CHƯƠNG II
Đi được một lúc lâu, bọn trẻ tới một cao nguyên bằng phẳng, có mấy gốc thông. Bé Tâm khẩn khoản:
- Chúng ta nghỉ đi, anh chị ơi! Em đi hết nổi rồi! Còn xa nữa không hả?
Đây là lần thứ ba nó hỏi câu đó. Nhưng Việt chẳng biết trả lời làm sao vì chúng nó bị lạc hẳn rồi. Từ trưa tới giờ, ba đứa cứ đi liều lĩnh cầu may theo hướng mặt trời.
Bé Tâm có lẽ cảm thấy nỗi lo âu của anh nó, vì nó hỏi thêm:
- Anh chắc biết lối đấy chứ, anh Việt?
Việt không muốn nói dối. Nhưng nếu nó nói thật thì bé Tâm có đủ can đảm tiếp tục đi nữa hay không? Nó mỏi mệt rồi, chân nó bị phồng lên.
Việt bảo em:
- Ta hãy dừng lại một lát, em ngồi nghỉ đi. Ăn cái bánh nhé.
- Thế còn anh chị?
Việt liếc nhìn Hằng đáp:
- Hằng và anh chưa đói đâu, em cứ ăn trước đi.
Trong khi bé Tâm ăn bánh, hai đứa lớn xích lại gần nhau thì thầm:
- Mặt trời đã xuống thấp rồi đó – Hằng nói.
- Tuy nhiên, có lẽ chưa quá 4 giờ đâu.
- Em cảm thấy như chúng ta đã đi bộ cả một thế kỷ rồi.
Một lát sau chúng lại lên đường. Hằng phải lôi tay bé Tâm. Bỗng nhiên, Việt chỉ cho hai em thấy phần dưới các cây đã bị mất hết lá.
- Sao thế này? – Nó lẩm bẩm – Hình như lá cây đã bị thú vật ăn hết thì phải .
- Hay là chó sói? – Bé Tâm vừa nói vừa nắm chặt tay Hằng.
- Ở đây làm gì có chó sói, vả lại chó sói có ăn lá cây bao giờ? Có lẽ là… phải rồi, những con dê đây mà! Kìa, trông vết tích của chúng!
Trên mặt đất, người ta thấy rải rác những viên nho nhỏ đen đen mà những con dê để lại khi chúng đi qua. Hằng nói :
- Vậy thì sắp có sữa uống cũng nên? May quá! Em đang khát khô cả cổ!
- Có dê tất nhiên phải có người chăn – Việt đáp – Họ sẽ chỉ đường cho bọn ta và chắc cũng có một cái buôn gần đâu đây mà ta có thể ngủ nhờ qua đêm.
Bé Tâm lo lắng hỏi :
- Thế ta không đi tới chỗ ba má à?
- Có chứ – Hằng đáp – Tuy nhiên, có thể ta chưa tới kịp tối nay mà thôi.
Rồi chúng tiếp tục lần theo dấu vết của đàn dê.
Bỗng nhiên Hằng dừng bước:
- Anh Việt! Hình như có tiếng động.
Chúng bèn lắng tai nghe.
- Đúng là người chăn dê rồi – Hằng kêu lên với vẻ sung sướng – Ta phải mau mau tới đó mà hỏi thăm.
Tiếng nói bây giờ nghe rõ hơn và là tiếng một bà già, hình như đang giận dữ.
Hằng cầm lấy tay bé Tầm rồi cùng Việt tiến lại gần.
Chúng chợt nom thấy một bà già người Thượng ngồì trên một tảng đá, tay cầm chiếc gậy. Mụ có một chiếc mũi quặm và bộ tóc dơ dáy buông lòa xòa xuống đôi mắt nhìn hau háu.
Việt lên tiếng rất lễ phép:
- Thưa bà, bà có thể…
Nom thấy chúng, mụ chăn dê vội đứng phắt dậy, quát lên một tiếng rồi giơ chiếc gậy lên hăm dọa chúng.
- Bà đừng sợ – Hằng nói – Chúng cháu bị lạc đường và…
Mụ già không hiểu tiếng Kinh. Mụ lại quát lên và tiến thêm một bước gần lũ trẻ.
Chúng chỉ kịp lùi lại để tránh một ngọn gậy mà mụ vụt xuống.
- Mụ này ác quá – bé Tâm lẩm bẩm – Chị Hằng ơi! Chắc là mụ phù thủy! Chạy đi, em sợ lắm!
Hằng đang muốn chạy. Nhưng Việt lấy lại can đảm, cố gắng thuyết phục bà già.
- Bà cho bọn cháu biết bờ hồ ở phía nào. Phía này hay phía kia? – Nó vừa nói vừa giơ tay chỉ.
Mụ ta có vẻ sợ sệt hơn, kêu lên vài tiếng và biến mất sau những bụi cây.
Đàn dê chạy theo mụ, trong khi ba đứa trẻ nhìn nhau với vẻ chán nản.
- Ta thử đi theo mụ xem sao – Việt đề nghị – Chắc mụ ta phải đi về một buôn hay một trại gần đây. Tới đó sẽ có người cho ta hỏi thăm.
- Anh nói phải lắm – Hằng đáp.
Nhưng bé Tâm níu lấy áo chị nó kêu lên:
- Em không muốn đi! Đó là mụ phù thủy! Mụ sẽ cho mình biến thành dê hết, hoặc mụ ta nhốt mình vào một hang đá rồi mình không thoát ra được! Chị Hằng ơi, em van chị!
Hằng do dự. Việt cầm tay bé Tâm nói với giọng cả quyết :
- Bé Tâm, ta phải đi theo. Em đã nghe thấy đó: Chúng ta bị lạc rồi. Em muốn ngủ đêm ở rừng này hay sao ?
Bé Tâm thôi khóc nhưng nó run rẩy cả chân tay.
Đi được mấy bước, chúng đã thấy mất hút lối đi của mụ chăn dê. Chúng đi một lúc nữa nhưng chẳng nhận ra dấu vết gì nữa .
Việt thất vọng nói :
- Em Hằng, chúng mình có đi nữa cũng vô ích. Tốt hơn hết ta nên tìm một nơi kín gió để bé Tâm ngủ.
Hằng nghẹn ngào hỏi :
- Nhưng còn ba má?
Việt lắc đầu buồn bã. Nó thấy bỏ cuộc là điều rất khổ tâm. Nhưng chẳng còn cách nào khác.
Nhìn quanh, chúng thấy một rặng thông có vẻ kín gió, chúng bèn đi tới và ngạc nhiên thấy một cái lều nấp dưới bóng cây. Lều bỏ trống, cửa để ngỏ, sàn có trải rơm.
- Ở đây chắc bé Tâm khỏi rét – Việt nói – ta ngồi xuống đây rồi lấy đồ còn lại ra ăn, sau đó ráng ngủ tới sáng mai.
Chúng thấy vừa mệt vừa đói. Chỉ còn vài chiếc bánh. Việt khuyên nên nhai thật lâu để có cảm tưởng rằng được ăn nhiều. Nó đã đọc thấy những nhà thám hiểm bị lưu lạc ở giữa bãi sa mạc thường đánh lừa cái dạ dày bằng cách nhai những hạt chà là.
Chúng còn hai trái cam, Việt và Hằng chia nhau một trái, còn một trái đưa cho bé Tâm.
- Em không lấy đâu! – Thằng nhỏ cố cãi – Anh chị cũng khát như em chứ… như vậy là không công bằng.
Đứng tụm lại với nhau ngoài cửa lều, chúng nhìn bóng tối dâng lên chung quanh như một bức tường. Hai đứa lớn không dám nói lên một ý nghĩ hiện giờ át hết các ý nghĩ khác :
“Ba má chúng… bao giờ thì chúng gặp lại ba má chúng?”
Bé Tâm vừa thiu thiu ngủ, nằm ngả người vào chị Hằng gọi :
- Má ơi, má! Má đâu rồi?
Thật là quá sức chịu đựng: Con Hằng thấy nước mắt nó sắp trào ra. Còn thằng Việt thì nắm chặt hai tay lại để khỏi bật khóc.
Giọng nó nghẹn ngào :
- Mai em sẽ có má, bé Tâm à! Anh hứa với em…
- Mai em ạ! – Hằng nhắc lại với vẻ bán tín bán nghi.
May thay bé Tâm đã ngủ say rồi; sự mệt nhọc đã thắng nổi lo âu của nó.
- Hằng đặt bé Tâm xuống rơm đi – Việt nói – Rồi em cũng nằm xuống mà ngủ. Bây giờ để anh thức trước, rồi lát nữa em sẽ thay phiên.
- Không, anh để em thức trước cho. Anh thường ngủ nhiều hơn em. Vả lại, em nhớ ba má quá nên không thể nhắm mắt được.
- Em muốn thế cũng được. Nhưng khi nào em buồn ngủ thì phải đánh thức anh dậy nhé. Hứa chứ ?
- Em hứa.
Việt nằm xuống cạnh bé Tâm, nó mệt quá nên vừa đặt mình xuống là ngủ ngay.
Hằng ra cửa lều ngồi. Khi còn một mình, hai giòng lệ nó tuôn ra như mưa. Nó tưởng tượng ra ba má ở nơi cắm trại đang lo lắng. Nó rất hối hận vì ý kiến của nó đi tới Cầu Mây mà xảy ra nông nổi này.
- Má ơi, má tha lỗi cho con!
Rồi sự đau khổ của nó cũng nguôi dần dần. Nhưng bỗng nhiên nó thấy hoảng sợ. Bóng đêm tối mịt mùng hình như che giấu những sự khủng khiếp. Vùng này không có thú dữ, đã đành, nhưng nó sực nghĩ đến Y-Blơm. Nếu tên tướng cướp hiện ra, chĩa súng vào nó, thì nó sẽ phải đối phó ra sao?
Nỗi sợ sệt làm nó tỉnh ngủ. Nhưng rồi vì quá mệt mỏi, nó tựa vào cửa thiếp đi.
Lối một giờ sau, nó giựt mình thức giấc. Nó thấy có ánh sáng bao bọc chung quanh, một ánh sáng xanh xanh êm dịu. Nó chưa hiểu đó là ánh trăng mới lên và nó tưởng tượng rằng ánh sáng đó là của một bà tiên mang tới
Nhưng sự thực chẳng có bà tiên nào cà, vì đàng xa nó nom thấy một bọn người lố nhố mới xuất hir65n và tiến đến căn lều.
Thoạt tiên, nó thấy mừng thầm trong bụng, vì nó nghĩ bọn người này có thể chỉ đường cho chúng! Nhưng nó lại vừa nhận ra mụ chăn dê dẫn đầu và chỉ huy bọn kia bằng chiếc gậy cầm trong tay.
Con nhỏ bỗng thốt ra một tiếng kêu. Không thể lầm được nữa: bọn người này có ác ý đây! Thấy con nhỏ cử động, bọn người dừng lại, nụ già bèn cầm gậy chĩa về phía lều như dọa dẫm, còn những người khác thì do dự, có vẻ vừa tức giận vừa sợ sệt.
Hằng đứng đờ người ra, sự kinh hãi làm máu nó như ngưng chảy. “Bé Tâm” nó nghĩ thầm, chúng sẽ giết bé Tâm!
Bỗng có tiếng thì thầm bên tai nó :
- Em đừng sợ, có anh ở đây. Họ muốn tấn công mình hay sao? – Việt hỏi nho nhỏ.
- Có lẽ anh ạ. Sao họ lại ác cảm với bọn mình như thế?
- Em vào tạm trong lều đi, để anh ra nói chuyện với họ.
- Không, em ở đây với anh.
- Nếu họ tấn công, chúng ta sẽ chống cự. Đưa cho anh chiếc gậy ở cạnh cửa đó.
Hằng nhặt gậy đưa cho anh. Việt tiến lên một bước, bọn người kia vội lùi lại.
Nhưng sau một lát do dự, bọn họ lại tỏ vẻ hung hăng. Mụ chăn dê hét lên một tiếng và tiến lên, bọn người kia tiến theo. Việt bèn đẩy Hằng về phía sau, rồi đứng chận ngay lối cửa ra vào lều, sẵn sàng nghênh chiến.
Mụ già có vẻ bạo dạn hơn bọn kia, mụ vừa tiến vừa giơ gậy lên phía trước. Đợi cho mụ gần tới, Việt liền vung gậy gạt mạnh một cái, chiếc gậy của mụ bị văng xuống đất. Mụ vội nhặt lên, rồi hai bên lại đứng thế thủ.
Những vòng người mỗi lúc một thu hẹp lại chung quanh ba đứa trẻ. Làm cách nào để ngăn họ khỏi xông vào lều?
- Lạy trời che chở cho chúng con! – Hằng lẩm bẩm.
Lời cầu khẩn của nó hình như đã được trời nghe thấy! Một giọng nói oang oang từ trong rừng vọng ra. Mụ chăn dê và đồng bọn nhớn nhác quay lại. Ngay lúc đó, một người đàn ông cao lớn hùng dũng từ trong rừng xông ra, trông như một vị thiên thần.
Hoạt cảnh thay đổi một cách kỳ lạ. Bọn người kia không dám xông vào lều nữa, mà họ líu ríu tiến đến chỗ người lạ với dáng điệu khúm núm sợ sệt.
Việt và Hằng mở to đôi mắt để hiểu lý do của sự thay đổi lạ lùng đó.
Người lạ giơ tay ngoắc bọn kia lại gần rồi dùng tiếng Thượng nói với họ, hình như để la rầy sự bạo hành mấy đứa trẻ trong lều.
Rồi chàng giơ tay ra hiệu cho bọn người rút lui.
- Chúng ta nghỉ đi, anh chị ơi! Em đi hết nổi rồi! Còn xa nữa không hả?
Đây là lần thứ ba nó hỏi câu đó. Nhưng Việt chẳng biết trả lời làm sao vì chúng nó bị lạc hẳn rồi. Từ trưa tới giờ, ba đứa cứ đi liều lĩnh cầu may theo hướng mặt trời.
Bé Tâm có lẽ cảm thấy nỗi lo âu của anh nó, vì nó hỏi thêm:
- Anh chắc biết lối đấy chứ, anh Việt?
Việt không muốn nói dối. Nhưng nếu nó nói thật thì bé Tâm có đủ can đảm tiếp tục đi nữa hay không? Nó mỏi mệt rồi, chân nó bị phồng lên.
Việt bảo em:
- Ta hãy dừng lại một lát, em ngồi nghỉ đi. Ăn cái bánh nhé.
- Thế còn anh chị?
Việt liếc nhìn Hằng đáp:
- Hằng và anh chưa đói đâu, em cứ ăn trước đi.
Trong khi bé Tâm ăn bánh, hai đứa lớn xích lại gần nhau thì thầm:
- Mặt trời đã xuống thấp rồi đó – Hằng nói.
- Tuy nhiên, có lẽ chưa quá 4 giờ đâu.
- Em cảm thấy như chúng ta đã đi bộ cả một thế kỷ rồi.
Một lát sau chúng lại lên đường. Hằng phải lôi tay bé Tâm. Bỗng nhiên, Việt chỉ cho hai em thấy phần dưới các cây đã bị mất hết lá.
- Sao thế này? – Nó lẩm bẩm – Hình như lá cây đã bị thú vật ăn hết thì phải .
- Hay là chó sói? – Bé Tâm vừa nói vừa nắm chặt tay Hằng.
- Ở đây làm gì có chó sói, vả lại chó sói có ăn lá cây bao giờ? Có lẽ là… phải rồi, những con dê đây mà! Kìa, trông vết tích của chúng!
Trên mặt đất, người ta thấy rải rác những viên nho nhỏ đen đen mà những con dê để lại khi chúng đi qua. Hằng nói :
- Vậy thì sắp có sữa uống cũng nên? May quá! Em đang khát khô cả cổ!
- Có dê tất nhiên phải có người chăn – Việt đáp – Họ sẽ chỉ đường cho bọn ta và chắc cũng có một cái buôn gần đâu đây mà ta có thể ngủ nhờ qua đêm.
Bé Tâm lo lắng hỏi :
- Thế ta không đi tới chỗ ba má à?
- Có chứ – Hằng đáp – Tuy nhiên, có thể ta chưa tới kịp tối nay mà thôi.
Rồi chúng tiếp tục lần theo dấu vết của đàn dê.
Bỗng nhiên Hằng dừng bước:
- Anh Việt! Hình như có tiếng động.
Chúng bèn lắng tai nghe.
- Đúng là người chăn dê rồi – Hằng kêu lên với vẻ sung sướng – Ta phải mau mau tới đó mà hỏi thăm.
Tiếng nói bây giờ nghe rõ hơn và là tiếng một bà già, hình như đang giận dữ.
Hằng cầm lấy tay bé Tầm rồi cùng Việt tiến lại gần.
Chúng chợt nom thấy một bà già người Thượng ngồì trên một tảng đá, tay cầm chiếc gậy. Mụ có một chiếc mũi quặm và bộ tóc dơ dáy buông lòa xòa xuống đôi mắt nhìn hau háu.
Việt lên tiếng rất lễ phép:
- Thưa bà, bà có thể…
Nom thấy chúng, mụ chăn dê vội đứng phắt dậy, quát lên một tiếng rồi giơ chiếc gậy lên hăm dọa chúng.
- Bà đừng sợ – Hằng nói – Chúng cháu bị lạc đường và…
Mụ già không hiểu tiếng Kinh. Mụ lại quát lên và tiến thêm một bước gần lũ trẻ.
Chúng chỉ kịp lùi lại để tránh một ngọn gậy mà mụ vụt xuống.
- Mụ này ác quá – bé Tâm lẩm bẩm – Chị Hằng ơi! Chắc là mụ phù thủy! Chạy đi, em sợ lắm!
Hằng đang muốn chạy. Nhưng Việt lấy lại can đảm, cố gắng thuyết phục bà già.
- Bà cho bọn cháu biết bờ hồ ở phía nào. Phía này hay phía kia? – Nó vừa nói vừa giơ tay chỉ.
Mụ ta có vẻ sợ sệt hơn, kêu lên vài tiếng và biến mất sau những bụi cây.
Đàn dê chạy theo mụ, trong khi ba đứa trẻ nhìn nhau với vẻ chán nản.
- Ta thử đi theo mụ xem sao – Việt đề nghị – Chắc mụ ta phải đi về một buôn hay một trại gần đây. Tới đó sẽ có người cho ta hỏi thăm.
- Anh nói phải lắm – Hằng đáp.
Nhưng bé Tâm níu lấy áo chị nó kêu lên:
- Em không muốn đi! Đó là mụ phù thủy! Mụ sẽ cho mình biến thành dê hết, hoặc mụ ta nhốt mình vào một hang đá rồi mình không thoát ra được! Chị Hằng ơi, em van chị!
Hằng do dự. Việt cầm tay bé Tâm nói với giọng cả quyết :
- Bé Tâm, ta phải đi theo. Em đã nghe thấy đó: Chúng ta bị lạc rồi. Em muốn ngủ đêm ở rừng này hay sao ?
Bé Tâm thôi khóc nhưng nó run rẩy cả chân tay.
Đi được mấy bước, chúng đã thấy mất hút lối đi của mụ chăn dê. Chúng đi một lúc nữa nhưng chẳng nhận ra dấu vết gì nữa .
Việt thất vọng nói :
- Em Hằng, chúng mình có đi nữa cũng vô ích. Tốt hơn hết ta nên tìm một nơi kín gió để bé Tâm ngủ.
Hằng nghẹn ngào hỏi :
- Nhưng còn ba má?
Việt lắc đầu buồn bã. Nó thấy bỏ cuộc là điều rất khổ tâm. Nhưng chẳng còn cách nào khác.
Nhìn quanh, chúng thấy một rặng thông có vẻ kín gió, chúng bèn đi tới và ngạc nhiên thấy một cái lều nấp dưới bóng cây. Lều bỏ trống, cửa để ngỏ, sàn có trải rơm.
- Ở đây chắc bé Tâm khỏi rét – Việt nói – ta ngồi xuống đây rồi lấy đồ còn lại ra ăn, sau đó ráng ngủ tới sáng mai.
Chúng thấy vừa mệt vừa đói. Chỉ còn vài chiếc bánh. Việt khuyên nên nhai thật lâu để có cảm tưởng rằng được ăn nhiều. Nó đã đọc thấy những nhà thám hiểm bị lưu lạc ở giữa bãi sa mạc thường đánh lừa cái dạ dày bằng cách nhai những hạt chà là.
Chúng còn hai trái cam, Việt và Hằng chia nhau một trái, còn một trái đưa cho bé Tâm.
- Em không lấy đâu! – Thằng nhỏ cố cãi – Anh chị cũng khát như em chứ… như vậy là không công bằng.
Đứng tụm lại với nhau ngoài cửa lều, chúng nhìn bóng tối dâng lên chung quanh như một bức tường. Hai đứa lớn không dám nói lên một ý nghĩ hiện giờ át hết các ý nghĩ khác :
“Ba má chúng… bao giờ thì chúng gặp lại ba má chúng?”
Bé Tâm vừa thiu thiu ngủ, nằm ngả người vào chị Hằng gọi :
- Má ơi, má! Má đâu rồi?
Thật là quá sức chịu đựng: Con Hằng thấy nước mắt nó sắp trào ra. Còn thằng Việt thì nắm chặt hai tay lại để khỏi bật khóc.
Giọng nó nghẹn ngào :
- Mai em sẽ có má, bé Tâm à! Anh hứa với em…
- Mai em ạ! – Hằng nhắc lại với vẻ bán tín bán nghi.
May thay bé Tâm đã ngủ say rồi; sự mệt nhọc đã thắng nổi lo âu của nó.
- Hằng đặt bé Tâm xuống rơm đi – Việt nói – Rồi em cũng nằm xuống mà ngủ. Bây giờ để anh thức trước, rồi lát nữa em sẽ thay phiên.
- Không, anh để em thức trước cho. Anh thường ngủ nhiều hơn em. Vả lại, em nhớ ba má quá nên không thể nhắm mắt được.
- Em muốn thế cũng được. Nhưng khi nào em buồn ngủ thì phải đánh thức anh dậy nhé. Hứa chứ ?
- Em hứa.
Việt nằm xuống cạnh bé Tâm, nó mệt quá nên vừa đặt mình xuống là ngủ ngay.
Hằng ra cửa lều ngồi. Khi còn một mình, hai giòng lệ nó tuôn ra như mưa. Nó tưởng tượng ra ba má ở nơi cắm trại đang lo lắng. Nó rất hối hận vì ý kiến của nó đi tới Cầu Mây mà xảy ra nông nổi này.
- Má ơi, má tha lỗi cho con!
Rồi sự đau khổ của nó cũng nguôi dần dần. Nhưng bỗng nhiên nó thấy hoảng sợ. Bóng đêm tối mịt mùng hình như che giấu những sự khủng khiếp. Vùng này không có thú dữ, đã đành, nhưng nó sực nghĩ đến Y-Blơm. Nếu tên tướng cướp hiện ra, chĩa súng vào nó, thì nó sẽ phải đối phó ra sao?
Nỗi sợ sệt làm nó tỉnh ngủ. Nhưng rồi vì quá mệt mỏi, nó tựa vào cửa thiếp đi.
Lối một giờ sau, nó giựt mình thức giấc. Nó thấy có ánh sáng bao bọc chung quanh, một ánh sáng xanh xanh êm dịu. Nó chưa hiểu đó là ánh trăng mới lên và nó tưởng tượng rằng ánh sáng đó là của một bà tiên mang tới
Nhưng sự thực chẳng có bà tiên nào cà, vì đàng xa nó nom thấy một bọn người lố nhố mới xuất hir65n và tiến đến căn lều.
Thoạt tiên, nó thấy mừng thầm trong bụng, vì nó nghĩ bọn người này có thể chỉ đường cho chúng! Nhưng nó lại vừa nhận ra mụ chăn dê dẫn đầu và chỉ huy bọn kia bằng chiếc gậy cầm trong tay.
Con nhỏ bỗng thốt ra một tiếng kêu. Không thể lầm được nữa: bọn người này có ác ý đây! Thấy con nhỏ cử động, bọn người dừng lại, nụ già bèn cầm gậy chĩa về phía lều như dọa dẫm, còn những người khác thì do dự, có vẻ vừa tức giận vừa sợ sệt.
Hằng đứng đờ người ra, sự kinh hãi làm máu nó như ngưng chảy. “Bé Tâm” nó nghĩ thầm, chúng sẽ giết bé Tâm!
Bỗng có tiếng thì thầm bên tai nó :
- Em đừng sợ, có anh ở đây. Họ muốn tấn công mình hay sao? – Việt hỏi nho nhỏ.
- Có lẽ anh ạ. Sao họ lại ác cảm với bọn mình như thế?
- Em vào tạm trong lều đi, để anh ra nói chuyện với họ.
- Không, em ở đây với anh.
- Nếu họ tấn công, chúng ta sẽ chống cự. Đưa cho anh chiếc gậy ở cạnh cửa đó.
Hằng nhặt gậy đưa cho anh. Việt tiến lên một bước, bọn người kia vội lùi lại.
Nhưng sau một lát do dự, bọn họ lại tỏ vẻ hung hăng. Mụ chăn dê hét lên một tiếng và tiến lên, bọn người kia tiến theo. Việt bèn đẩy Hằng về phía sau, rồi đứng chận ngay lối cửa ra vào lều, sẵn sàng nghênh chiến.
Mụ già có vẻ bạo dạn hơn bọn kia, mụ vừa tiến vừa giơ gậy lên phía trước. Đợi cho mụ gần tới, Việt liền vung gậy gạt mạnh một cái, chiếc gậy của mụ bị văng xuống đất. Mụ vội nhặt lên, rồi hai bên lại đứng thế thủ.
Những vòng người mỗi lúc một thu hẹp lại chung quanh ba đứa trẻ. Làm cách nào để ngăn họ khỏi xông vào lều?
- Lạy trời che chở cho chúng con! – Hằng lẩm bẩm.
Lời cầu khẩn của nó hình như đã được trời nghe thấy! Một giọng nói oang oang từ trong rừng vọng ra. Mụ chăn dê và đồng bọn nhớn nhác quay lại. Ngay lúc đó, một người đàn ông cao lớn hùng dũng từ trong rừng xông ra, trông như một vị thiên thần.
Hoạt cảnh thay đổi một cách kỳ lạ. Bọn người kia không dám xông vào lều nữa, mà họ líu ríu tiến đến chỗ người lạ với dáng điệu khúm núm sợ sệt.
Việt và Hằng mở to đôi mắt để hiểu lý do của sự thay đổi lạ lùng đó.
Người lạ giơ tay ngoắc bọn kia lại gần rồi dùng tiếng Thượng nói với họ, hình như để la rầy sự bạo hành mấy đứa trẻ trong lều.
Rồi chàng giơ tay ra hiệu cho bọn người rút lui.
______________________________________________________________________