CHƯƠNG MỘT
Tiếng
hú kéo dài rền rĩ, rồi biến thành một tiếng rống ghê rợn bao trùm những
dãy nhà sàn cheo leo ngủ yên ở trên sườn núi Ca-Tha.
Ông
chúa làng Bu-Then chống tay run rẩy ngồi dậy, chong tai ngồi nghe giữa
khoảng tối dày. Từ khi bắt đầu bập bẹ những tiếng đầu tiên cho đến bây
giờ, mái tóc bạc phau và lưng còng lại như cây gáo già ở trước cổng buôn, ông chưa bao giờ nghe một tiếng hú lạ lùng như thế.
Cố gắng chống lại một cơn cảm sốt làm ông rũ liệt đã nhiều ngày rồi, ông choàng tấm "dồ" lên mình, sờ soạng bước ra đầu nhà.
Tiếng
hú vẫn cứ vang dài như chạy lông lốc trên đầu các ngọn cây cao, rồi tỏa
tứ bề, lẫn lộn những lời khóc than kể lể và khi dịu lại nghe như tiếng
rên của một người sắp xuống mồ. Ông Bu-Then quờ quạng bám tay vào tấm
phên che, chỗ lối xuống lên, ngồi nhẹ xuống sàn như sợ ngôi nhà sụp đổ,
giương đôi mắt đã đục lờ, hõm sâu, thảng thốt nhìn về một hướng núi xa.
Có
lẽ tiếng hú xuất phát từ đỉnh Chà Hóc cao nghệu, hoang vu, dân làng
chưa ai bén mảng đến đấy bao giờ. Những câu chuyện về ma quỉ, về thần
núi do lão phù thủy Sa-Keo kể lể khiến họ sợ hãi, chỉ đứng xa nhìn đỉnh
núi như ngắm nhìn con quái vật linh thiêng.
Gió
khuya ướt đẫm mùi sương khua động rạt rào cây lá, bốc thổi từng luồng
lạnh ngắt, khiến ông chúa làng co rút mình lại, kéo tấm "dồ" lên phủ kín
đôi vai. Mặt trăng đã chìm sau núi, chỉ còn le lói đôi vệt sáng mờ sau
rặng cây xa, đẩy vùng bóng tối đen dày của ngọn Ca-Tha phủ kín lấy buôn Nước Ràng.
Ông
Bu-Then nhướng mắt nhìn quanh, không một bóng người thấp thoáng, không
tiếng động nào vang lên giữa cảnh âm thầm. Dân làng có lẽ bị chôn vùi
trong giấc ngủ nặng nề sau ngày làm việc nhọc mệt trong rẫy, trên nương,
hoặc đang co rúm trên các sàn nhà, nín thở lắng nghe tiếng hú kỳ quái
bất thần nổi dậy giữa đêm lạnh lẽo tối tăm.
Ông
chúa làng nhớ mấy ngày trước đây, khói đen bốc tỏa mờ mịt về phía Chà
Hóc như báo một điềm chẳng lành. Tai họa sẽ giáng xuống dân Nước Ràng
hay sao? Ông thấy xúc động nghẹn ngào và buông một tiếng thở dài.
Tiếng
hú, sau hồi thét vang rùng rợn, bỗng như khàn hơi ngừng bặt. Cả vùng
núi rừng bao la chìm đắm trong sự câm lặng nặng nề. Tất cả sinh hoạt về
đêm thường khi cựa quậy rộn ràng, bây giờ nén lại trong sự chờ đợi hồi
hộp. Ông chúa làng nghe rõ tim đập dồn dập trong lồng ngực mình. Lâu lắm
ông mới nhận được từ xa tiếng suối Nậm Nui rì rầm luồn qua khe đá. Và
chim cheo-meo chiêm chiếp thảm thiết ở trong bụi rậm sau buôn.
Khi
ông lấy lại được sự bình tĩnh, chống tay lom khom đứng dậy thì tiếng hú
lại bắt đầu vang lên. Đó là những tiếng gào khan như thoát ra từ cổ
họng của một con người to lớn dị thường, và con người ấy tưởng có thể
nuốt dễ dàng được cả cây rừng, đá núi. Rồi tiếng gào ấy chuyển sang
tiếng thét dữ dội như muốn phá tung lòng núi thẳm sâu để trút hết nỗi
căm hờn chất chứa đời đời kiếp kiếp. Lúc tiếng thét đã dịu lại, trở
thành tiếng hú, máu trong người ông Bu-Then như ngừng chảy hẳn. Ông ngã
khuỵu xuống sàn nhà, tê lạnh người đi vì nỗi hãi hùng. Tiếng hú thê thảm
quái gở như tụ hội hết hồn ma, vía quỉ lạc loài trong chốn rừng hoang.
Tiếng hú ghê rợn độc ác như cào cấu trên da thịt con người, xuyên thủng
màng tai, xoắn lấy não tủy.
Như cây gáo già sống trước cổng buôn
gặp cơn bão rừng thổi mẹp vẫn luôn cố gắng chống lại mưa gió phũ phàng,
ông đã từng đem sinh lực cường tráng giúp cho dân làng xua rạt bao loài
thú dữ để rời lũng sâu ẩm thấp mà về bám trên sườn núi Ca-Tha đất rẫy
phì nhiêu. Khi sinh lực ấy mỏi mòn, ông đã đem sự khôn ngoan của kẻ trải
nhiều bất trắc gian lao giúp cho dân làng trồng trọt, dạy cho dân làng
thuận hòa, biết thương rẫy lúa, nương ngô, suối nước, cây rừng. Bây giờ
chúa làng Bu-Then lại để tiếng hú ma quái xô ngã như cành củi mục hay
sao? Chúa làng Bu-Then để mặc cho bao nhiêu người run rẩy trong cơn
khiếp đảm hãi hùng hay sao?
Ông
già Bu-Then loạng choạng đứng lên, cố chống lại sự hoảng hốt xáo trộn
lòng mình. Bám chặt bàn tay gầy gò vào khung cửa liếp, ông lần mò leo
xuống chiếc thang gỗ làm bằng thân cây cốc rừng được đẽo hõm vào nhiều
nấc để đặt bàn chân. Gió núi thổi tạt từng luồng lạnh buốt, bật tung tấm
"dồ" khỏi cái thân hình xương xẩu, muốn kéo ngã ông xuống dưới sân buôn.
Ông đi sờ soạng, nghe chân tê nhức ở trên nền đất khô cằn. Trăng đã
chìm hẳn, chút sáng nhợt nhạt trên vùng cây xa cũng tắt từ lâu.
Ông già Bu-Then tìm về cuối buôn, chỗ nhà phù thủy Sa-Keo. Phải đi hỏi lão, vì chỉ có lão là biết ý định của loài ma quỉ.
Lên
đến nấc cuối của cây thang gỗ, ông chúa làng thấy qua tấm liếp che
trống trải, Sa-Keo đang ngồi im lặng trước một bếp lửa đã tàn, chỉ còn
âm ỉ một ít than hồng đỏ rực. Đầu lão to lớn quấn vành khăn rộng xồ xề,
trông như một chiếc cối giã lắc lư nhè nhẹ, trong khi hai cánh tay dài
loeo ngoeo quấn chặt lấy cặp đầu gối xương xẩu nhô lên đụng tới chân
cằm.
Ông
già đưa tay đẩy mạnh tấm liếp. Sa-Keo như chợt bừng tỉnh, mở rộng đôi
mắt ốc nhồi thao láo nhìn về phía cửa, cất giọng khàn khàn:
- Ai đó?
Ông già đáp lại như trong hơi thở:
- Ta đây... Bu-Then.
- A, ông chúa làng. Khuya lắm rồi mà.
Ông Bu-Then lại gần bếp lửa, ngồi xuống, hơ tay lên chút ánh sáng hoi hóp:
- Này, Sa-Keo, tiếng hú gì thế?
Lão
phù thủy giương mắt nhìn chăm chắm vào khoảng tối dày sâu thẳm ở ngoài
cửa liếp, không trả lời lại. Tiếng hú chừng như cũng vừa đánh thức lão
dậy, và lão bó gối ngồi chong bên bếp lửa tàn, lắng nghe vọng về một thứ
âm thanh kỳ lạ chưa từng nghe thấy trong đời.
Tiếng
hú còn đó, át hẳn mọi tiếng xao động của chốn rừng già, tiếp tục gieo
rắc kinh hoàng, gợi lên bao nhiêu hình ảnh chết chóc.
Ông Bu-Then hỏi lại:
- Tiếng hú gì thế, Sa-Keo?
Lão phù thủy gỡ tay khỏi đầu gối, vuốt mặt chầm chậm rồi nghiêng lại gần tai ông chúa làng, nói nhỏ:
- Chắc là tiếng của ma quỉ.
- Xưa nay chưa nghe nó mà.
- Chưa ai nghe cả, ông Bu-Then à. Nó từ hang sâu thăm thẳm trồi lên, nó từ rừng hoang lạc loài chạy tới, đói khát tìm mồi.
- Dân làng ta sống nổi không? Dân làng ta có khổ sở đấy không, Sa-Keo?
Sa-Keo im lặng, nheo mắt nhìn vào vùng tối trước mặt. Giây lâu lão mới cất giọng khàn khàn đáp lại một cách chậm chạp:
-
Ma quỉ muốn gì, chưa biết rõ cái bụng nghĩ của nó được đâu. Chờ một đêm
nay đã mà. Nó kêu mệt nhọc rồi nò nằm nghỉ. Ngày mai Sa-Keo tìm hỏi cây
rừng, núi đá, tìm hỏi hồn ma, vía quỉ lang thang...
Lão dừng lại, nhìn vào mặt ông chúa làng chăm chắm, rồi tiếp:
- Giao ngựa của ông Bu-Then cho Sa-Keo dùng.
Ông chúa làng im lặng gật đầu. Rồi lão phù thủy khoanh tay bó gối, cặp mắt riu ríu dần lại và đầu lắc lư.
Ông già Bu-Then cũng ngồi yên lặng một lát bên vùng ánh sáng hắt heo của bếp lửa tàn. Rồi ông chệnh choạng đứng dậy:
- Về đây, Sa Keo.
Lão phù thủy vẫn im lặng.
Ông
già lần mò tiến ra phía cửa. Gió hắt từng luồng lạnh buốt. Tiếng hú dịu
dần, bây giờ kéo dài thành lời than vãn xen lẫn tiếng khóc, tiếng rên
buồn thảm lạ lùng.
Ông chúa làng cũng buồn lòng hết sức. Đã lâu, dân buôn không còn mấy ai tin cậy ở lão Sa Keo. Khỏe mạnh mà lười biếng, lão chẳng chịu làm khổ nhọc như là dân buôn. Thèm uống nhiều rượu, thèm ăn nhiều thịt, tính tình nóng giận bất thường, lão sống cô độc trong ngôi nhà sàn cuối buôn.
Thỉnh thoảng có những con bệnh không thể chữa lành bằng các lá rừng,
thì lão được thỉnh cậy đến xua đuổi tà ma ám ảnh. Nhưng chẳng mấy khi
con bệnh được khỏi, và lão Sa Keo cho rằng ma quỉ muốn đưa họ về một cõi
đời khác tốt hơn, no hơn, khỏi làm mệt nhọc mà cũng có ăn, có uống hàng
ngày. Ở cõi đời ấy, có sẵn nhiều rượu, nhiều thịt, nhiều lắm lắm đó.
Đừng có buồn mà. Lão nói như vậy, nhưng những bà con của kẻ qua đời vẫn
khóc như mưa như gió.
Ban ngày, Sa Keo lẩn quẩn trong rừng, trong núi, hái lá, đào củ hoặc lặn lội xuống các buôn
phía dưới đổi chác vật dụng, đến mùa tỉa lúa, trồng bắp mới thấy có mặt
trên nương, trên rẫy vài hôm. Nghĩ rằng lão tiếp xúc được với loài ma
quỉ nên có những lối đi lại, nói năng kỳ dị, dân làng vẫn sợ hãi lão,
cho lão thức ăn, thức uống hàng ngày, nhưng không ai dám gần gũi.
Thế
mà bây giờ chúa làng Bu Then phải đến hỏi lão, và khi chào lão ra về,
lão không thèm nói một lời. Trước cái tiếng hú ma quái, ông già Bu Then
cảm thấy chừng như uy quyền của mình đã bị Sa Keo lấn át mất rồi.
Ông lọ thọ đi từng bước, nghĩ đến số phận ngày mai của dân buôn,
xót thương cho họ. Chúa làng Bu Then già rồi, chết đi cũng chẳng làm
sao. Nhưng còn biết bao con trai, con gái tốt tươi, khỏe mạnh như khóm
là ngà ven suối, biết bao trẻ con xinh đẹp như những hoa rừng, dễ
thương như những lộc non vừa hé sau mùa mưa lạnh vừa tàn. Chúng nó không
thể bị hủy diệt đi lúc còn sức trẻ. Chúng phải được sống, được lớn cao
lên rồi được già đi sau khi sinh sôi nảy nở ra nhiều lớp khác khỏe mạnh
và tốt tươi hơn, cho người Mơ-Nông mãi mãi vẫn còn xanh thắm như những
cây rừng.
Ông
già Bu Then nghe lòng xúc động, bước đi chậm lại, vội đưa cánh tay
khẳng khiu, buốt lạnh lau dòng nước mắt lăn dài xuống đôi má hõm khô
gầy.
Khi
đi ngang nhà Xiu Bân, ông thấy một cái bóng đen ngồi ở đầu hè. Đây đó
những bóng đen khác hiện lên trên khoảng sàn nhà trống trải nhô ra nơi
bậc thang lên. Rồi những nhà khác, những bóng đen khác âm thầm xuất
hiện. Ông già dừng lại. Dân làng cũng thao thức như ông, cũng đang lo sợ
như ông khi nghe tiếng hú lạ lùng.
Ông
thấy nhiều bóng đen xuống thang gỗ, lần lượt, lặng lẽ vây quanh lấy
ông. Giữa vùng tối lạnh mênh mông chỉ được soi sáng từ xa bởi đôi vì sao
le lói, ông Bu Then thấy rõ mình vẫn còn là một chỗ dựa cho dân Nước
Ràng. Nỗi lo sợ ở nơi ông được xua tan đi, và ông chúa làng tiếp được
những hơi thở ấm của dân làng mình. Ông nói gần như thì thầm:
- Hãy ngồi xuống đi.
Những
cái bóng đen nhẹ nhàng ngồi xuống, tạo thành vòng tròn vây bọc quanh
ông. Im lặng. Tiếng hú yếu dần, vẳng lại như một tiếng rên mệt nhọc của
kẻ đuối sức. Rồi nó tắt lịm đột ngột, khiến cảnh âm u của chốn rừng đêm
trở thành u uất nặng nề. Giây lâu người ta lại nghe tiếng suối Nậm Nui
rì rầm tuôn qua khe đá. Và chim cheo meo cất những tiếng kêu thảm thiết trong những bụi rậm sau buôn.
Ông già Bu Then ôn tồn bảo với dân làng:
- Ta đã đến nhờ Sa Keo ngày mai tìm hỏi hồn ma, vía quỉ tiếng hú từ đâu mà đến buôn
ta. Không còn sống được ở đây, chúng ta sẽ kéo nhau đi về ngọn núi
khác. Đừng có lo buồn. Chúa làng Bu Then sẽ sống chết với các người. Hãy
nghe lời ta, về nhà nằm ngủ cho yên, đừng có nói chuyện ồn ào, đừng có
khêu cao ngọn lửa. Ngày mai lên rẫy, lên nương, đừng đi một mình. Con
gái mang theo rựa trành, con trai mang theo cung nỏ.
Ông dừng lại, nhìn quanh. Rồi bảo:
- Về đi!
Những cái bóng đen từ từ đứng dậy, âm thầm lặng lẽ tiến qua mấy dãy nhà sàn, dần dần mất hút trong các vũng tối đen dày.
Ông Bu Then lại thấy mình trơ trọi giữa vạt sân buôn, kéo tấm dồ che kín cổ để tránh gió lạnh từ xa thổi đến đã nghe khua động rạt rào.
Ông
đi chậm chạp về nhà. Và cùng với hơi gió ấy, tiếng hú từ xa vẳng lại,
mỗi lúc càng rõ dần hơn như tiếng hốt hoảng kêu gào của loài ma quái
giãy giụa giữa những vòng dây trói chặt.
______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG HAI