CHƯƠNG I
Bên
kia bờ sông, hàng dừa nước còn vương lay lắt ánh
nắng chiều. Tiếng nước đập vào bờ lau lách cũng không che được tiếng cá
quẫy mạnh. Gió lao xao tốc mấy ngọn dừa khô phơi bên hè nhà nghe rào
rạo. Thạnh đứng trên cái cầu ván chênh vênh bắc nửa chừng nhón người
nhìn qua khúc sông gãy. Nơi đó, tí nữa đây sẽ xuất hiện bóng dáng chiếc
ghe nhỏ và thầy Bảy già. Gọi là thầy Bảy già bởi ông Bảy đã già và
chuyên nghề cho thuốc. Thuốc cho thì toàn là lá cây, rễ cây ông tìm hái
được từ nơi đâu. Có lẽ ở mấy khúc rừng khô thấp. Khoảng vài tháng một
lần, ông lại xuôi ghe về chợ mua một ít thuốc cao đơn hoàn tán
ở mấy tiệm Tàu. Dân xóm quanh khúc sông này đều trông mong vào tài cho
thuốc của ông Bảy và ông Quải ở mạn trong. Nhưng từ khi ông Quải mất đi,
ông Bảy giữ độc quyền “cứu nhân độ thế”, nói theo lối nói của ông Bảy.
Thạnh ở với ông Bảy đã hai năm nay. Không phải bà con thân thuộc gì bởi vì Thạnh chỉ là con của một thân chủ của ông Bảy. Một đêm nọ, bà Hai Cơ, mẹ của Thạnh lên cơn đau ngực dữ dội. Thạnh đã bơi qua sông kêu ông Bảy. Ông Bảy chần chờ đợi trời ưng ửng mới dám bơi thuyền, và khi đến nơi thì đã trễ, bà Hai Cơ chỉ còn thoi thóp thở. Trước khi chết, bà chỉ Thạnh nói gì không rõ. Nhưng ông Bảy lại hối hận về việc đã chần chừ. Ông cho rằng mình phải chịu trách nhiệm về cái chết của má Thạnh. Do đó, ông gật đầu nhận nuôi Thạnh đến khi lớn.
Ông Bảy không có con cái gì. Ông muốn truyền nghề thuốc lại cho Thạnh. Ông thường kêu nó khuyên nhủ mặc dù nó mới mười ba tuổi đầu.
- Thạnh à, nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Mày theo bác làm nghề thuốc cũng đủ sống sung sướng một đời, lại để dành âm đức cho con cái về sau.
Thạnh nhớ rõ cái gục đầu nhè nhẹ của ông Bảy mỗi khi nói điều đó. Nhưng đối với Thạnh, Thạnh không cảm thấy thương ông Bảy một chút nào. Đôi khi lại ghét nữa là đằng khác. Nó nhớ đến gương mặt ngái ngủ và thản nhiên của ông Bảy vào một đêm tối trời nọ, đêm nó không bao giờ quên, đêm nó đã phải lội qua con sông đen ngòm lạnh buốt để mời ông Bảy chữa bệnh cho mẹ. Gương mặt thản nhiên, cử chỉ chậm rãi chần chừ của ông Bảy khi thu xếp thuốc men vào chiếc bọc nhỏ, hai tay nhẹ nhàng bình tĩnh bơi chèo như một khách nhàn du trước nỗi lo lớn lao của Thạnh. Và Thạnh không bao giờ quên được.
- Thầy Bảy về rồi kìa. Chà, bữa nay Thầy Bảy đi hái thuốc ở đâu mà về trễ vậy?
Người hàng xóm nào đó nói to. Tiếng nói theo chiều gió vẳng đến nghe mồn một. Thạnh giật mình nhìn ra sông. Mái tóc thầy Bảy trắng loáng trên chiếc ghe màu đã xám đen trong trời chiều. Cái lưng còm quen thuộc không thể lẫn vào đâu được, càng lúc càng hiện rõ. Thầy Bảy cười nói với một người nào đầu xa.
- Năm nay, bà con tha hồ có thuốc quý. Tui đi sâu thật sâu. Miệt ngoài hái hết trơn cả rồi. Cái nghề cứu nhân độ thế này phải hy sinh chứ biết làm sao.
Giọng cười Thầy Bảy ròn rã. Thạnh nghe vui vui
- Thằng Thạnh đâu rồi. Ủa mầy đứng đây tự hồi nào vậy? Đỡ giùm tao chút coi.
- Ủa, sao mầy đứng im re vậy hả? Lại đây một chút nữa, chút nữa đỡ lấy cái này nè. Kheo khéo một chút… Coi chừng… Đừng để rớt xuống sông hết… Chà tối quá….
Thầy Bảy nói giòn giã như chưa bao giờ được nói. Thạnh, như thường lệ, đỡ lấy cái bao tải đựng lá cây trên tay thầy Bảy, quay lưng đi vào nhà, trong lúc thầy Bảy lui cui buộc chiếc xuồng vào thân cột chẽ hai làm chân cầu ván.
Thạnh vặn to chiếc đèn dầu đặt ở giữa bàn bằng gỗ tạp. Thầy Bảy ghé mắt nhìn qua mâm cơm đặt ngay ngắn trên bàn.
- Khô còn không Thạnh? Ngày mai nhớ nhắc tao đưa tiền ra chợ mua thêm khô để dành nghe. Mùa mưa sắp tới rồi. Trời nóng nực bực bội quá.
Thầy Bảy cổi chiếc áo bà ba đen đã có mùi vì mồ hôi, bùn, bụi mắc lên vách rồi ngồi vào bàn sau khi cà hai chân để rơi bớt đất. Mâm cơm lạch cạch bát đũa.
- Bới tao một chén cơm coi. Sao mày ít nói như con gái vậy Thạnh? Ngồi đây, ăn cơm rồi dọn. Bữa nay có trăng sớm.
Thạnh xới một bát cơm nóng đưa cho ông Bảy và một cho mình. Bát cơm vừa và lên miệng, nó chợt nhớ nói nhanh:
- Hồi chiều bà Tất có qua mời bác sang xem bịnh cho con bà ấy. Bà nói thằng lớn nóng lạnh hôm qua đến bữa nay mà chưa bớt.
Thầy Bảy chắc lưỡi. Một ít cơm rơi vãi trên mặt ván.
- Con cái nóng lạnh từ ngày hôm qua mà để đến bữa nay mới kêu tao. Cứu bệnh như cứu hỏa. Mầy phải biết vậy. Để lâu, rủi ro con bệnh nó nhập vô tỳ vị là xong đời. Cái gì chớ nóng lạnh mà lại con nít mắc chứng đó thì nguy hiểm lắm. Trước hết phải hạ hỏa…Nhưng tao chắc là thằng nhỏ lên ban lên sởi gì đây. Cứ cữ gió cữ nước, uống vài ve tiêu ban lộ là xong hết. Nhưng cần nhứt là cữ gió trước. Con mẹ Tất chắc chẳng bao giờ biết chuyện đó. Để mai thử xem, chớ ban đêm đi qua sông tao ớn lắm.
Trả lời thầy Bảy là một tràng súng cối từ bên kia sông vọng đến. Thạnh nhìn ra ngoài sân. Trăng đã lên quá ngọn mấy cây cau đầu xa. Mặt nước sông sóng sánh, bàng bạc. Xa tít thật xa, ánh sáng vàng vàng của mấy trái hỏa châu rơi thấp làm lộ cụm mây xám vằn vèo những hình thù không rõ.
- Bác Bảy ơi. Miệt kia có đánh nhau chắc.
Đôi đũa rơi đánh xoạc xuống mâm nghe một tiếng khô gọn.
- Ối, hơi đâu mà nghĩ chuyện đó. Tao cứu sống biết bao nhiêu mạng người rồi. Thì trời đâu nở hại mình. Yên hết, yên hết. Đừng có lo, con.
Thạnh không nói, chậm rãi nhai miếng cơm đến ra nước. Chất nước cơm tiết ra lẫn với thịt cá khô bùi bùi ngầy ngậy làm Thạnh thấy ngon miệng hơn. Lần ăn cơm nào cũng vậy, thầy Bảy ăn và đứng dậy trước hết. Còn mình Thạnh cứ nhẩn nha cả mươi phút sau. Thầy Bảy la hoài tính ăn chậm như con gái của Thạnh, nhung Thạnh vẫn không sao nuốt nhanh được. Vả lại, những lần như vậy, Thạnh lại được dịp nghĩ ngợi xa xôi, khi thì nhớ đến những ngày bình yên bên mẹ, khi thì tưởng tượng đến chuỗi ngày sắp đến của mình.
- Thạnh à, mai mầy theo tao đi thăm bệnh cho con bà Hai Tất nghe. Đáng lẽ, mấy chứng bệnh đó, mầy phải biết cho thuốc mới phải.
Thạnh le lưỡi.
- Bác nói vậy chớ con mà cho thuốc thì bà Hai Tất bả vác chổi quét con ra khỏi nhà liền.
Thầy Bảy cười hăng hắc.
- Mầy dở quá hà. Tao hồi nhỏ, bằng cỡ mầy là đã đi cho thuốc được rồi. Có ngày tao đi hai ba nơi. Mầy dở ẹt hà. Ờ, nhưng ngày mai mầy có chịu đi không?
Thạnh bối rối không trả lời ngay. Năm ngoái, Thạnh đã mấy lần theo thầy Bảy đi cho thuốc. Nhưng sau những lần đi như vậy Thạnh đâm ghét thêm thầy Bảy. Ai đời con bệnh đau nhăn mày, rên rỉ, lăn lộn, van xin, khóc lóc đến nỗi Thạnh bắt chảy nước mắt. Thế mà thầy Bảy cứ hưỡn hưỡn, miệng thì nói không sao, không sao. Đôi lúc bệnh nhân đau quá bíu lấy tay thầy, thầy còn hất ra chửi thề nữa. Những lúc đó, Thạnh ghét thầy Bảy căm gan. Người thầy thuốc có vẻ nhẫn tâm với tất cả mọi người. Có lần, Thạnh thấy thầy Bảy xòe tay lấy tiền thuốc, trong lúc người bệnh vẫn còn rên la trên giường. Khi vừa ra khỏi nhà người bệnh, thầy Bảy thong thả, vui vẻ bơi chèo như không có gì chuyện gì, trong khi tâm trí Thạnh vẫn còn bị ám ảnh bởi gương mặt nhúm nhó, tiếng rên đau đớn vừa qua. Những chuyện đó, cộng thêm với lòng giận ghét thầy Bảy về cái chết của người mẹ thân yêu làm Thạnh càng ngày càng không thích gần thầy Bảy. Nói là không thích thì không đúng hẳn vì những ngày thầy Bảy vắng nhà đi chữa bệnh, Thạnh cũng thấy nhơ nhớ, và Thạnh ghét để mà ghét chứ trong thâm tâm Thạnh vẫn cảm thấy thầy Bảy không có lỗi gì cả. Vả lại, từ khi về ở với thầy Bảy, Thạnh được thầy đối xử như con cháu ruột. Nhưng nếu bảo phải thương thầy Bảy thì nhất định Thạnh không thương thầy chút nào.
- Trời đất, đi hay không nói phứt cho xong. Cứ ngồi làm thinh hoài vậy Thạnh?
Thạnh giật mình nhìn lên.
- Thôi bác Bảy à. Con ở nhà.
Thầy Bảy ngừng chân đưa nhịp võng.
- Ừa, sao mấy tháng rày mầy hổng chịu theo tao đi thăm bệnh để cho quen nghề. Nhất nghệ tinh nhất thân vinh. Không có nghề nào hèn đâu con ạ. Nội nghề cho thuốc cũng đủ để con sung sướng mãn đời, lại khi nào cũng được kính trọng.
Thạnh ấp úng:
- Hổng phải vậy đâu bác. Bị… bị ngày mai còn phải đi chợ mua khô với gạo nữa mà.
Thầy Bảy như chợt nhớ, ậm ừ trong cổ họng:
- Hừm…
Thạnh lặng lẽ bưng bát đũa ra sau. Nhưng khi định ngồi xuống rửa bát thì tiếng thầy Bảy kêu giựt ngược.
- Thạnh nè. Ngày mai tao chèo tam bản, qua sông chữa bệnh, đoạn hai bác cháu mình ra chợ luôn, chiều hãy về. Bữa mai, tao với mầy thăm lại cái hàng hủ tiếu gần chợ xem. Chà, no cơm mà nhớ hủ tiếu cũng phát thèm.
Thạnh lắng tai, chỉ còn tiếng kẽo kẹt của chiếc võng đưa dưới sức nặng của thầy Bảy. Thạnh vục nước lên tay, nhỏ từng giọt xuống chậu nước lang loáng ánh trăng. Mặt trăng chao chếch rồi vỡ vụn, xôn xao. Thạnh thấy lòng vui vui khi nghĩ đến tô hủ tiếu nóng vừa ăn vừa xuýt xoa vì cay. Thạnh quên hết ngay cả cảm tưởng ghét thầy Bảy, đến bầu không khí của nhà có người bịnh. Thạnh chỉ nghĩ đến buổi chợ ngày mai, có tô hủ tiếu nóng.
Thạnh ở với ông Bảy đã hai năm nay. Không phải bà con thân thuộc gì bởi vì Thạnh chỉ là con của một thân chủ của ông Bảy. Một đêm nọ, bà Hai Cơ, mẹ của Thạnh lên cơn đau ngực dữ dội. Thạnh đã bơi qua sông kêu ông Bảy. Ông Bảy chần chờ đợi trời ưng ửng mới dám bơi thuyền, và khi đến nơi thì đã trễ, bà Hai Cơ chỉ còn thoi thóp thở. Trước khi chết, bà chỉ Thạnh nói gì không rõ. Nhưng ông Bảy lại hối hận về việc đã chần chừ. Ông cho rằng mình phải chịu trách nhiệm về cái chết của má Thạnh. Do đó, ông gật đầu nhận nuôi Thạnh đến khi lớn.
Ông Bảy không có con cái gì. Ông muốn truyền nghề thuốc lại cho Thạnh. Ông thường kêu nó khuyên nhủ mặc dù nó mới mười ba tuổi đầu.
- Thạnh à, nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Mày theo bác làm nghề thuốc cũng đủ sống sung sướng một đời, lại để dành âm đức cho con cái về sau.
Thạnh nhớ rõ cái gục đầu nhè nhẹ của ông Bảy mỗi khi nói điều đó. Nhưng đối với Thạnh, Thạnh không cảm thấy thương ông Bảy một chút nào. Đôi khi lại ghét nữa là đằng khác. Nó nhớ đến gương mặt ngái ngủ và thản nhiên của ông Bảy vào một đêm tối trời nọ, đêm nó không bao giờ quên, đêm nó đã phải lội qua con sông đen ngòm lạnh buốt để mời ông Bảy chữa bệnh cho mẹ. Gương mặt thản nhiên, cử chỉ chậm rãi chần chừ của ông Bảy khi thu xếp thuốc men vào chiếc bọc nhỏ, hai tay nhẹ nhàng bình tĩnh bơi chèo như một khách nhàn du trước nỗi lo lớn lao của Thạnh. Và Thạnh không bao giờ quên được.
- Thầy Bảy về rồi kìa. Chà, bữa nay Thầy Bảy đi hái thuốc ở đâu mà về trễ vậy?
Người hàng xóm nào đó nói to. Tiếng nói theo chiều gió vẳng đến nghe mồn một. Thạnh giật mình nhìn ra sông. Mái tóc thầy Bảy trắng loáng trên chiếc ghe màu đã xám đen trong trời chiều. Cái lưng còm quen thuộc không thể lẫn vào đâu được, càng lúc càng hiện rõ. Thầy Bảy cười nói với một người nào đầu xa.
- Năm nay, bà con tha hồ có thuốc quý. Tui đi sâu thật sâu. Miệt ngoài hái hết trơn cả rồi. Cái nghề cứu nhân độ thế này phải hy sinh chứ biết làm sao.
Giọng cười Thầy Bảy ròn rã. Thạnh nghe vui vui
- Thằng Thạnh đâu rồi. Ủa mầy đứng đây tự hồi nào vậy? Đỡ giùm tao chút coi.
- Ủa, sao mầy đứng im re vậy hả? Lại đây một chút nữa, chút nữa đỡ lấy cái này nè. Kheo khéo một chút… Coi chừng… Đừng để rớt xuống sông hết… Chà tối quá….
Thầy Bảy nói giòn giã như chưa bao giờ được nói. Thạnh, như thường lệ, đỡ lấy cái bao tải đựng lá cây trên tay thầy Bảy, quay lưng đi vào nhà, trong lúc thầy Bảy lui cui buộc chiếc xuồng vào thân cột chẽ hai làm chân cầu ván.
Thạnh vặn to chiếc đèn dầu đặt ở giữa bàn bằng gỗ tạp. Thầy Bảy ghé mắt nhìn qua mâm cơm đặt ngay ngắn trên bàn.
- Khô còn không Thạnh? Ngày mai nhớ nhắc tao đưa tiền ra chợ mua thêm khô để dành nghe. Mùa mưa sắp tới rồi. Trời nóng nực bực bội quá.
Thầy Bảy cổi chiếc áo bà ba đen đã có mùi vì mồ hôi, bùn, bụi mắc lên vách rồi ngồi vào bàn sau khi cà hai chân để rơi bớt đất. Mâm cơm lạch cạch bát đũa.
- Bới tao một chén cơm coi. Sao mày ít nói như con gái vậy Thạnh? Ngồi đây, ăn cơm rồi dọn. Bữa nay có trăng sớm.
Thạnh xới một bát cơm nóng đưa cho ông Bảy và một cho mình. Bát cơm vừa và lên miệng, nó chợt nhớ nói nhanh:
- Hồi chiều bà Tất có qua mời bác sang xem bịnh cho con bà ấy. Bà nói thằng lớn nóng lạnh hôm qua đến bữa nay mà chưa bớt.
Thầy Bảy chắc lưỡi. Một ít cơm rơi vãi trên mặt ván.
- Con cái nóng lạnh từ ngày hôm qua mà để đến bữa nay mới kêu tao. Cứu bệnh như cứu hỏa. Mầy phải biết vậy. Để lâu, rủi ro con bệnh nó nhập vô tỳ vị là xong đời. Cái gì chớ nóng lạnh mà lại con nít mắc chứng đó thì nguy hiểm lắm. Trước hết phải hạ hỏa…Nhưng tao chắc là thằng nhỏ lên ban lên sởi gì đây. Cứ cữ gió cữ nước, uống vài ve tiêu ban lộ là xong hết. Nhưng cần nhứt là cữ gió trước. Con mẹ Tất chắc chẳng bao giờ biết chuyện đó. Để mai thử xem, chớ ban đêm đi qua sông tao ớn lắm.
Trả lời thầy Bảy là một tràng súng cối từ bên kia sông vọng đến. Thạnh nhìn ra ngoài sân. Trăng đã lên quá ngọn mấy cây cau đầu xa. Mặt nước sông sóng sánh, bàng bạc. Xa tít thật xa, ánh sáng vàng vàng của mấy trái hỏa châu rơi thấp làm lộ cụm mây xám vằn vèo những hình thù không rõ.
- Bác Bảy ơi. Miệt kia có đánh nhau chắc.
Đôi đũa rơi đánh xoạc xuống mâm nghe một tiếng khô gọn.
- Ối, hơi đâu mà nghĩ chuyện đó. Tao cứu sống biết bao nhiêu mạng người rồi. Thì trời đâu nở hại mình. Yên hết, yên hết. Đừng có lo, con.
Thạnh không nói, chậm rãi nhai miếng cơm đến ra nước. Chất nước cơm tiết ra lẫn với thịt cá khô bùi bùi ngầy ngậy làm Thạnh thấy ngon miệng hơn. Lần ăn cơm nào cũng vậy, thầy Bảy ăn và đứng dậy trước hết. Còn mình Thạnh cứ nhẩn nha cả mươi phút sau. Thầy Bảy la hoài tính ăn chậm như con gái của Thạnh, nhung Thạnh vẫn không sao nuốt nhanh được. Vả lại, những lần như vậy, Thạnh lại được dịp nghĩ ngợi xa xôi, khi thì nhớ đến những ngày bình yên bên mẹ, khi thì tưởng tượng đến chuỗi ngày sắp đến của mình.
- Thạnh à, mai mầy theo tao đi thăm bệnh cho con bà Hai Tất nghe. Đáng lẽ, mấy chứng bệnh đó, mầy phải biết cho thuốc mới phải.
Thạnh le lưỡi.
- Bác nói vậy chớ con mà cho thuốc thì bà Hai Tất bả vác chổi quét con ra khỏi nhà liền.
Thầy Bảy cười hăng hắc.
- Mầy dở quá hà. Tao hồi nhỏ, bằng cỡ mầy là đã đi cho thuốc được rồi. Có ngày tao đi hai ba nơi. Mầy dở ẹt hà. Ờ, nhưng ngày mai mầy có chịu đi không?
Thạnh bối rối không trả lời ngay. Năm ngoái, Thạnh đã mấy lần theo thầy Bảy đi cho thuốc. Nhưng sau những lần đi như vậy Thạnh đâm ghét thêm thầy Bảy. Ai đời con bệnh đau nhăn mày, rên rỉ, lăn lộn, van xin, khóc lóc đến nỗi Thạnh bắt chảy nước mắt. Thế mà thầy Bảy cứ hưỡn hưỡn, miệng thì nói không sao, không sao. Đôi lúc bệnh nhân đau quá bíu lấy tay thầy, thầy còn hất ra chửi thề nữa. Những lúc đó, Thạnh ghét thầy Bảy căm gan. Người thầy thuốc có vẻ nhẫn tâm với tất cả mọi người. Có lần, Thạnh thấy thầy Bảy xòe tay lấy tiền thuốc, trong lúc người bệnh vẫn còn rên la trên giường. Khi vừa ra khỏi nhà người bệnh, thầy Bảy thong thả, vui vẻ bơi chèo như không có gì chuyện gì, trong khi tâm trí Thạnh vẫn còn bị ám ảnh bởi gương mặt nhúm nhó, tiếng rên đau đớn vừa qua. Những chuyện đó, cộng thêm với lòng giận ghét thầy Bảy về cái chết của người mẹ thân yêu làm Thạnh càng ngày càng không thích gần thầy Bảy. Nói là không thích thì không đúng hẳn vì những ngày thầy Bảy vắng nhà đi chữa bệnh, Thạnh cũng thấy nhơ nhớ, và Thạnh ghét để mà ghét chứ trong thâm tâm Thạnh vẫn cảm thấy thầy Bảy không có lỗi gì cả. Vả lại, từ khi về ở với thầy Bảy, Thạnh được thầy đối xử như con cháu ruột. Nhưng nếu bảo phải thương thầy Bảy thì nhất định Thạnh không thương thầy chút nào.
- Trời đất, đi hay không nói phứt cho xong. Cứ ngồi làm thinh hoài vậy Thạnh?
Thạnh giật mình nhìn lên.
- Thôi bác Bảy à. Con ở nhà.
Thầy Bảy ngừng chân đưa nhịp võng.
- Ừa, sao mấy tháng rày mầy hổng chịu theo tao đi thăm bệnh để cho quen nghề. Nhất nghệ tinh nhất thân vinh. Không có nghề nào hèn đâu con ạ. Nội nghề cho thuốc cũng đủ để con sung sướng mãn đời, lại khi nào cũng được kính trọng.
Thạnh ấp úng:
- Hổng phải vậy đâu bác. Bị… bị ngày mai còn phải đi chợ mua khô với gạo nữa mà.
Thầy Bảy như chợt nhớ, ậm ừ trong cổ họng:
- Hừm…
Thạnh lặng lẽ bưng bát đũa ra sau. Nhưng khi định ngồi xuống rửa bát thì tiếng thầy Bảy kêu giựt ngược.
- Thạnh nè. Ngày mai tao chèo tam bản, qua sông chữa bệnh, đoạn hai bác cháu mình ra chợ luôn, chiều hãy về. Bữa mai, tao với mầy thăm lại cái hàng hủ tiếu gần chợ xem. Chà, no cơm mà nhớ hủ tiếu cũng phát thèm.
Thạnh lắng tai, chỉ còn tiếng kẽo kẹt của chiếc võng đưa dưới sức nặng của thầy Bảy. Thạnh vục nước lên tay, nhỏ từng giọt xuống chậu nước lang loáng ánh trăng. Mặt trăng chao chếch rồi vỡ vụn, xôn xao. Thạnh thấy lòng vui vui khi nghĩ đến tô hủ tiếu nóng vừa ăn vừa xuýt xoa vì cay. Thạnh quên hết ngay cả cảm tưởng ghét thầy Bảy, đến bầu không khí của nhà có người bịnh. Thạnh chỉ nghĩ đến buổi chợ ngày mai, có tô hủ tiếu nóng.
*
- Tạch, tạch tạch tạch.
Thạnh lắng tai nghe. Một tràng súng nổ vang đâu đó, nghe gần.
- Tạch, tạch tạch tạch. Đùng.
Lại thêm một tràng súng nổ nữa. Một tràng nữa. Lại có tiếng súng lớn. Thạnh sợ hãi đứng dậy. Thầy Bảy đã thức giấc nhưng vẫn nằm im trên võng. Thầy hé mắt, yên lặng, nghe ngóng. Một vài tràng súng nữa nối tiếp. Thầy Bảy nhỏm dậy. Thầy hét lên khi thấy Thạnh vẫn còn đứng chần ngần giữa nhà.
- Trời đất, Thạnh, mầy không chịu xuống hầm hay sao mà còn đứng như trời trồng vậy? Súng nổ lớn quá.
Một tràng súng nữa át cả tiếng dạ của Thạnh. Thầy Bảy vọt xuống đất, tiện tay níu luôn cả Thạnh. Hai người lăn tròn xuống dưới gầm bộ ván. Miệng hầm ở ngay đó. Khi xuống tới nơi thì cả Thạnh và thầy Bảy đều hoàn hồn rất mau bởi những cảnh tương tự xảy ra không hiếm. Thầy Bảy dựa lưng vào thành hầm. Một ít cát rơi lả tả xuống mặt chiếu lót.
- Phải kiếm một ít lá dừa khô lót hầm chớ ngó bộ hơi ẩm đây. Mùa mưa tới rồi cực nữa.
Thạnh lắng tai nghe tiếng mõ rời rạc tự đầu xóm chen vào giữa những tiếng nổ dồn dập của súng. Thầy Bảy lại chắc lưỡi.
- Chắc đánh nhau ở miệt trên đây.
Căn hầm chợt sáng lên màu sáng đỏ. Ánh hỏa châu chiếu qua song cửa, lọt vào miệng hầm, in bóng cây lá lướt chầm chậm như chớp bóng.
- Chết cha, chưa tắt đèn trên bàn. Thạnh, mày bò lên tắt đèn thử coi. Cái điệu này có ngày cháy nhà thiêu luôn cả tao với mày.
Thạnh bực dọc bởi tính lắm lời của thầy Bảy. Không nói không trả lời, Thạnh bò ra miệng hầm dưới bộ ván nhìn ra cửa. Mấy trái hỏa châu đong đưa ở bên kia sông. Thỉnh thoảng vài tia lửa nháng lên cùng lúc với tiếng súng nổ vọng lại. Thạnh yên chí đứng dậy tắt đèn, tiện tay khép cánh cửa lớn, rồi lại bò xuống hầm.
- Bác Bảy à. Đánh nhau ở bên kia sông.
Thầy Bảy cười gằn một tiếng nhỏ:
- Chết con mẹ Tất. Con cái đau yếu mà chạy súng là chết luôn.
- Chắc bả không thèm chạy quá bác Bảy à.
Thầy Bảy cười:
- Giỡn mậy, chỉ có ai mót đẻ mới chịu trận thôi chớ già cả đi không nổi cũng phải lết mà chạy trốn nữa là. Người tránh đạn chớ đạn đâu có tránh người.
Thạnh làm thinh. Tiếng mõ càng lúc càng dồn dập.
- Đúng là đồ quỷ, đánh nhau ở miệt vườn bên kia mà nó cứ đánh mõ hoài chịu chi thấu. Nghe kinh hồn thất vía luôn.
Thầy Bảy càu nhàu luôn miệng. Thầy chê cái này cái nọ, rồi trách trớ, đòi bán nhà ra chợ ở cho nó đỡ lo. Nói một hồi không nghe Thạnh góp chuyện, thầy buồn tình bó gối ngồi đợi. Độ gần một giờ sau, tiếng súng êm êm dần. Ánh hỏa châu cũng tắt phụt tự khi nào, chỉ còn bóng trăng sáng rỡ ngoài trời. Thầy Bảy đánh thức Thạnh dậy. Hai bác cháu rời khỏi hầm, leo lên bộ ván tiếp tục ngủ. Nhưng hình như Thạnh không ngủ được nữa. Có lẽ tại ánh trăng bên ngoài sáng quá, hoặc tại cơn ngủ gật hồi nãy đã cướp mất giấc ngủ ngon. Thầy Bảy cũng vậy. Thạnh thấy thầy cứ trăn trở hoài. Được một lúc, thầy ngồi dậy lập bập điếu thuốc, rồi lại nằm xuống, ngồi dậy.
Có tiếng chân thình thịch bên ngoài. Thầy Bảy vứt điếu thuốc hút giở xuống đất. Thạnh ngồi bật dậy, lê đến sát thầy Bảy. Tiếng chân chạy gấp rút như từ dưới sông lên hướng về phía nhà thầy Bảy. Thạnh nghe lạnh ở sống lưng. Thầy Bảy ngồi yên như tượng. Ai chạy về phía này vào lúc giữa đêm thế này, nhất là khi vừa xảy ra lộn xộn? Câu hỏi lảng vảng trong óc hai người. Tiếng chân dừng lại trước hiên nhà. Một giây im lặng. Tiếng lay cửa mạnh. Rồi tiếp liền một giọng nói yếu sũng nước.
- Thầy Bảy ôi, thầy Bảy à. Thầy làm ơn… thầy Bảy…
Thạnh nhảy phắt xuống phản. Thầy Bảy quơ chân tìm đôi guốc mộc.
- Đứa nào? Đêm hôm khuya khoắc có chuyện gì vậy?
Thạnh đốt ngọn đèn dầu lên trong khi thầy Bảy tìm then mở cửa. Một bóng nhỏ, ướt nhẹp chạy vào như một cơn gió lốc.
- Ủa Bông? Có chuyện gì vậy?
- Thầy Bảy ui, má con…
Thầy Bảy hỏi dồn:
- Má mầy làm sao? Đêm khuya, súng nổ ầm ầm mà sao mầy gan quá vậy?
Thạnh sán lại gần con Bông. Mặt con Bông tái mét, nó thở dốc nói những tiếng hầu như không rõ.
- Má con đẻ khó, bà mụ nói kêu thầy cứu giùm má con. Thầy Bảy… Thầy làm phước… Hu... hu…
Con Bông bật khóc nức nở. Thạnh sững sờ. Hình ảnh một thằng bé bơi qua sông, đang đêm van xin thầy Bảy cứu mẹ mình chợt sống lại mãnh liệt trong lòng Thạnh. Thạnh không biết nói gì trân trối nhìn thầy Bảy. Thạnh sợ một cái lắc đầu dửng dưng của thầy. Nhưng thầy Bảy có vẻ lúng túng bởi con Bông khóc to và bíu cứng cánh áo bà ba của thầy. Thầy gãi cằm nói:
- Trời ơi, tao cứu bịnh chứ đâu có đỡ đẻ. Đỡ đẻ có bà mụ rồi. Với lại, mới đụng nhau rần trời đó mầy không thấy sao? Qua sông đang lúc này, tao ớn tận mây xanh.
Con Bông càng khóc to hơn.
- Hu... hu… thầy Bảy, thầy làm ơn. Bà mụ nói chỉ có thầy thôi. Chợ xa, đi không kịp. Thầy cứu má con đi thầy Bảy. Con lại thầy đó, thầy Bảy.
Thầy Bảy ngần ngừ. Thầy đưa mắt nhìn ra khúc sông trắng giãi dưới ánh trăng. Yên lặng. Bờ bên kia mịt mùng, không một ánh đèn. Biết có gì bên đó không? Rủi ro giữa sông, có trời mà cứu. Thầy lắc đầu:
- Đàn bà sinh đẻ có gì khó khăn đâu. Bà mụ cũng đủ rồi. Để trời ưng ửng sáng một chút rồi tao với thằng Thạnh qua sớm. Cứ yên tâm đi cháu. Mẹ cháu đẻ dễ có tiếng mà. Cả vùng này có ai bằng bả không. Mấy thằng anh của mày đâu mà để mày qua sông một mình vậy?
- Mấy ảnh lên chợ làm ăn hết mà thầy Bảy. Nhà có một mình con. Má con đau lắm thấy Bảy à. Má con la quá. Bây giờ bị mệt lắm. Bà Mụ nói qua kêu thầy. Con lạy thầy, thầy không qua, má con... má con…
Con Bông nức lên. Thằng Thạnh cũng chảy nước mắt tự hồi nào. Nó khóc vì thương con Bông, vì nhớ mẹ, vì tức thầy Bảy. Chưa khi nào nó ghét thầy Bảy như lúc này. Thạnh buột miệng không giữ được.
- Bác ác độc lắm. Hồi trước, bác Bảy cũng làm cho mẹ con chết. Bây giờ bác coi chừng rủi mẹ con Bông chết làm sao. Sao bác ích kỷ vậy? Sao bác làm thầy thuốc mà bác ác độc vậy? Con ghét bác lắm…
Con Bông kinh ngạc trợn mắt nhìn Thạnh. Thầy Bảy tức giận quắt mắt với Thạnh. Bàn tay thầy đưa lên rồi đột ngột hạ xuống. Hai đứa bé đứng trước mặt thầy. Mắt đứa nào cũng ánh ra những tia lửa oán giận. Thầy quay đầu nhìn lại, bên kia bờ sông như rộng hẳn ra. Mối ám ảnh về cái chết của bà Hai Cơ, mẹ thằng Thạnh làm thầy rùng mình. Thầy lẳng lặng đi lại chỗ để rương thuốc, mở rương, soạn một vài thứ thuốc cần. Con Bông đưa mắt nhìn Thạnh hy vọng. Thạnh nói nhỏ:
- Thầy Bảy chịu đi rồi.
Cầm cái xách đựng thuốc, thầy Bảy choàng thêm cái khăn vải vào cổ, đốt một điếu thuốc rồi bảo Thạnh:
- Nhớ đóng kín cửa rồi ngủ. Đừng chờ, khi nào tao về tao kêu.
Thạnh ngần ngừ một giây rồi nói nhanh:
- Bác cho con đi theo với. Thiếu cái gì con chạy đi mua giúp bác.
- Người ta đẻ mà đi theo làm gì. Với lại kiểu này, thắp đuốc cũng không có quán nào mở cửa nói chi đến mua với bán.
Con Bảy nhìn thầy Bảy, nó ngập ngừng:
- Bác cho anh Thạnh đi theo cho vui.
Thầy Bảy khạc một bãi nước miếng ra cửa, giọng thầy lùng bùng:
- Mẹ mày, má đau gần chết mà còn đòi bạn bè cho vui.
- Bác cho con đi với bác, hồi về, chớ một mình ở nhà con sợ lắm.
Thầy Bảy chắc lưỡi:
- Đi thì đi. Coi chừng rớt xuống sông cả lũ đó.
Thạnh khép cánh cửa cẩn thận, theo thầy Bảy ra sông. Phải mất một hồi lâu hai bác cháu mới mở được dây gút buộc ghe. Cái tam bản chòng chành. Thạnh cầm lấy bơi chèo khua nước. Trên sông, khung cảnh yên lặng đến ghê người. Thầy Bảy hỏi con Bông. Giọng thầy trầm nhỏ giữa cảnh bao la của con sông đêm.
- Ghe của mày đâu? Bộ mày lội qua sông hở?
- Dạ không, con buộc ở đầu kia, mai con qua lấy về. Đi một mình ớn lắm.
- Chớ bộ hồi nãy, Bông không bơi ghe một mình sao?
Thạnh hỏi chen vào.
Con Bông cười, gương mặt tươi hơn:
- Hồi nãy đâu có nghĩ gì, quýnh quá, Bông đi đại vậy.
Thầy Bảy hứ một tiếng nhỏ:
- Sao, má mày chuyển bụng từ lúc mấy giờ?
- Dạ từ hồi trưa lận.
- Hồi trưa. Mời bà mụ từ hồi nào? Ai đi mời? Phải bà mụ Năm không?
- Dạ, hồi trời chạng vạng tối, má con biểu con nhờ bà Tân hàng xóm mời bà mụ giùm. Bà mụ Năm đó.
- Ừa, bà ấy mát tay lắm. Chỉ phải cái là bà ấy già, hay lộn xộn lắm. Có bữa bả sinh con cho cái bà nào ở xóm trên quên cả cắt rún cho con người ta.
Thạnh giấu nụ cười thầm. Thạnh định nói là thầy Bảy cũng già, cũng có chút lộn xộn như vậy, nhưng nó giữ mồm giữ miệng kịp.
- Coi chừng, khúc cây. Cái thằng này chèo ghe mà không để ý gì đến đường đi nước bước. Ơ, xéo về bên kia kìa. Bộ mày muốn rúc ghe vô bụi hả?
Thạnh luống cuống bẻ lái. Bỏ lâu không qua miệt bên này, lại chèo đêm, nên Thạnh quên mất chỗ để lên bờ. Dọc bờ có đến hàng mấy chục chỗ nhưng tất cả đều ẩn trong mấy bụi dừa nước um tùm. Bờ chỉ hiện ra như một phép lạ khi đến thật gần. Con Bông nhìn Thạnh cười mỉm chi. Dưới ánh trăng bàng bạc và ngọn đèn dầu nhỏ ở khoang ghe gương mặt con Bông dí dỏm như trêu Thạnh. Thạnh nóng mặt lầm bầm và bỗng dưng giận thầy Bảy ngang. Nhưng thầy Bảy như không để ý đến cái bẻ lái mạnh hơn ngày thường. Thầy lục lọi trong túi vải để kiểm điểm những món thuốc.
- Quên mấy củ gừng rồi. Thiệt là…
- Nhà con có gừng thầy à.
Con Bông mau miệng nói.
Thầy Bảy gật đầu ra dáng bằng lòng. Thạnh đẩy mạnh tay chèo để ghe đâm mũi vào bờ. Chiếc ghe lắc mạnh rồi dừng lại. Con Bông nhanh nhẹn nhảy phóc lên bờ, thoăn thoắt đi trước dẫn đường. Vẻ nôn nóng của con Bông cũng làm Thạnh bồn chồn theo, bước chân đi nhanh hơn. Hai đứa bỏ thầy Bảy tận phía sau. Thầy Bảy lầm bầm giận dữ, nhưng bước chân già đâu nhanh bằng chân trẻ, thầy Bảy bị bỏ lại ở sau một khoảng cách dài.
Khi Thạnh đến nhà con Bông thì bên trong im lặng như tờ. Mặt con Bông tái xanh. Nó dừng lại ở sân nhà.
- Sao im quá vậy nè? Bông, bà mụ đâu?
Thạnh thì thầm hỏi. Con Bông không chịu được cơn sợ, lo. Nó run lên, nước mắt chảy dài. Nhưng cả Thạnh lẫn con Bông không ai dám vô nhà cả. Thạnh nhìn về phía sau. Bóng thầy Bảy vẫn chưa thấy. Càng lúc nó càng ghét thầy Bảy không tả được. Con người độc ác. Thạnh nghĩ vậy. Người ta sắp chết mà còn đi từng bước một. Một bóng người bước ra cửa. Con Bông la lên mừng rỡ.
- Bà mụ, má con…
Bà mụ Năm không trả lời câu hỏi của Bông mà hất hàm hỏi:
- Thầy Bảy đâu rồi? Ổng không chịu đi hả?
Thạnh trả lời:
- Dạ có, thầy Bảy đi ở đàng sau…
- Con Bông vô nhúm lửa nấu một nồi nước sôi cho má mày đi. Cha, sao con mẹ này sanh khó dữ. Lại bị bịnh nữa chớ. Ai như thầy Bảy phải không?
Thạnh quay lại, thầy Bảy vừa đi vừa thở.
- Sinh nở gì mà cứ nhè đêm mà sinh. Súng đạn nổ ầm ầm. Thiệt, không hiểu kiếp trước tui mắc cái nạn gì mà kiếp này khổ dữ vậy không biết.
Bà mụ Năm nhỏ nhẹ:
- Cũng hổng khó gì cho nhiều. Bị bả yếu sức quá. Hồi nãy nghe tiếng súng nổ quá trời, bả muốn ngất xỉu luôn. Một mình tui không đủ thuốc, không đủ tài, nên mới làm phiền thầy. Cứu một mạng người hơn xây chín đợt phù đồ mà thầy.
- Ối chín với mười đợt phù đồ cũng chẳng bằng một giấc ngủ. Nhưng mà thôi, cái nghề cứu nhân của mình, mình phải làm. Ờ mà sao im ru bà rù vậy nè?
- Bả mới thiếp đi. Tui để cho bả có sức một chút. Thầy vô giúp giùm một tay. Hồi tui ở trên kia đã nghe tiếng thầy đỡ đẻ cũng rành mà.
Thầy Bảy im lặng lầm lũi bước vào trong. Thạnh đứng lại một mình ở ngoài sân. Ánh lửa hắt ra ở phía sau hè chập chờn. Chắc con Bông đang nấu nước ngoài đó. Thạnh bước nhẹ ra sau. Con Bông đang phùng má thổi cao ngọn lửa. Thấy Thạnh, nó như yên tâm, một tay chỉ mấy khúc củi, tay kia vung vẩy phân trần:
- Lúc nãy, Bông vừa bưng củi vô để thổi thì nghe súng nổ, vứt đại đúng vô vũng nước nên củi ướt, nhen khó quá.
Thạnh ngồi sụp xuống. Hai đứa lắng tai nghe. Có tiếng rên rỉ nho nhỏ vọng xuống. Con Bông hỏi:
- Thầy Bảy ngó bộ khó ghê. Mà sao Thạnh về ở với thầy được hà?
Thạnh buột miệng.
- Thạnh ghét ổng cay đắng. Với lại có bà con gì. Ổng ác lắm, miệng thì nói cứu người mà chẳng cứu gì hết. Má Thạnh mất cũng vì ổng…
Nói xong câu này, Thạnh hơi hối hận vì đã nói quá. Nhưng con Bông thì tin lắm.
-Thầy Bảy có thương Thạnh không?
- Hổng biết nữa.
- Chắc thương. Hồi nãy, Thạnh mới nói ổng đi, ổng đi liền cà.
- Nhưng Thạnh không ưa ổng chút nào. Người ta đau mà mặt ổng cứ tỉnh khô. Chỉ có ai ở ác mới vậy chớ.
Nước trong nồi kêu o o, báo hiệu sắp sôi. Phía trên, tiếng rên la của mẹ con Bông càng lúc càng lớn. Mặt con Bông cũng nhăn nhúm lại như chính mình bị đau. Thạnh nghe tiếng bà Năm dỗ dành và tiếng thầy Bảy gắt gỏng. Thầy chuyên môn gắt gỏng với bịnh nhân mà. Thạnh nói thầm một mình. Người gì mà ở ác.
Mặt trăng đã xế ngang ngọn cây ổi sau nhà. Bếp lửa lụn dần. Hơi lạnh lần lần xen lấn qua manh áo mỏng, nhập vào da thịt. Thạnh run run thu người sát bếp, dựa vào những cái bao lộm cộm đặt chồng chất nhau ở một góc. Con Bông thiêm thiếp ở góc bên kia. Thạnh định đánh thức con Bông dậy để hỏi chuyện học hành, nhưng thấy con Bông buồn ngủ quá nên thôi. Khung cảnh đột nhiên im lặng. Ở nhà trên hình như ai cũng mệt mỏi. Mẹ con Bông cũng không còn rên lớn. Thạnh gục ngủ. Và mơ thấy mình bị thầy Bảy nhận chìm dưới làn nước sông đen ngòm, vắng vẻ. Gương mặt thầy Bảy trắng toát như thây người chết. Dưới ánh trăng đỏ kè, thầy Bảy cười sằng sặc.
Thạnh giật mình thức dậy. Mồ hôi tuôn ra ướt cả lưng áo. Thạnh chớp mắt để nhớ xem mình đang ngồi ở đâu. Bếp lửa được nhóm lại từ hồi nào đỏ rực. Con Bông không còn đấy. Tiếng vẳng xuống, ngắn nhưng đầy vẻ đau đớn. Không còn là tiếng rên nữa mà là tiếng thét từng chập. Thạnh thấy lạnh ở xương sống. Thạnh muốn chạy lên nhà trên gặp thầy Bảy, mụ Năm, con Bông để chia bớt nỗi lo âu, sợ hãi, và cũng để xem tình hình ở trên như thế nào, nhưng Thạnh không dám. Thạnh sợ phải nhìn thấy gương mặt nhăn nhó của mẹ con Bông, sợ phải nghe rõ tiếng rên la, thấy dáng quằn quại của người bệnh. Thạnh gục đầu xuống gối, hai tay bịt chặt hai tai.
- Cha mầy, hổng chịu khóc hả? Uýnh mấy cái vào mông nó đi chị.
Tiếng trẻ khóc như xé toạc bức màn nặng nề đang bám trong người Thạnh. Thạnh đứng vụt dậy, chạy vội lên nhà. Nhưng mới tới cửa, Thạnh tông phải một người ở trên chạy xuống.
- Đi như vậy đó hả? Xí xọn, nãy giờ sao hổng lên?
Thì ra con Bông. Thạnh không để ý đến vẻ bất bình của con Bông mà hỏi dồn dập:
- Mẹ Bông đẻ được rồi hả? Con gái hay con trai đó?
- Con trai. Thôi, tránh qua một bên cho người ta nấu nước.
Thạnh xớ rớ ở ngưỡng cửa. Giọng thầy Bảy oang oang khoái trá.
- Từ thưở làm thầy thuốc đến nay, tui chưa khi nào gặp ai đẻ khó như mụ này. Chị Năm hả?
- Ừa, nhờ thầy mát tay chớ tui tính đưa chỉ ra chợ rồi đó. Ngặt cái là mới lộn xộn, thấy khó, nên sực nhớ qua kêu thầy tiếp tay đó.
- Hổng biết thằng Thạnh đi đâu mất. Cứ lúc nào có chuyện là nó biến mất tăm mất dạng. Đi học nghề thuốc mà không nhìn cách chữa thì làm sao học được.
Thạnh định lên tiếng trả lời, nhưng lại thôi vì có tiếng chân của thầy Bảy lần xuống.
- Bác kêu con.
- Ừa, mầy ngồi ở đâu mất đất vậy. Sửa soạn về. Tao buồn ngủ hết sức rồi.
- Ủa, thầy Bảy ở lại sáng sớm hãy về. Về bây chừ nguy hiểm chết.
Thầy Bảy cười nhỏ:
- Ối, có chết là chết hồi nãy kia, chớ bây giờ êm ru bà rù rồi. Về ngủ để sáng mai còn lên chợ. Chị chịu khó trông coi chỉ, bây giờ là nghề của chị mà. Thạnh, sửa soạn về.
- Công của thầy.
Thầy Bảy ngần ngừ. Người chủ còn thiêm thiếp trên kia. Lấy tiền ai bây giờ. Thầy lắc đầu nhè nhẹ.
- Thôi để mai mốt qua lấy cũng được. Bà con chòm xóm với nhau cả mà.
Đường về ướt nhẹp hơi sương. Ánh trăng phả đục cả không khí như có khói. Thạnh buồn ngủ, hai mắt như ríu lại. Thầy Bảy bước thấp bước cao lầm bầm luôn miệng. Thạnh không buồn nói một tiếng nào. Cơn buồn ngủ đã khóa miệng nó lại. Vả lại Thạnh cũng không biết nói gì hơn và cũng chả có gì để nói. Cỏ gãy vụn lạt sạt dưới chân. Tiếng sủa của lũ chó cắn nhau nổi lên từng chặp. Bờ nước sóng vỗ tí tách. Chiếc thuyền nằm im lìm dưới bóng bụi dừa nước. Thầy Bảy đẩy nhẹ mái chèo. Tiếng nước khua nghe rõ mồn một. Bến sông vắng vẻ đến rợn người. Gió thổi lạnh se da.
Đùng, tạch – tạch – tạch…
Hàng tràng tiếng súng nổ phá tan cảnh yên lặng. Những đóm lửa bay vút lên trời kéo thành những cái đuôi dài màu đỏ cam. Mặt nước sông xao động. Thầy Bảy dừng tay chèo nhìn quanh. Bờ sông cả hai bên đều cách ghe một khoảng bằng nhau. Ghe đang ở giữa sông. Thầy Bảy nhắm hướng nhà định chèo tiếp. Thầy dúi vào tay Thạnh cánh bơi chèo thứ hai, nhưng thầy chưa kịp nói câu nào thì một tràng lửa vút ngang qua đầu. Cái bơi chèo rơi xuống sàn ghe bắn nước tung tóe. Thạnh nghe tiếng thầy Bảy hét lên thảng thốt:
- Chết rồi, nằm rạp xuống ghe, mau lên.
Cả hai tấm lưng đều hụp xuống cùng một lúc. Ghe chòng chành như muốn lật. Thầy Bảy lại la lên:
- Nằm im không lật ghe bây giờ.
Tiếng la của thầy oang oang trên giòng sông vắng. Những vết lửa dài đan thành tấm lưới đỏ trên nền trời nhàn nhạt. Tiếng súng giật bên này bên kia ròn rã. Thạnh run lên bần bật. Chiếc áo thầy Bảy đẫm nước lạnh ngắt áp sát bên hông Thạnh. Thạnh nghe cả tiếng đạn rơi lõm bõm đâu đó trên sông. Chiếc ghe không ai lèo lái trôi dần theo con nước.
Thầy Bảy vớ lấy cái bơi chèo định bơi rán sang bờ. Nhưng một viên đạn nào đó đã rơi tình cờ ngay cạnh ghe. Rồi hai viên, ba viên, tấm lưới lửa đạn thấp xuống dần. Thầy Bảy hốt hoảng:
- Thạnh, nhảy xuống sông bám lấy ghe bơi vô bờ, không thôi chết.
Đồng thời với tiếng chết, thầy Bảy nhảy ùm xuống sông. Thạnh đang luống cuống không biết phải làm sao thì một bàn tay ướt rượt nắm lấy tay Thạnh kéo mạnh. Thạnh rơi xuống, vừa kịp nắm lấy chéo áo của thầy Bảy. Nước cuồn cuộn bốn bề chui vào miệng, vào mũi Thạnh. Chân tay Thạnh quơ lia lịa. Mặc dù Thạnh bơi như rái, ngày thường, Thạnh có thể bơi từ bên này sông sang bên kia sông dễ dàng, nhưng lần này, Thạnh sợ đến nỗi tay chân cuống quít không làm sao để nổi lên mặt nước.
- Chết cả lũ bây giờ.
Cổ Thạnh liền đó bị kẹp cứng và nâng lên cao.
Chiếc ghe đã bị lật úp và đã trôi đến chỗ triền dốc. Nước chảy xiết, ghe trôi phăng. Thầy Bảy một tay ôm Thạnh, một tay nắm lấy thành ghe. Bờ phía bên kia đã có mấy đám cháy. Lửa bốc lên và vẳng lại tiếng kêu la. Một vài tiếng súng lớn ì ầm thật gần. Đạn từng loạt rơi vãi trên mặt sông. Chốc chốc thầy Bảy lạng người như để tránh những viên đạn vô tình. Chiếc ghe đã trúng đạn một vài chỗ. Dưới ánh lửa và ánh mờ của trăng, những vết đạn phá tung thành gỗ bung xơ. Thầy Bảy chửi thề liền miệng:
- Đã nói là không đi chớ, bây giờ lại mang họa… Không hiểu đánh nhau gì mà đánh dữ vậy. Khổ quá… trời… đừng bắn ra giữa sông… Lạy thần thánh phù hộ cho con tai qua nạn khỏi… Nắm chặt be ghe đi mày. Mỏi quá, dám tao bỏ mày lại quá. Cứ đòi đi, đòi đi. Sinh đẻ là chuyện của đàn bà, vậy mà cũng bắt đi, để bây giờ khổ quá nè trời.
Thầy Bảy tức giận cung tay. Thạnh bị rơi hỏn. Nước cuốn đưa đi thật nhanh. Thạnh quờ quạng la hét. Nước cứ tuôn ồng ộc vào mồm vào mũi. Một cái gì cưng cứng nằm trong tầm tay, Thạnh bíu chặt, rướn người lên khỏi mặt nước. Thạnh đã nắm được thành ghe đối diện với thầy Bảy. Hình như ghe càng lúc càng trôi đến vùng đánh nhau to. Những vệt lửa sát đến nỗi nhiều lúc Thạnh tưởng như cháy cả da đầu. Thầy Bảy và Thạnh sợ đến nỗi không ai nói được câu nào nữa. Cả hai như muốn lịm người. Giòng nước vẫn cuốn hút chiếc ghe. Thầy Bảy cầm chắc cái chết trong tay nên không làm được một cử động nào để đưa ghe vô bờ, thầy không đủ sức để quờ quạng chân tay thì đúng hơn. Hai bàn tay như hai cái móc gỗ cứng đơ, không cảm giác, bíu vào chiếc ghe.
Một vài bông lửa nở lóe trên nền trời màu sữa. Trái hỏa châu đầu tiên từ đồn bên kia sông bắn lên. Một trái, hai trái, ba trái. Trời sáng rực rỡ. Thạnh nhìn thầy Bảy, bỗng chốc buột lên tiếng rú nhỏ. Một giòng máu đỏ thẫm chảy trên vai trái, chảy dài xuống khuỷu tay, vương một bợt nhầy nhụa trên mái tóc bạc trắng. Đầu thầy Bảy gối trên cánh tay bất động.
- Bác Bảy, bác Bảy…
Giọng Thạnh run run như muốn khóc. Tiếng kêu chìm trên sông, mất hút. Chỉ có tiếng súng ròn rã trả lời.
- Bác Bảy, Bác Bảy.
Thầy Bảy ngẩng đầu lên rồi lại gục xuống. Vết thương đau thì ít mà người cóng lạnh thì nhiều. Ghe đã trôi qua khỏi vùng đánh nhau. Tiếng súng nhỏ thưa dần và đi xa hơn. Một vài vệt sáng lửa thưa thớt ngang qua đầu. Chỉ còn tiếng súng lớn ì ầm vọng lại chao động mặt sông yên tĩnh. Thạnh cố bò lên màm ghe. Hai chân ngâm trong nước quá lâu nhợt nhạt nhăn nheo và tê cứng. Sau cái rướn người đau đớn, Thạnh cố sức lôi bác Bảy lên thuyền.
- Ôi, a đau quá.
Thầy Bảy rên được một tiếng lớn. Yên chí là thầy Bảy không chết, Thạnh vắt bớt nước ở hai ống quần cho thầy, tuyệt đối không dám đụng vào vết thương.
- Hết đánh nhau rồi hả Thạnh?
Thạnh mừng rỡ gật đầu.
- Bác Bảy có sao không bác Bảy?
- Lạnh quá. Lấy đỡ ít nghệ trong túi thuốc bó lại giùm tao cho nó đỡ làm độc.
- Ghe lật trôi hết rồi còn đâu bác.
- Úi, đừng, coi chừng đụng vô tay tao. Ủa mà ai lật ghe lại? Ừa tao nhớ rồi, hồi mày trôi đi ghe quay lật mấy lần. Trời còn thương bác cháu mình.
Ghe trôi dần đến chỗ rẽ. Thạnh lo lắng nhìn về phía nhà. Làm sao để chèo ghe trở lại? Nước đang ròng. Cứ điệu này ghe trôi tuốt ra biển có ngày. Không về kịp lấy thuốc đâu mà rịt vết thương cho thầy Bảy? Cũng tại Thạnh mà ra cả.
- Bác Bảy ơi, làm sao chèo ghe ngược vô bờ đây bác Bảy?
- Lấy cái dầm.
- Rớt mất rồi còn đâu.
Thầy Bảy nằm im. Một lát sau, thầy thở dài nói.
- Phải chi tao không bị thương ở cánh tay. Thạnh, mày thử kiếm coi có khúc dừa nước khô nào trôi gần không?
Thạnh nhìn quanh. Bờ xa. Mặt nước loang loáng ánh trăng mờ. Sông im lặng. Không có gì nổi trôi ngoại trừ chiếc ghe của hai bác cháu. Thạnh nói như chực khóc:
- Hổng có gì hết bác Bảy à.
Sông càng lúc càng chảy xiết. Nước thấm vào lòng thuyền. Thạnh bụm hai tay để làm gàu tát. Hai tay Thạnh mỏi nhừ. Người lạnh cóng. Bờ sông rộng ra khuất lấp trong màn sương khuya.
- Mày liệu bơi nổi vô bờ không Thạnh.
- Làm chi vậy bác?
Thầy Bảy ngần ngừ. Cứ cái điệu này, có lúc ghe lật chết cả hai bác cháu. Mà chờ cho đến khi ghe bạn làm ăn thì còn lâu. Thầy để ý không nghe tiếng gà gáy ở trên bờ, chứng tỏ trời chưa sáng. Vả lại, mới đánh nhau, ngày mai các ghe thuyền đi trễ lắm. Thầy quyết định.
- Mày bơi vào bờ đi, xem có cái ghe nào chèo ra, hoặc kêu người nào phụ ra kéo ghe mình vô bờ.
- Rủi hổng gặp ai hết rồi làm sao bác? Mà có gặp cũng không biết họ có chịu ra cứu ghe mình không?
Thầy Bảy ngẫm nghĩ. Cũng có lý nhưng đâu còn cách gì hơn nữa. Trong hai người, bây giờ chỉ có thằng Thạnh là còn mạnh khỏe. Còn thầy, một cánh tay đau buốt giở không muốn lên. Tuổi thầy không còn dẻo dai như hồi còn trẻ. Chẳng lẽ hai bác cháu ngồi mãi trên ghe chờ sáng hay sao. Vả lại, vết thương trên tay thầy đang rỉ máu từng chặp. Biết thầy còn chịu đựng được bao lâu nữa. Thầy Bảy nhìn Thạnh. Thằng nhỏ ngồi chồm hổm, đôi mắt như lạc thần. Tội nghiệp, nó sợ và lo quá. Thầy nhớ lại đêm nào, trăng cũng giải giải như bây giờ, thằng Thạnh cũng co ro, áo quần ướt sũng, mắt nhìn thầy như cầu khẩn, van lơn. Còn thầy, thầy hưỡn hưỡn đẩy đưa mái chèo sang bên bờ. Bữa đó, thầy mới gặp lần đầu tiên niềm hối hận vì cái chết của một con bệnh nặng, tức mẹ thằng Thạnh bây giờ. Thầy Bảy mím môi quyết định. Thầy tin chắc thằng Thạnh sẽ không do dự, hơn nữa, nó với thầy vốn dĩ người dưng nước lã, không ruột thịt, thì chắc cũng không xót xa. Số phận của thầy có rủi ro cũng không làm thằng Thạnh áy náy nhiều. Thầy nói:
- Bây giờ cháu cởi áo, quấn ngang cổ, rán bơi vô bờ, kiếm nhà ai gần nhứt nhờ họ tiếp tay. Còn nếu không ai thì ngồi chờ sáng, kiếm chỗ kín gió.
- Còn bác Bảy...?
- Ối, may ra gặp ghe sớm đi buôn bán thì sống, còn không, tao cũng già rồi. Cái nghề của tao chưa hại ai thì chắc trời thương.
Thạnh nhìn thầy Bảy. Gương mặt thầy nhợt trắng như màu tóc. Tiếng nói của thầy khàn run vì lạnh. Thạnh không nỡ.
- Hay cháu vừa bơi vưa đẩy ghe vô bờ?
- Không đủ sức đâu. Đây vô bờ còn xa.
Thầy Bảy nhỏm người nhìn quanh. Bờ sông rộng và trước mặt, nước trải ra dài rộng vô cùng. Thầy Bảy hốt hoảng gắt lên.
- Mày bơi mau vô bờ không thì không kịp đâu. Tao già rồi có chuyện gì không sao. Mấy lỗ hở của ghe cũng gần toác ra rồi. Thôi đi mau đi.
Thầy Bảy ngả người xuống sàn ghe để thở. Chiếc ghe chao mạnh, nước len lỏi qua kẽ chân Thạnh. Thạnh giật mình bụm tay tát lia lịa.
- Trời ơi, tao nói là mầy nhảy ra khỏi ghe đi.
Thạnh không trả lời mặc dù ý nghĩ sợ chết đã lởn vởn tron đầu. Nước xoáy qua lỗ đạn vào nhanh hơn hay bụm tay. Thạnh xé lấy một chéo áo, vò viên và nhét vào chỗ hở, ấn chặt.
- Bơi vô bờ đi, không chết hết giờ.
Dùng quá nhiều sức để nói, thầy Bảy rũ ra như người ốm nặng. Thạnh nhìn quanh quất. Chết. Nước vào ghe, ghe không lật cũng chìm. Không chìm cũng trôi ra biển. Cỡ ghe này sóng đánh một lượt là tan xác. Thạnh nhớ đến những cái xác chết đuối trôi tấp vào bờ sông mà nó đã có lần được nhìn thấy. Xác trương phình, mặt sưng to, tím ngắt, máu ồng ộc chảy ra từ miệng khi có thân nhân đến. Hình ảnh ghê sợ làm Thạnh run lên. Giá như có một bóng người nào khác, một chiếc ghe ăn đêm. Trời ơi. Mồ hôi vã lạnh trên lưng. Thạnh nhìn thầy Bảy. Thầy khoát tay ra dấu. Thạnh cổi áo quấn trên cổ. Thạnh lại nhìn thầy Bảy do dự. Thoáng trên môi thầy một nét tươi. Thầy mấp máy bảo Thạnh đi đi. Thạnh chuồi người nhẹ nhàng xuống giòng nước lạnh như băng. Một cử động quen thuộc, đưa Thạnh ra xa thuyền. Chiếc thuyền vẫn trôi, nhưng chậm hơn. Cái đầu bạc trắng của thầy Bảy nhỏm lên nhỏm xuống để trông Thạnh. Bất giác, Thạnh thấy lòng mình se lại. Một ý nghĩ lóe qua đầu. Thạnh bậm môi bơi thật nhanh theo thuyền. Bíu lấy một đầu ghe, đẩy mạnh. Tiếng nước ròng rọc không đủ che lấp tiếng la đã yếu của thầy Bảy.
- Mày ngu quá Thạnh ơi.
Thạnh bậm môi, gắng sức đẩy chiếc ghe ngang dòng hướng vô bờ. Chiếc ghe di động chậm chạp. Chẳng mấy chốc Thạnh nghe hai chân mỏi rời. Cánh tay nặng chĩu như đeo đá. Và chiếc ghe càng lúc càng nặng nề. Đôi lúc Thạnh tưởng chừng như nó không di động được một bước nào.
- Mệt quá mày leo lên ghe đi. Tao đã nói là cứ bơi thẳng vô bờ. Không khi nào chịu nghe tao.
Thạnh bíu lấy thành ghe, đu người vào giữa khoang thở hồng hộc. Vết thương trên tay thầy Bảy lại chảy máu. Những giọt máu loang lổ đã đen đặc trên sàn. Một ánh đèn nào thấp thoáng qua lùm cây nhòe nhoẹt bởi sương, ở tận xa. Thạnh mừng rỡ la lên:
- Có người bác Bảy ơi. Trên bờ có người thức, sáng rồi.
Thầy Bảy gượng chống tay ngồi dậy nhìn cho rõ. Ánh đèn tắt phụt. Thạnh thất vọng đỡ thầy Bảy nằm xuống. Bàn chân chuồi dài trên sàn. Vô tình gót chân lùa phải miếng giẻ bít chỗ bị lủng. Nước tràn vào mạnh, phá vỡ chỗ bung to hơn. Chiếc ghe như chùng hẳn xuống. Nước sóng sánh trên mặt sông muốn tràn qua thành ghe. Thầy Bảy la lên:
- Bít lẹ chỗ lủng lại. Trời ơi.
Thạnh cuống quít dứt nguyên cái áo trám vào chỗ thủng. Bác Bảy dùng tay không bị thương ấn chặt, còn Thạnh cố sức tát nước.
Khi hai tay mỏi nhừ thì nước chỉ còn sâm sấp dưới mắt cá chân. Thạnh đưa tay quệt mồ hôi trán. Những trái hỏa châu đã tắt tự bao giờ. Chung quanh yên lặng như không có gì xảy ra. Những đám cháy cũng ngút đâu ở phía xa, ánh lên một tí sáng hồng. Mọi ngày sao trời không hẹn mà sáng thật nhanh. Bây giờ, đêm cứ trải dài không hết. Nghỉ một lát, Thạnh lại nhảy xuống bơi và đẩy ghe. Cứ trèo lên, trụt xuống, khi thì nghỉ, khi thì tát nước, chiếc ghe cũng đi được một đoạn dài. Sương càng lúc càng xuống nhiều. Thạnh như muốn đuối sức. Nước ngấm vào người tê cóng. Da nhăn se lại móp méo. Có lúc Thạnh tưởng mình không thể nào bơi được nữa. Hai chân hai tay nhức buốt, tê liệt. Bờ mờ mịt bởi sương. Thạnh không còn nhận rõ được hàng dừa nước dầy bịt trên bờ. Thầy Bảy nằm thiêm thiếp. Thầy không đủ sức để mở miệng trách móc Thạnh. Thầy nghĩ là sẽ không thoát được vì ghe đã hỏng mà lại gặp khúc sông rộng, nước xiết. Và thằng Thạnh chỉ là một đứa nhỏ. Một mình biết nó bơi có thấu, huống hồ lại thêm chiếc ghe nặng. Giá có một khúc cây làm dầm thì đỡ biết mấy. Thầy thiếp đi trong nỗi thất vọng cùng cực mà không nói được ra lời.
- Lục bình bác Bảy ơi.
Thầy Bảy như được tiếp vào sinh lực, mở bưng mắt, nhỏm người dậy. Vết thương hành thầy đau như dao cắt, nhưng thầy cũng kịp nhìn thấy một dề đen trôi cạnh ghe. Thầy nói:
- May quá, cháu coi thử có cành dừa nào mắc ở trỏng không. Lấy làm dầm bơi. Lẹ lên.
Thạnh nhảy vội xuống, bơi vờn quanh đám lục bình xanh. Thạnh quơ tay đập vào đám lục bình dày. Một vật cứng chạm vào tay vạch một nhát trầy xót buốt. Nước đưa dề lục bình trôi, mang theo cành dừa khô. Thạnh ngậm hơi, lặn một đỗi dài và nổi lên ngay trước cành dừa. Cành dừa có khúc đuôi to bản, dùng thế dầm bơi tạm. Nhờ có cái dầm bằng cành dừa khô, ghe đi nhanh hơn và Thạnh cũng đỡ mệt. Thầy Bảy sắc mặt tươi hơn. Thầy nhờ Thạnh đỡ ngồi dậy. Bằng cánh tay không đau, thầy tát nước ra ngoài ghe.
- Chắc gần bờ rồi bác Bảy à.
Thầy Bảy thở một hơi dài:
- Lạy trời, bác cháu mình thoát chết rồi.
Chiếc ghe chao mạnh. Tiếng sột soạt vang lên rồi những cành dừa nước thi nhau quất vào mặt vào mũi hai bác cháu.
Thạnh la lên:
- Tới bờ rồi bác Bảy.
- Vứt cành dừa đi. Vịn mấy cây dừa đưa ghe vô trong. Khéo không mắc lầy.
Có tiếng gà gáy đầu canh. Thầy Bảy nở một nụ cười, trong khi Thạnh ngồi sững nhìn mấy bụi dừa nước dày bịt nhòe nhoẹt hơi sương.
_______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG II