- Không, con đi với mẹ kia.
- Đi làm gì cho vướng? Mà thôi, hẵng cứ đến đó xem đã.
Đường bắt đầu vắng. Trừ vài cái xe gắn máy chạy vút qua hay chiếc xe Hồng Thập Tự phóng nhanh, không thấy ai đi bộ nữa. Mẹ con lại nhìn nhau, bối rối.
Ngang trước một cái nhà sơn xanh, một thiếu phụ chạy ra hỏi mẹ:
- Bà ở đâu mà chạy đến đây? Giới nghiêm rồi...
Mẹ dừng chân, đáp:
- Thưa tôi ở đường Phan Thanh Giản, trong hẻm Vườn bà Lớn...
- Rõ khổ, xóm đó là xóm nhà của người bạn tôi. Anh L. đấy, không biết gia đình anh ấy có thoát không...
Người chồng lên tiếng. Mẹ nhìn người đàn ông, hỏi lại:
- Thưa, ông có biết nhà tôi?
- Thế chị là chị L. phải không?
- Vâng! Tôi là...
- Anh ấy và các cháu đâu? Trời ơi! Chị vào đây nghỉ đã.
Bác gái nắm tay mẹ lôi vào, còn bác trai thì nắm tay Thu. Mẹ kể lại đầu đuôi. Bác trai chạy sang nhà bên cạnh (hóa ra là nhà bác V. anh họ của ba) báo tin. Bác V. hớt hải chạy sang:
- Bây giờ thím tính sao?
- Thưa, tôi gửi cháu Thu ở đây quay lại tìm nhà tôi, thế nào cũng phải tìm...
- Để tôi bảo cháu nó chở thím đi, đừng đi một mình.
Và bác trở về nhà, bảo con trai bác đem xe qua chở mẹ. Thu có ý không bằng lòng, mẹ phải dỗ dành mãi, Thu mới thuận. Anh K. (tiếng là anh em mà Thu chưa từng biết mặt bao giờ) cho nổ xe rồi mời mẹ lên băng sau, chạy về đường cũ. Thu sốt cả ruột, hết ra lại vào. Lòng dạ nào mà uống nước cam. Làm sao mà vui được trong lúc mẹ một đường, ba và các em một ngả? Nhưng Thu không dám khóc, Thu ngồi dí ở cánh phản, đăm đắm nhìn ra đường.
Cỡ bốn giờ chiều thì anh K. chở mẹ trở về. Dáng mệt mỏi và thất vọng, mẹ nói cho Thu biết rằng không tìm thấy xe ba. Mẹ ngồi rốn, uống cốc nước dừa rồi xin phép vợ chồng bác V. đi đến nhà bác C. vì Thu không thích ở nhà bác V. (Thu không quen ai trong nhà cả, nhà bác C. thì Thu chở mẹ đến ngày một, khi đến chơi, khi đến giao bài cho báo, mẹ lại thân với bác gái, còn Thu thì quen với lũ nhỏ con bác ấy)
Cửa đóng im ỉm, mẹ vừa gõ cửa vừa lo: "ngộ hai ông bà chạy mất thì nguy"
Nhưng may quá, có tiếng bác gái trả lời ngay và cửa mở ra. Thu cảm thấy an toàn, thân mật trong khung cảnh nhà bác C. hết sức.
- Tôi chỉ lo ba cháu bị thiêu trong lửa... và lũ nhỏ...
- Trời ơi! Chị cứ lo... người như anh ấy mà lại dại dột cho đến nỗi... Chị và cháu mệt lắm rồi, hãy cứ nghỉ đây. Mai sẽ tính.
Nhưng mẹ không ngồi yên, bác lại chở mẹ đi nữa. Rồi lại thất vọng trở về. Đường phố im vắng. Mặt trời xuống thấp. Hai bác kiếm đủ lời để trấn an mẹ. Bữa cơm chiều được dọn ra. Thu nghe hai tiếng yên tâm được lập lại nhiều lần, song nét mặt biểu lộ tất cả những gì trái lại. Thu thì chưa kịp biết sợ, biết lo. Đây là lần thứ nhất trong đời, Thu nếm mùi loạn lạc. Đạn nổ, lửa cháy, ngay giữa thành phố Sàigon giữa mùa Xuân. Thu tức nghẹn.
Truyền hình được mở ra. Nhưng tất cả phảng phất quanh Thu như nửa thực nửa mộng.
- Mẹ, con bỏ quên cái học bạ ở nhà rồi, chắc cháy tiêu rồi.
- Tất cả đều cháy tiêu, riêng gì cái học bạ của con đâu.
Mẹ trầm giọng, nói. Bác gái cho giăng màn, mời hai mẹ con đi nghỉ, kẻo mệt.
Đèn tắt ngấm. Hai mẹ con nằm bên nhau cùng nén tiếng thở dài và tiếng kêu than. Mẹ không ngủ được. Mẹ rón rén ngồi lên, ra phòng khách, vặn đèn đọc báo. Song hình như mẹ không đọc được. Mẹ lại tắt đèn chui vào màn. Mẹ quàng tay qua ôm lấy Thu và mẹ nức lên khóc, song mẹ cố giữ, không cho tiếng khóc được bật ra to. Thu thì thào: "Mẹ đừng khóc, mai con sẽ đi tìm ba với mẹ, mẹ con cùng đi, chừng nào thấy mới thôi"
- Tội nghiệp con Bé, nó không bao giờ rời mẹ. Tối nay...
Giọng mẹ nghẹn lại, tiếng khóc lại bật lên. Thu không cầm được nữa. Đến lượt mẹ dỗ dành:
- Chớ khóc, để yên hai bác ngủ. Đừng lo. Đã có mẹ bên con.
Nhưng Thu cứ khóc, Thu cứ khóc. Thu khóc cho đến nỗi khan cả tiếng, ngạt cả mũi, không thở được và Thu phải ngồi lên để thở một chút.
Tiếng súng nhặt thưa từ xa vọng lại trong đêm khuya. Mẹ dìu Thu nằm xuống.
Mẹ hôn lên tóc, lên mặt Thu, thì thào, giọng đẫm nước mắt:
- Phải, mai mẹ con ta đi tìm các em với ba. Nhất định phải tìm ra. Ngày mai...
Ngày mai! Nếu ngày mai không tìm ra? Mãi mãi không tìm ra? Thu lạnh người, rùng mình khi nghĩ tới điều này. Y như có bàn tay khổng lồ bóp nghẹt tim Thu, y như máu trong huyết quản Thu ngừng chảy, tim ngừng đập. Thu nghẹn thở vì kinh hãi. Trong một chiều tai biến đến nhanh như thế sao? Nhà cửa, áo quần, sách vở, tranh ảnh mất?... Được! Nhưng còn ba và các em... Thu nhắm chặt hai mắt lại, nước mắt ràn rụa trào ra. Nước mắt mà Thu tưởng Thu khóc cạn cả rồi...
- Hãy can đảm! Còn có mẹ đây, con ạ!
Còn có mẹ! Còn có mỗi mình mẹ! Với hai cái xách tay nhỏ bé đựng hai chiếc quần và một cái áo rách, hai chiếc chăn. Với mấy phong bao tiền mừng tuổi ngày tết. Với cuốn sổ tay của mẹ, bên ngoài bìa có hàng chữ "Never alone" mầu xanh và cái bút nguyên tử đỏ. Thu xót xa thấm thía. Liệu mẹ có thể đương đầu với những bất trắc của Ngày Mai? Ngòi bút liệu có nuôi nổi mẹ và Thu? Chao ơi! Sao mà ghê rợn thế? Ba và các em giờ này ở đâu? Ba làm sao rửa ráy, săn sóc chúng thay Thu và mẹ được? Chắc là lạnh lắm, buồn khổ lắm. Con Bé và cu Minh chúa bướng, chúng khóc đòi mẹ và chị, ba liệu cách nào?... Hàng chục hàng chục câu hỏi xoay ngang, xoay dọc trong đầu Thu, chật ních.
Thu cảm thấy mình mệt mỏi rã rời, chán nản hơn bao giờ hết. Trong bóng tối, mẹ sờ tay lên mặt Thu, bàn tay ướt đẫm vì nước mắt, giọng mẹ bỗng nhiên trầm tĩnh và tin tưởng lạ thường:
- Con đừng buồn nữa, ngủ đi! Hãy cảm ơn trên, dù sao, mẹ mừng còn có con bên cạnh. Rồi mẹ con ta sẽ vượt qua thử thách ghê gớm này. Chắc xe ba rẽ vào một ngõ hẻm nào đó... ngày mai gặp, thế nào mẹ cũng bị ba rầy... Con yên tâm.
Thu vụt im bặt, một tia hy vọng lóe sáng trong đầu Thu, Thu cố bám vào đó. Phải! Ba điềm tĩnh, khôn ngoan, có lẽ nào...
Vả lại, dù gì đi nữa, mẹ nói đúng: Thu còn có mẹ, mẹ còn có Thu.
Rồi tất cả sẽ qua đi như một cơn ác mộng. Dù đây không phải là ác mộng và chưa biết ngày mai ra sao. Hãy cứ biết cảm ơn trên và tin tưởng. Thu thiếp dần trong vòng tay mẹ và trong tiếng súng rời rạc nhắc nhở nỗi kinh hoàng trong dịp đầu năm.
MINH QUÂN
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 87, ra ngày 15-3-1968)
Không có nhận xét nào:
Không cho phép có nhận xét mới.