Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

THƯ CHỦ NHIỆM (SỐ 131) - Nguyễn Hùng Trương

 

 Các em thân mến,

Ngày xưa, có hai anh em sống chung với nhau hết sức hòa thuận.

Một năm nọ, mùa màng thất bát, sinh nạn đói kém, trộm cướp khắp nơi, dân chúng sống loạn lạc. Nạn đói lan tràn đến nỗi người ta phải ăn thịt đồng loại.

Chẳng may, người em bị giặc cướp bắt, định làm thịt ăn.

Người anh hay tim lo sợ cho tính mạng của em, vội vàng tự trói mình đến ngay trước giặc cướp và van xin: Em tôi nhịn đói đã nhiều ngày, thân thể gầy mòn, chỉ còn xương với da, ít thịt hơn tôi. Vậy xin các ngài hãy ăn thịt tôi và tha cho em tôi.

Giặc đói nghe vậy lấy làm cảm động về sự hy sinh tính mạng của người anh để bảo vệ em, bèn tha cho cả hai người, nhưng lại bắt phải về đem gạo đến thế mạng.

Hai anh em về đến nhà, lo đi vay gạo khắp nơi, các bà con quen thuộc trong vùng, nhưng vì tình hình đói kém, ai nấy cũng không còn gạo để ăn, lấy đâu cho mượn, nên hai anh em đành bó tay, cùng tranh nhau lại chịu chết với giặc: người em xin để em chết, người anh van được chết thay em.

Giặc thấy anh em thương yêu, sống có nghĩa với nhau như vậy, chẳng những tha cho cả hai, lại còn thưởng thêm cơm gạo và tiền bạc.

Các em thân mến,

Nhìn thấy tấm gương anh em thương yêu thắm thiết như thế, chúng ta lấy làm hổ thẹn trong khi gia đình chúng ta có sự bất hòa giữa anh chị em với nhau.

Ca dao Việt Nam có câu:

Anh em như thể tay chân,
Rách lành đùm bọc, đỡ đần dở hay.

Sách Lễ Ký cũng khuyên: Anh em cốt nhục tình thâm chớ rời bỏ nhau.

Cựu ước kinh ghi rằng: Tôi sẽ tha thứ cho em tôi mấy lần? Có phải bảy lần không? Chẳng những đến bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy kia.

Mong rằng các em nên hòa thuận, thương yêu, đùm bọc anh chị em trong gia đình.


NGUYỄN HÙNG TRƯƠNG    

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 131, ra ngày 15-10-1974)




Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

THƯƠNG QUÁ MÁI NHÀ XƯA - Đằng Linh

  

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Anh viết bài thơ về mái nhà xưa
Nơi bình yên - con chim về vui hót
Nơi thơm thảo - vườn xanh trái ngọt
Giàn bí bầu dây mướp nếp cùng leo
 
Ngọn cau già bên giếng nước trong veo
Ngả bóng xuống mảnh sân chiều ảm đạm
Dây trầu xanh bám mảng tường rêu xám
Dâng mẹ già những chiếc lá tươi non...
 
Có một thời như cổ tích vàng son
Ngày ta có nhau - nhà mình vui thế
Câu hạnh phúc - cha cười rưng ngấn lệ
Mắt mẹ vui - nhòa những vết chân chim
 
Đời bình yên như vệt nắng qua thềm
Mái nhà ấm niềm vui mùa gặt hái…
Em theo anh, bỏ lại thời con gái
Con ngõ quanh co chợt vắng một người
 
Gánh rạ đồng chiều thiếu một bờ vai
Khóm chuối sau nhà xao xác
Cây mít thẫn thờ, đàn gà tao tác
Hàng cau thương rủ lá vàng hoe
 
Nhà của mình vẫn mưa nắng chở che
Bao dâu bể ở ngoài khung cửa hẹp…
Rồi chái bếp không còn vương khói bếp
Những người thân lần lượt chuyến đi xa
 
Không gian xưa dần lặng lẽ nhạt nhòa
Mái nhà cũ im buồn chiều nhạt nắng…
Ta quay về hôm nay lòng trĩu nặng
Con chim nào cất giọng hót vu vơ
 
Ngơ ngác nhìn…
Thương quá mái nhà xưa !
 
                                      Đằng Linh (2020)


Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

TUỔI THƠ THẬT ĐÁNG QUÍ - Nguyễn Hùng Trương

  

 Các em thân mến,

Vừa đây, có vài em viết thư cho chúng tôi ước ao làm người lớn. Làm người lớn sướng lắm chứ, nào được mọi thứ tự do như tự do muốn làm gì thì làm khỏi phải cha mẹ la rầy, ngăn cấm, nhất là tự do tiêu tiền. Làm chủ nhiệm, chủ bút sướng ghê!

Không đâu các em. Tuổi thơ mơ mộng của các em là thời đẹp nhất trong đời người. Các em được tự do nô đùa, không phải nghĩ đến cuộc sinh sống, các em được sống trong tình thương, trong sự trìu mến của mọi người, nhất là của gia đình. Người lớn không có mọi thứ tự do như các em tưởng đâu và trước khi được tự do tiêu tiền, người lớn cần phải làm việc nhiều, vất vả nhiều.

Tuổi thơ là tuổi đáng mến. Tương lai đầy huy hoàng đang chờ đợi các em. Khoa học mỗi ngày mỗi tiến bộ sẽ giúp ích cho các em nhiều hơn. Các em sẽ được hưởng các tiện nghi mà người lớn chúng tôi không còn thì giờ để nhìn thấy. Những ngày sắp tới, biết bao sự phát minh, tìm tòi sẽ làm cho đời sống các em được sung sướng hơn, chẳng hạn các em sẽ được đi du lịch khắp các nước dễ dàng như các em hiện giờ đi chợ hay đi học vậy. Các em sẽ ít bịnh tật hơn, sống lâu hơn. Nếu có bịnh các em chỉ cần ngậm một viên thuốc ngọt như cục kẹo là khỏi ngay.

Vả lại, các em ngày nay thông minh hơn và lanh lợi hơn các trẻ đồng tuổi cách đây hai ba mươi năm.

Khổng Tử khi xưa cũng công nhận kẻ sinh sau thật đáng sợ.

Một hôm ngài đi dạo cùng học trò, gặp một đứa bé lấy gạch vụn xây thành cản lối đi. Ngài bảo: Cháu tránh chỗ cho xe ta qua. Đứa bé đáp: Từ xưa đến nay, xe phải tránh thành, chớ thành nào lại tránh xe. Khổng Tử nói: Cháu còn trẻ, sao ăn nói quỷ quyệt thế? Cậu bé lại đáp: Con thỏ sinh ra ba ngày biết chạy, con cá ba ngày biết lội, con người ba tuổi thì có trí khôn, sao ngài lại cho cháu là xảo trá? Khổng Tử hỏi: Hiện giờ cháu ở đâu, cháu tên gì? Cậu bé trả lời: Cháu ở nơi quê mùa, cháu tên Thác, họ Hạng. Khổng Tử liền mời: Vậy ta muốn cùng cháu đi dạo chơi quanh đây, cháu bằng lòng không? Hạng Thác thưa: Nhà cháu còn cha nghiêm cần phải thờ, mẹ hiền cần phải nuôi, có anh lành cần phải theo, các em nhỏ cần phải dạy, có thầy sáng cần phải học, có rảnh đâu mà đi rong chơi với ngài. Khổng Tử lại tiếp: Vậy trên xe ta có sẵn bàn cờ, ta cùng cháu đánh chơi vài bàn cho vui. Đứa bé đáp: Thưa ngài, vua ham cờ bạc thì nước loạn, chư hầu ham cờ bạc thì việc chính bế tắc, sĩ nho ham cờ bạc thì bỏ luống việc học, kẻ làm ruộng ham cờ bạc thì bỏ buổi cày... Thác này thật chẳng dám vâng lời ngài. Khổng Tử liền nói: Ta muốn cùng cháu bàn việc bình thiên hạ, cháu vui lòng chăng? Hạng Thác lại đáp: Thiên hạ làm sao bình được mà ngài khéo hỏi: hoặc vì có núi cao. hoặc vì có biển rộng, hoặc vì có giai cấp ; bình núi cao thì chim chóc còn chỗ đâu mà ở, bình biển thì tôm cá chết hết còn gì, dứt hết giai cấp thì lấy ai chỉ huy, lấy ai sai khiến? Khổng Tử thấy cậu bé giỏi quá. bèn hỏi thêm nhiều câu khó khăn gấp mấy mươi lần, cậu bé đều trả lời trôi chảy cả. Ông định lên xe đi, cậu bé nói: Nãy giờ, ngài hỏi cháu bất cứ câu nào, cháu cũng trả lời đầy đủ. Giờ đây, xin ngài cho cháu hỏi lại ngài vài điều cho rộng điều hiểu biết. Cháu nhờ ngài giải thích giùm cháu con ngỗng, con vịt nhờ đâu mà nổi được, chim hồng chim nhạn nhờ đâu mà kêu được, cây tùng cây bá nhờ đâu mà xanh tươi suốt bốn mùa? Khổng Tử đáp: Ngỗng vịt nổi được là nhờ chân vuông, hồng nhạn kêu được là nhờ cổ dài, tùng bá xanh tươi luôn là nhờ ruột chắc. Cậu bé có vẻ không thỏa mãn, nói: Cháu sợ không phải vậy đâu. Cá tôm đâu có chân vuông, sao cũng nổi, con muỗi nào có cổ dài, sao vẫn kêu, giống tre và trúc rỗng ruột sao vẫn xanh tươi luôn? Thôi, xin ngài cho biết trên trời có mấy ngôi sao? Khổng Tử liền nói: Chúng ta hãy bàn việc dưới đất cho dễ cháu à! Cậu bé hỏi ngay: Được! Cháu xin hỏi ngài dưới đất có bao nhiêu nhà? Khổng Tử không trả lời, lại nói: Đấy là chuyện xa vời, cháu hỏi việc trước mắt đây thôi. Cậu bé đồng ý: Vâng, vậy lông mày có mấy sợi? Khổng Tử ngán quá, lật đật bước lên xe, nói với học trò: Hậu sinh khả úy.

Các em thân mến,

Các em nên tự hào, đã sanh sau đẻ muộn. Bao nhiêu người, từ thượng cổ đến ngày nay, đều làm việc cho các cháu được sung sướng.

Vậy các cháu hãy cố gắng học hành, vâng lời cha mẹ cùng thầy dạy, ráng trở nên người hữu dụng, tương lai tốt đẹp đang chờ đón các em.


Thân mến,                  
NGUYỄN HÙNG TRƯƠNG    

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 11, ra ngày 24-10-1971)




Thứ Năm, 28 tháng 10, 2021

XIN TRỜI MƯA ĐI QUA - Đỗ thị Hồng Liên

  

  
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Trời còn mưa cho anh không đến thăm 
Ngõ se buồn dăm chiếc lá khô nằm 
Gian nhà nhỏ quạnh hiu cơn bão rớt 
Em đứng chờ cành biếc cũng xa xăm

Xin muộn phiền là mưa trôi qua tay
Em đứng chờ hun hút ngọn thu bay
Mưa ướt ngọn tình cờ che bóng lá
Ngõ vẫn lầy cùng nỗi nhớ quanh đây

Trời còn mưa cho anh không đến thăm
Lòng em buồn nằng nặng một dư âm
Như thời gian đi dần trên phím ngọc
Nghe trống không chẳng biết đến bao lần

Trời còn mưa em xin trời dừng mưa
Anh đến thăm hàng lá mới đầu mùa
Em sẽ thấy nắng vừa hôn ngọn tóc
Cánh biếc về ôm dấu cả buồn xưa 

                                      ĐỖ THỊ HỒNG LIÊN

(Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 32, ra ngày 29-8-1972)




Thứ Tư, 27 tháng 10, 2021

CHUYỆN THẰN LẰN VÀ BÉ - Nhạn Vĩ Anh

 
 

Nhiều lúc bé suy nghĩ vẩn vơ về... con thằn lằn, (các bạn đừng cười bé nha).

Không biết tại sao bé lại mơ con thằn lằn thành... Hoàng Tử, giá có phép mầu nhiệm nào nhỉ. Bé xin kể hết "chuyện lòng" của bé mí con thằn lằn cho các bạn nghe nhá.

Bé tạm gọi thằn lằn là anh ta cho tiện. Anh ta cứ nhìn bé hoài, nhìn không chớp mắt, bé không tin vì tự kỷ ám thị, tại ngày nào cũng như ngày nào, không hẹn mà gặp, đôi lúc miệng anh ta mấp máy định nói gì với bé, khổ một nỗi chả nghe được gì. Bé phục anh ta kinh khủng, đớp mồi lia lịa, giá anh ta ăn ô mai hoặc me được, bé cũng cho anh ta ăn từ khuya rồi. Các bạn biết không, cứ mỗi lần xuống bếp là thấy anh ta lù lù bò ra và nhìn bé trân trồi, làm bé cũng... mắc cỡ chứ bộ.

Hôm kể cho Thoại Lan nghe, nhỏ ấy phát cười như điên dại. Nó bảo:

- Lâu lâu nhà ngươi cho ta một trận cười đã đời quá.

Bé tức nhỏ ấy ghê, đem hết tài biện luận để bênh vực lý lẽ của bé. Sau cùng nhỏ ấy nói:

- Thế thì mơ rắn biến thành Hoàng Tử dễ hơn (vì chuyện ấy có thật).

- Ở giữa thành phố này tìm đâu ra rắn mà mong, vả lại mới nhìn thấy đã chạy vắt giò lên cổ rồi còn đâu.

- Vậy chọn chim khuyên của nhà mi đó, được lắm đấy.

- Không, chim khuyên là con gái, chim khuyên biến thành công chúa.

- Ờ nhỉ!

Hôm sau, chuyện bé mơ thằn lằn biến thành Hoàng Tử được phổ biến rộng rãi trong tầng lớp dân... kịp tóc. Bé quê quá đi thôi, lúc nào cũng bị chọc ghẹo. Rồi tự cảm thấy mình kỳ kỳ, có ai giống bé đâu, mắc cỡ ghê nơi.

*

Bé đem tập ra làm toán, cầm bóp viết trên tay ngắm nghía, cô bé sao dễ thương ghê nơi, đôi mắt đen láy thật to, bé hôn lên mắt cô ấy. Ủa! Có cái gì nhúc nhích trong ấy vậy, bé mở vội ra xem:

- Ái! Trời ơi! Mẹ ơi! Mẹ...

Thật là bất ngờ, con thằn lằn nhảy vọt ra ngay dưới chân, bé cuống quýt nhảy tránh suýt té. Vừa lúc đó, có tiếng cười của ông Duy, chú thằn lằn bò đâu mất. Mẹ lên:

- Gì thế Duy, Thu sao đó?

Bé lập bập chả nói được.

Ông Duy cười một lúc rồi nói:

- Con không biết! Vừa vào đây thấy mặt nó xám ngắt, run bây bẩy, miệng thì bải hải như khi gặp... thằn lằn.

Bé tức quá, òa khóc và nói:

- Mẹ, anh Duy bắt thằn lằn bỏ vào bóp viết con...

Có lẽ mẹ đã hiểu tự sự.

- Thằng Duy lúc nào cũng vậy, thôi nín đi, để mẹ vào làm bánh Flan cho con ăn.

- Đừng cho anh Duy ăn nghe mẹ.

Mẹ vào bếp, còn mỗi ông Duy nhe răng nhìn bé cười, tức kinh khủng là tức, bé nhất định trả thù:

- Chiều nay, gặp chị Thảo em méc cho coi, đã bốn mắt mà còn lộn xộn, rồi biết tay chị Thảo.

Dĩ nhiên là màn năn nỉ, ỉ ôi được diễn ra và phần lợi về bé. Một chầu bò bía, ciné chiều thứ bảy.

Thỉnh thoảng nhắc lại chuyện đó, anh Duy lại nói: "Hoàng Tử của nhà mi mà mi không thương à!" Bé thấy thẹn thùng làm sao.

*

Đến nay anh ta vẫn còn hay nhìn bé như ngày trước (anh ta không phải là chú ở bóp viết nhảy ra đâu nha).

Đôi lúc bé nghĩ: Nếu anh ta biến thành người thật. Rồi một ngày nào đó, một "đấng con trai" gặp bé. Bé sẽ hỏi:

- Anh thoát xác thằn lằn rồi à, bao giờ thế?

"Đấng con trai" kinh ngạc:

- Cái chi kỳ cục vậy! Tôi có là thằn lằn bao giờ đâu, có lẽ cô bé nhầm cũng có phần đúng vì kiếp trước tôi là... thằn lằn...

*

Nhỏ Thoại Lan không tin có chuyện thần thoại xảy ra ở thời đại này, mỗi lần gặp là nhỏ ấy đem chuyện thằn lằn ra nói:

- Ai đời sợ thằn lằn mà lại mơ tưởng đến... thằn lằn.

Bé cãi hắn kịch liệt. Sắp sửa giận nhau nếu không có ông Duy.

Bé vẫn chờ ngày thằn lằn biến thành Hoàng Tử. Bé vẫn tin có thật để trong giấc mơ bé thấy Hoàng Tử đến với bé rồi bé kêu "Hoàng Tử ơi"...


NHẠN VĨ ANH      

(Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 11, ra ngày 3-10-1971)


 

Thứ Ba, 26 tháng 10, 2021

CON THẰN LẰN - Trang Thy

  
Trong đời nầy, có lẽ bé sợ nhất là con thằn lằn hay thạch sùng cũng thế. Eo ôi! Trông phát khiếp đi thôi. Nhất là sờ vào làn da mềm của nó bé mọc ốc cùng mình.

Trưa nay. ba mẹ đã đi xi nê với bé Thạnh rồi. Chỉ còn bé, anh Khải và cu Tý ở nhà thôi. Buồn quá, bé lấy viết vẽ "chấm phá" vài nét. Cu Tý nhìn thấy, nó ngỡ là bé viết bài đăng báo nên lại lấy giọng "oanh vàng" ca lên "Em mới mười hai chưa biết mộng mơ". Bé nạt nó: "Xí, rồi tức không?" Anh Khải lại xuất hiện: "Chuyện chi thế?". Bé im lặng. Bé biết anh em nhà :hắn" tức bé lắm. Lần trước, né bắt chước chị Phương Vy "tả thực" chuyện của hai anh em, làm thế mà may thay cũng được đăng báo khiến nhà "hắn" bị "quê" một bữa... Nên bây giờ, mỗi lần thấy bé sáng tác là anh Khải lại tìm cách "phá đám".

Bỗng cu Tý kéo anh Khải xuống nhà dưới. Ý hẳn muốn "đại náo" garde manger đây mà. Nhưng thôi Bé không thèm rình vì Bé còn đợi ông phát thơ. Một tây rồi, lát nữa sẽ có Tuổi Hoa. Có tiếng "cót két" của chiếc xe đạp, ông phát thơ tiến đến nhà bé rồi ngừng hẳn. Thế là Bé "chộp" được Tuổi Hoa.

Tha hồ mà xem. Cha, hôm nay lại có mục "Đồng cỏ non" nữa chớ. Bé phải đi thăm mới được.

Bé chưa đọc xong bài nào thì tiếng cu Tý đã vang lên:

- Anh Khải ơi! Có báo Tuổi Hoa rồi nè.

Bé giật mình. Giọng anh Khải "dịu dàng":

- Nầy, Bé cho anh xem tí nào.

Bé quên không nói là nhà Bé, ai cũng mê Tuổi Hoa hết á. Mỗi lần có báo thì anh Khải xem trước, đến Bé, em Tý rồi đến bé Thạnh.

Nhưng lần nầy... Bé vẫn còn ấm ức chuyện anh Khải ăn hiếp khi nãy nên trả lời:

- Bé không biết mộng mơ thì Bé xem Tuổi Hoa chớ gì.

- Thôi mà, cho anh mượn tí đi. Chóng ngoan...

Bé không nói gì, đôi mắt và đôi tay nắm chặt quyển Tuổi Hoa vì Bé sợ mục "giựt đại rồi ra sao thì ra" của anh Khải. Đã có một lần anh Khải giựt rách của Bé một quyển Tuổi Hoa. Thế là... phải đền.

Dùng chiến thuật "dụ khị" không được, anh Khải và cu Tý thì thầm to nhỏ rồi hai anh em chạy ra nhà sau. Muốn nhát ma Bé đây mà. Bé không sợ đâu!

Thế rồi Bé lại say sưa theo dõi mục "Đồng cỏ non". Tiếng cu Tý vang lên:

- Này, chị Kim xem cái này nè. Xinh lắm.

Bé quay đầu lại. Eo ôi! Con thằn lằn!

- Anh Khải bảo đem con nầy cho chị Kim đó.

Bé hét to:

- Cu Tý có quăng đi không?

Cu Tý cười. Anh Khải lên tiếng:

- Thì Bé đưa Tuổi Hoa cho anh đi.

Bé tức đến ứa nước mắt. Vừa tức, vừa sợ nhưng Bé gan lì, không thèm nói gì.

Anh Khải dọa:

- Bé không đưa thiệt há.

- Thiệt, ai biểu anh...

- Cu Tý, thi hành đi.

Cu Tý chậm chạp tiến đến Bé, con thằn lằn trong tay nó còn ngo ngoe trông khủng khiếp. Bé hét to:

- Cu Tý...

Anh Khải hối thúc:

- Cứ việc xông tới đi. Có anh đây đừng sợ chi cả cu Tý.

Người Bé nóng lên. Mồ hôi tuôn ướt áo. Cu Tý vẫn tiến bước và thình lình nó quăng mạnh con thằn lằn vào mình Bé. Bé chỉ kêu lên một tiếng "oái" rồi không biết gì nữa.

Khi mở mắt ra, Bé bắt gặp khuôn mặt lo lắng của me:

- Bé có sao không? Me lo quá.

Tủi thân, nước mắt Bé tuôn như mưa. Me dỗ dành:

- Thôi, nín đi con. Cu Tý bị ba phạt kia kìa.

Bé liếc mắt quanh phòng thấy cu Tý đang quỳ gối, miệng mếu máo. Còn anh Khải thì đang nghe ba giảng "luân lý".

Bỗng nhiên Bé cảm thấy tội nghiệp cho cu Tý quá. Bé muốn lại năn nỉ ba tha tội cho cu Tý ghê cơ. Nhưng trông gương mặt giận dữ của ba, Bé sợ sợ là.


Trang Thy      

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 79, ra ngày 15-10-1967)


 

Thứ Hai, 25 tháng 10, 2021

CON NGỰA GỖ - Nguyễn Minh Duệ

 
 
Con Thúy cứ đứng nhìn mãi con ngựa gỗ mà mẹ nó mới mua ở chợ về. Mình nó đầy những đốm đen, đốm đỏ. Bốn vó của nó thẳng băng, mà lại cụt ngủn thành ra trông nó lùn tịt. Bên dưới được nối liền với hai đường cong làm cho con ngựa nhún nha nhún nhẩy.

Con ngựa nầy tuy giống con ngựa thật lắm, nhưng đặc biệt là hai lỗ tai của nó được thay thế bằng hai khúc cây dùng làm tay cầm. Lần đầu tiên ngồi lên nó, con Thúy chưa biết gì nên sợ hãi. Nó nắm hai cái tay cầm đẩy tới trước, tưởng đâu chạy như ngựa thật chẳng ngờ... con ngựa chúi đầu xuống đất rồi lại ngửng đầu lên hất nó xuống đất. Nó nhìn lại con ngựa với sự bực tức không ít. Nó đứng dậy, kéo lỗ tai con ngựa xuống, định cho con ngựa chúi nhủi. Bất thình lình, con ngựa hất cái đầu lên làm cho nó lại một phen hoảng sợ, nó bỏ vào nhà mách mẹ:

- Thôi mẹ ơi, con hỏng thèm chơi với con ngựa mất dạy đó đâu, con đánh nó, nó hỏng té, mà làm cho con sợ nữa mẹ à!

Mẹ nó mỉm cười:

- Thế làm sao con đánh nó?

Con Thúy ra chiều nũng nịu:

- Con ngồi lên nó, đẩy cho nó chạy nó lì quá hỏng thèm chạy, hất con xuống đất!

Mẹ nó vuốt đầu nó, dịu dàng bảo:

- Nó là ngựa gỗ, làm sao chạy được? Nó chỉ biết nhún tới nhún lui thôi con à!

- Vậy hả má! Ngộ quá hén?

- Ờ!

Nó buông tay mẹ nó ra, chạy lại chỗ để con ngựa gỗ. Nó cẩn thận leo lên lưng ngựa, nắm lấy tay cầm và đẩy mạnh. Theo đà tay nó con ngựa lắc đều làm nó thích chí:

- Mẹ ơi ra mà coi con cỡi ngựa nè!

Mẹ nó đang nấu cơm, nghe gọi chạy ra:

- Đó! Con thấy chưa! Ấy coi chừng té!

- Gió mát quá, con thích ghê! Thế nầy con chấp tụi con Lệ, con Thu nghỉ chơi với con đó!

Hai mẹ con nó cất tiếng cười vang...
 
*
 
Từ hôm có con ngựa gỗ con Thúy chẳng thèm ra khỏi nhà. Tối ngày nó cứ giữ khư khư con ngựa gỗ bên cạnh chẳng lúc nào rời, ngay cả lúc ngủ cũng vậy...

Một hôm nó đang cưỡi con ngựa gỗ thì mẹ nó gọi vào dùng cơm.

Nó leo xuống đất, lôi con ngựa vào nhà, rồi một tay bưng cơm, một tay giữ ngựa, nó vừa ăn vừa cưỡi ra chiều thích thú lắm. Có lẽ vì con ngựa, mà tụi con Thu, con Lệ ghét nó. Tụi nầy lợi dụng nó không đề phòng liền ném một cục gạch vào chân con ngựa. Khi con ngựa đạp nhằm, tay cầm chén của nó bị lỏng, thế là cái chén rơi xuống đất vỡ tan. Con Thúy tức giận nhặt ngay cục gạch ấy ném vào đầu con Thu, phun máu. Và chúng bắt đầu nghỉ chơi với nhau.

Lần lần, sự ghen ghét nầy đi đến ghen ghét khác, con Lệ, con Thu rắp tâm trả thù con Thúy...

*

Hôm nay con Thúy và chị Hai đi xem lễ 20-7, chỉ có mình mẹ nó ở nhà.

Đang lui cui thổi cơm, mẹ nó bỗng nghe tiếng gỗ bị đập chan chát ở trên phòng con Thúy:

- Biết đâu chừng con ngựa của nó bị... 

Bà nghĩ như thế và vội vã chạy lên nhà. Cửa phòng con Thúy vỡ toang, bóng con Lệ và con Thu vụt qua khiến mẹ nó chú ý.

- Hình như tay tụi nó cầm búa thì phải?

Bà lẩm bẩm bước vào phòng con: trên mặt đất con ngựa gỗ đang nằm dài, bốn chân của nó đứt tiện nằm lăn trên mặt đất. Lặng yên trong giây lát, mẹ nó mới hoàn hồn quay trở xuống bếp.

Nồi cơm vừa được thổi xong, mẹ nó vội vã rời bếp, lấy búa và đinh vào phòng con để đóng lại con ngựa. Bốn chân gỗ được gắn vào và khoảng chừng ba mươi phút sau, con ngựa gỗ đã được như cũ. Tuy nhiên, lớp sơn bên ngoài đã bị tróc đi quá nửa.

Không muốn con mình buồn, bà lấy sơn ra, sơn lại, con ngựa gỗ đã hoàn toàn đổi sắc. Mẹ nó xoa tay đứng lên, nhìn con ngựa, gật gù ra vẻ hài lòng lắm.

*

Đi xem lễ về, con Thúy chưa kịp thay áo, chạy ngay vào phòng kéo con ngựa gỗ ra. Nó ngạc nhiên không ít khi thấy con ngựa của nó đã hóa thành màu xanh đậm. Nó leo lên cỡi thử thì thấy chân ngựa hơi yếu. Nỗi lo lắng đã tăng lên tột độ trong lòng nó, nó chạy xuống bếp để hỏi mẹ:

- Mẹ ơi! Sao hôm nay con ngựa của con nó đổi màu và yếu chân thế hở mẹ?

- Mẹ không...

Mẹ nó định nói "không biết" nhưng thương hại con, bà thuật lại đầu đuôi tự sự. Từ chuyện con Lệ, con Thu đập chân ngựa đến chuyện bà sơn lại màu, nhất nhất bà chẳng giấu điều gì.

Nghe xong con Thúy khẽ nhăn mặt, nó mở rào và chạy nhanh qua nhà con Lệ, con Thu.

*

Khi nghe mẹ con Thúy nói về những hành động xấu xa của con mình, bà Tám liền lôi hai con Lệ và Thu ra để trị tội.

Trước mặt mẹ Thúy, hai đứa nó chẳng dám giấu chuyện gì, bèn khai ra tất cả chuyện mà chúng đã làm. Bà Tám nghe xon liền căng hai đứa nó ra đánh cho mấy cái. Mẹ của Thúy phải năn nỉ mãi, bà ta mới thôi đánh. Bà Tám cũng ngỏ ý mua đền con ngựa khác, nhưng mẹ của Thúy không chịu. Lúc mẹ của Thúy đã ra về, bà Tám mới gọi con lại và khuyên nhủ vài điều. Tụi con Lệ, con Thu bỗng cảm thấy hối hận, hai đứa nó chạy sang nhà con Thúy để xin lỗi...
 
*

Từ hôm ấy, mỗi lần cỡi ngựa, con Thúy thường gọi Lệ và Thu sang chơi chung. Sự yêu thương nhau đã bắt đầu nẩy nở trong cõi lòng của ba đứa con gái ấy...


Nguyễn-Minh-Duệ       
(Nhóm Hướng Mới)       

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 55, ra ngày 15-10-1966)
 


Chủ Nhật, 24 tháng 10, 2021

NÀNG THU - Thơ Thơ

 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Nàng Thu mắt biếc xanh
Như mây lướt qua mành
Giữa khung trời trăng sáng
Thêu vì sao long lanh

Nàng Thu dáng liễu mềm
Mơ màng chiều thu êm
Áo lụa  bay theo gió
Ôm vạt nắng chiều nghiêng

Nàng Thu hé môi cười
Đóa hoàng cúc xinh tươi
Gió lùa qua khóm lá
Làn nước lững lờ trôi

Nàng Thu tóc mây bay
Xinh xinh cánh hoa cài
Từng giọt đàn thánh thót
Nhẹ rót xuống hồn ai

Nàng Thu ngón tay thon
Như cánh bướm nhẹ vờn
Những nụ hồng thanh thoát
Cho kỷ niệm còn  vương

Nàng Thu, nàng Thu ơi
Bao vòng quay cuộc đời
Thu lại về hạnh ngộ
Dù năm tháng còn trôi...

                            Thơ Thơ
                  (Bút nhóm Hoa Nắng)


Thứ Bảy, 23 tháng 10, 2021

CHỊ LỤA - L.t. Lạc Thủy

  

Lâu lắm rồi, từ trong vùng xa mờ kỷ niệm, ngày đó em còn bé quá, không đủ để nhớ rõ ràng chuyện ngày xưa.
 
Hồi đó, nhà em chật vật. Tuổi thơ tụi em không gần gũi nhiều với ba má. Bởi ba má em còn lo làm ăn nuôi con cái. Chẳng hiểu sao đang lúc ấy, nhà đang nghèo mà còn nhận nuôi một người con người quen, chị Lụa, nếu em nhớ không lầm, vì không lâu lắm thì chị xa gia đình em luôn đến bây giờ. Nhưng không phải má nuôi chị mà là tiện dịp chị giúp việc nhà, nấu cơm, trông chừng em, giữ bé D.. Khối công chuyện cho chị, thật nhọc.

Lâu quá rồi không ai gặp chị - mười mấy năm nay - thỉnh thoảng những câu chuyện khơi dĩ vãng, ba má em không quên nhắc nhở đến chị. Năm trước nghe đâu quê chị phải chạy loạn, có người nói má chị Lụa chết trên đường tản cư. Còn chị, chẳng biết ra sao. Nếu giờ chị còn sống, chắc cũng có gia đình, hai ba bé nhỏ... vì tuổi chị cũng chừng ba mươi - cái tuổi cũng sắp già rồi, làm người lớn.

Vâng! Người lớn ngày đó, với em thì chỉ có chị Lụa. Suốt ngày chỉ quen mặt chị Lua. Em vòi vĩnh, em chơi đùa, khóc lóc... gì cũng với một mình chị Lụa. Và một mình chị lo đủ thứ cho em: ăn cơm, quà, tắm rửa, tối em ngủ với chị... Mà phải chỉ mình em thôi sao, còn nhỏ D. nữa, mới bốn năm tháng, còn tí xíu. Chị phải giữ suốt ngày, pha sữa, dỗ ngủ, bế đi chơi... Và còn hằng bao công việc nữa: nấu cơm, giặt đồ, lo nhà cửa... Ba má giao cho chị hết.

Mà bây giờ em cũng không hiểu sao khi xưa chị Lụa chịu sống dưới một cái nhà với bao nhiêu là cực, là khổ như vậy. Ba má em hình như đôi lần cũng thắc mắc, ba bảo, với lại lúc đó bù đầu vào công việc, lo nợ nần thành thử ba không để ý. Má nói, chưa có dịp đền ơn chị ấy, nếu hồi đó không có chị thì tụi em đã bị gửi vào viện sống đỡ rồi...
 
Chị Lụa, em cũng không nhớ rõ từng điểm về chị. Chỉ lờ mờ nhớ là chị xấu, không có một cái gì là đẹp hết. Chị thật là đen, tóc dài, chân chị hình như có vài nốt ghẻ nhỏ nhỏ, và ở đâu đó trên khuôn mặt chị có một nốt ruồi thật to, nhưng khó làm người ta để ý, vì màu da của chị. Chị xấu, nhưng hiền, thật là hiền, em nhớ là chị không quen ai hết ở gần nhà hồi đó. Và có điều là chị hay khóc. Ngày đó em không đủ trí khôn để nghĩ rằng những đêm em nằm bên nghe nước mắt chị lăn xuống ấm tay em, và thỉnh thoảng chị nấc lên một tiếng nhỏ nghẹn ngào dù cố giữ, là chị đang có chuyện buồn. Em đâu hiểu cho chị. Em ngồi dậy lay chị và hỏi, để sau đó nghe chị vỗ về rồi ngủ tiếp.
 
Sau này, em mới nghĩ ra chắc hồi đó chị hay có chuyện buồn lắm, mới khóc như vậy. Chị khóc thường lắm mà toàn là ban đêm. Nhưng ban ngày thì chị vẫn ít cười, ít nói. Chị hiền, thật thà dù nhân dáng xấu. Má hay nói tướng chị chắc khổ suốt đời, mỗi lần nhắc chị...

Chị Lụa! Mười mấy năm, âm đó chỉ để nói chứ không có gọi đó chị! Em nhớ hồi đó cứ suốt ngày kêu chị Lụa...!

Chị Lụa, em cũng không nhớ là hồi đó chị có nói là chị biết đọc không nữa (?) Em vái sao cho chị hồi nhỏ có đi học. Và với một tình cờ chị đọc được mấy dòng này... Em không biết sẽ... là những gì sau đó nữa (?) Chắc chị sẽ cười... Hồi nhỏ em ít thấy chị cười. Mà cũng không biết là chị có khổ như lời má em nói không?

Mười mấy năm rồi còn gì... Mỗi lần nhắc chị là mỗi lần em hối hận và nao nao...

Dù gì kỷ niệm tuổi nhỏ của em cũng có bóng dáng chị, dù xấu, dù chẳng dễ thương... nhưng chị hiền và thương tụi em...


L.t. Lạc Thủy (Gò Công)    

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 58, ra ngày 1-10-1972)
 



Thứ Sáu, 22 tháng 10, 2021

THU - Trịnh Công Truyền

 


Rồi mùa thu về mưa giăng, heo may
Lá úa rơi rơi héo hắt từng ngày
Con đường hun hút dài xa lối thẳm
Hồng nắng soi từng màn lá non thay

Mỗi độ lá vàng theo hương gió đưa
Viền mắt tuổi xanh thương mấy cho vừa
Chim hót tan mùa cây cao rụng lá
Khúc nhạc u sầu như cõi xa xưa

Đưa tiễn hạ về non cao thâm u
Giao tiếp qua thu đỉnh núi sương mù
Bóng nhỏ ngút ngàn chưa phai mơ ước
Thoang thoảng phượng buồn gợi nhớ tâm tư

Và dáng thu về êm êm như thơ
Để thấy bâng khuâng vây kín mịt mờ
Như ai đem cho sầu thương nỗi nhớ
Theo bóng mưa về réo gọi thu mơ

                                TRỊNH CÔNG TRUYỀN
                                     Bút nhóm : Sương Đêm

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 55, ra ngày 11-9-1972) 






Thứ Năm, 21 tháng 10, 2021

MẸ - Nguyễn Thái Hải

  

 
 
 
 
 
 
 
 
 
Mẹ ru con nồng giấc
bằng câu hát ca dao
đưa hồn lên cao ngất
hòa nhịp điệu ngọt ngào
 
Mẹ nhìn con đùa giỡn
với hồn trẻ vô tư
mong ngày con khôn lờn
đừng đánh mất tuổi thơ.
 
Mẹ ngồi im vá áo
thoăn thoắt đường chỉ kim
như tín đồ ngoan đạo
một lòng vững niềm tin.
 
ngày tóc mẹ điểm sương
đêm mắt mẹ u buồn
trưa bờ môi run rẩy
chiều gọi tiếng con thương
 
nếp nhăn trán mẹ đấy
gợn hy vọng mẹ ươm
vào con khờ nhỏ dại
chóng nên người hiền lương.
 
Mẹ, ngày nào ru con
Mẹ, bây giờ u buồn
với tuổi đời chồng chất
nghẹn ngào con nói thương...
 
                       NGUYỄN THÁI HẢI
                                 (Biên-Hòa)
 
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 103, ra ngày 1-4-1969) 


 

Thứ Tư, 20 tháng 10, 2021

KÝ ỨC NGÀY XANH - Trần thị Phương Lan

  

Tôi  không biết trí nhớ con người vận hành ra sao. Tôi cũng chẳng quan tâm đủ để đi tìm tòi, nghiên cứu về nó. Thế nên tôi chỉ có vài khái niệm cá nhân sơ sài, rằng khi còn quá nhỏ, trí nhớ chúng ta có thể chưa hình thành, và khi ta lớn lớn hơn chút nữa khi não bộ bắt đầu phát triển, thì trí nhớ ta có lẽ chỉ nhớ những điều nó muốn nhớ. Nếu không thì tại sao có những điều ta lại nhớ khá rõ ràng dù sự việc xảy ra đã rất lâu, nhưng những việc xảy ra gần đây hơn thì ta lại chẳng nhớ gì cả?

Điều đầu tiên trong đời tôi còn nhớ tới tận bây giờ lúc tôi chỉ khoảng hai tuổi, đó là lần đầu tiên tôi biết nhận diện ra má tôi, trong số nhiều gương mặt phụ nữ đang đi tới đi lui trên căn gác ọp ẹp, là nhà tôi lúc đó. Tôi còn nhớ mình nằm trên bộ ván gỗ, tay ôm chiếc gối ôm, nhìn ra má và tự nói với mình rằng, kìa là má mình đó, cái người phụ nữ hiền hậu nhứt trong số những người kia, đó là má mình! (Nhưng càng về sau tôi càng thấy rằng ý kiến đầu đời đó của tôi chỉ là một ảo tưởng, hay ảo giác, ảo ảnh gì gì đó thì cũng rứa, vì càng về già má tôi càng  dữ, nhất là sau khi ba tôi qua đời! Chắc khi ba tôi còn sống, má tôi chỉ giả bộ hiền hậu làm màu để ba tôi thương mà thôi! Hí hí!  Sau này có lần một anh thanh niên chắc làm việc quanh xóm nói với tôi rằng, bà cụ hiền quá nhỉ! Lúc đó lòng tôi rất muốn nói với anh ta rằng, tại anh không biết bà cụ đó thôi!)

Điều thứ hai tôi còn nhớ được về tuổi ấu thơ của mình, là khi má tôi đưa cho tôi bình sữa uống dở của thằng em út, và tôi đã cố leo lên cái bàn gỗ cao để nằm "măm măm" chỗ sữa thừa đó một cách ngon lành. Từ đó về sau, hễ bé út nằm bú sữa trên bộ ván gỗ là tôi sẽ ra nằm ngay bên cạnh, chỉ chờ nó lơi tay  buông bình sữa ra một chút thôi là tôi sẽ giành ngay lấy để uống nốt! Thật là đáng xấu hổ, vì  làm chị mà không biết thương em, lại đi giành ăn của em mà không biết mắc cỡ. Nhưng lúc đó có lẽ tôi còn quá nhỏ, và nhà tôi lúc đó có thể cũng nghèo.

Trước đây khi cả nhà còn đông đủ, tôi thường hay ví gia đình tôi giống như Nhà Mẹ Lê trong truyện ngắn của Thạch Lam:  một bầy nheo nhóc, lăn lóc như những củ khoai lang; nhưng chỉ với ý hài hước, bông đùa thôi chớ không có ý gì khác. Điều thứ ba tôi còn nhớ nổi về thuở nhỏ là ban đêm, tôi ngủ chung với má, em út, và anh trai kế, trên bộ ván tôi đã nhắc tới ở trên. Anh tôi rất đẹp trai, nhưng khi ngủ lại rất xấu nết. Có lần khi đang ngủ, tôi còn bị anh tôi trong vô thức đạp té lăn xuống sàn! Tôi cứ nằm  đó trên sàn gác gỗ, tai nghe tiếng bầy muỗi háu đói vo ve, cảm thấy cái lạnh dần thấm vào người, nhưng nhất quyết không chịu nhúc nhích, vì có ý chờ má tôi thấy thiếu vắng tôi sẽ đi kiếm rồi ẵm tôi lên. Nhưng chờ mãi chẳng thấy động tịnh gì, tôi bèn tự lồm cồm bò lên giường ngủ tiếp. Từ đó về sau, tới giờ ngủ là tôi sẽ kiếm chỗ nằm cách anh kế tôi càng xa càng tốt, để khỏi bị mất giấc ngủ một cách phũ phàng lần nữa. 

Ở giường sắt mé bên kia, ba tôi vẫn đang nghe radio trong bóng tối. Tôi vẫn còn nhớ mãi bài hát Việt Nam Hùng Tiến của Thẩm Oánh, chắc được dùng làm nhạc hiệu cho một chương trình nào đó, thường xuyên được phát vào cùng một giờ, khi tôi bắt đầu thiu thiu ngủ, nhưng tai vẫn nghe loáng thoáng bản hùng ca đó, thật hay khiến tôi ghi nhớ tới tận bây giờ:

Đây là lúc Quốc Dân hùng tiến Cờ Việt từ nay phơi phới ngang trời cao Vì giang sơn máu pha tô sông đào Hồn muôn anh dũng vết thương nay quyết liền Bao thời u buồn Nhà Việt lầm than nguy khốn Nào ai con cháu Tiên Rồng Một lòng vì giống nòi Nam Quốc dân ơi ta cùng tiến lên đi Nước non đang chờ gót nam nhi Vời trông ngàn xưa đời bao danh tướng Quyết mau ta hùng cường...

Vì má tôi bận buôn bán, không thể tự tay chăm sóc con cái, nên tụi tôi mỗi đứa đều có vú nuôi riêng. Một hôm khi trời vừa sập tối, U Già, vú nuôi của tôi, tay dắt tôi, tay kia ẵm thằng út vô hẻm chơi. Vừa mới quẹo vô hẻm, U Già đã hỏi tôi rằng, bé Lan có thương u không! Lúc đó tôi chỉ biết rằng mình phải trả lời hoặc là Có hoặc là Không, nhưng tôi lại không hiểu ý nghĩa của hai chữ đó (lúc đó tôi còn nhỏ xíu mờ!) nên tôi trả lời đại là Không cụt lủn. Ai dè U Già vì tự ái hoặc buồn giận nên đã bồng thằng út chạy tuốt sâu vô hẻm, bỏ mặc tôi một mình vừa khóc ầm ĩ vừa chập chững  chạy theo, càng đi xa càng lạc lối về. Cứ thế tôi vừa đi loanh quanh trong xóm vừa khóc hu hu, mặt mũi tèm lem nước mắt. Giá như lúc đó tôi lớn khôn hơn chút nữa thì tôi chỉ cần quay 180 độ là đã thấy ngay đầu hẻm, gần nhà. Dù gì đi nữa thì trong lúc cố chạy theo U Già, tôi đã tình cờ đi ngang qua nhà bà cụ bán gạo và tạp hóa như than củi, xà bông, đèn cầy... mà má tôi vẫn mua theo kiểu suốt tháng ghi sổ, cuối tháng tính sổ trả nợ một lần cho tiện. Chị Hai làm công cho bà vì vẫn đến nhà tôi giao gạo nên chị biết mặt tôi, đã dắt tôi về "cố quận" trao trả tận nơi yên lành, không bị xây xát gì. Sau này nghe các anh tôi kể lại rằng, U Già, người Huế, tuy là phụ nữ nhưng hay uống rượu; và u chỉ thương một mình tôi thôi chớ không quí ai khác trong gia đình tôi. Chuyện! Vú nuôi của đứa nào thì chỉ thương đứa đó thôi là đúng rồi, bàn cãi gì nữa?

Năm má tôi vừa mới sinh thằng em út, vừa phải  trải qua một cuộc giải phẫu, vừa mắc phải bịnh nan y, mà vẫn phải hàng ngày buôn bán nuôi gia đình, nên bà rất mong tới giờ nghỉ trưa để được nghỉ ngơi chút ít. Nhưng vì còn nhỏ, tính lại hay nhõng nhẽo, bám váy mẹ, nên thấy bà lên gác nghỉ, tôi mừng lắm. Trước khi giở trò khóc nhè, nhèo nhẹo đòi bồng bế, tôi đã cẩn thận (hay láu cá?) nhìn qua lỗ thông gió ngó lên nhà trước, khi thấy ba tôi không có mặt ở nhà, tôi mới yên tâm cất bài ca mè nheo, khóc lóc, đòi được má để ý; vì nếu không tôi đã bị ba tôi cho ăn roi, vì ba tôi vốn nổi tiếng (hay khét tiếng?) là rất dữ đòn. Mệt nhọc thêm khi nghe tôi khóc lóc, má tôi mũ ni che tai, quay lưng vô vách; nhưng bà càng làm thinh, tôi càng khóc dữ. Được một lát thấy nhõng nhẽo suông không mục đích chẳng mang lại kết quả gì, tôi bèn quay sang đòi uống nước. Lúc này má tôi mới cất giọng gọi chị bếp. Chị bếp nói nước hết rồi chị phải đi nấu nên tôi phải chờ. Thêm một màn khóc lóc nghe mà muốn "đứt guột" khi chị bếp mang lên ly nước sôi còn nóng hổi. Tôi nhừa nhựa kéo dài giọng kêu gào, nước nóng quá, nóng quá. Và chị bếp lại phải một phen mỏi tay quạt cho ly nước nguội hẳn. Thật ra, nước non đâu phải thứ tôi cần. Tôi chỉ muốn được má nựng nịu thôi, nên những thứ mà tôi luôn miệng đòi hỏi chỉ là những cái cớ. Tội nghiệp cho những người xung quanh tôi, phải chịu đựng cái khó tính trái nết của tôi lúc bấy giờ.

Có lần anh em tụi tôi tụ tập hết lên trên tấm phản để chơi một trò chơi do anh hai tôi mới sáng tác, tên là Cẩm Nhung. Thời đó chẳng ai là không biết vụ việc cô vũ nữ Cẩm Nhung bị tình địch tạt acid, kể cả lũ con nít tụi tôi. Đứa bị làm Cẩm Nhung sẽ đứng dưới đất, cố quơ trúng những đứa trên giường, đứa nào né không kịp, bị quơ trúng sẽ bị bắt phải rời giường xuống đất làm Cẩm Nhung thay thế cho đứa kia. Đang chơi hào hứng, tôi bèn "xí" để xuống nhà xin má tôi kẹo ăn.Tôi ra dấu gọi má, lúc bà đang cùng với ba tôi thù tiếp rất đông khách khứa. Nghe tôi ỉ eo xin xỏ, bà bèn lấy hộp kẹo tây ra cho tôi một viên. Nhưng vừa đi lên cầu thang gỗ vừa bóc vỏ kẹo thì có lẽ vì trời mưa, bậc thang gỗ trơn trợt khiến tôi xém té nên đã đánh rơi chiếc kẹo lọt qua khe những bậc thang rồi rớt xuống thùng rác dưới gầm cầu thang! Trở xuống xin má tôi viên khác nhưng bị bà lắc đầu từ chối, tôi đành tiu nghỉu lên chơi tiếp trò Cẩm Nhung, khi về vẫn chẳng có chút xíu kẹo nào y như lúc ra đi! Gần đây tôi có coi một đoạn clip chiếu một bà má tây đang tiếp khách bị thằng con quấy rầy, xin bánh ăn. Sau khi cho con thứ nó muốn, bà má tây kia còn thòng theo một câu, đừng làm phiền má nữa! Kết luận:  Đông hay Tây, con nít đều như nhau!

Má tôi bận rộn, bịnh hoạn như vậy, nhưng vẫn còn một bổn phận nữa bà phải hoàn tất, đó là dạy tôi học đánh vần. Thỉnh thoảng tôi từ trên gác chạy xuống, chỉ vào một chữ nào đó trong cuốn Mẫu Tự (hoặc cuốn Đánh Vần Mau gì đó) có bìa màu cam, và má tôi sẽ lập đi lập lại chữ đó hai ba lần cho thấm vô đầu tôi, rồi tôi sẽ chạy trở lên gác ngồi nhai đi nhai lại chữ đó nhiều lần, miệng gào to những nhóm chữ đánh vần muốn trẹo lưỡi như ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, ngoắt ngoéo...Nhớ lại, tôi thấy má tôi cứ lặng lẽ lê bước quanh nhà làm công chuyện, chẳng nói chẳng rằng, và chỉ mở miệng khi tôi hỏi bài mà thôi. Lúc đó bà đang đau nặng, mà tôi thì còn con nít  nên vô tâm vô tình chẳng hiểu  biết gì.

Lẽ ra tên tôi đã là Phục Linh, tên một món chè, nghe hơi xa lạ nhưng hóa ra chỉ là món sương sáo tầm thường. Trước đây trong các tiệc cưới, người xưa thường có khuynh hướng chọn những mỹ danh nghe thật kêu đặt tên cho những món ăn đãi tiệc như  Mẫu Đơn Rạng Rồng,  Bạch Hạc Hầu Cờ, Kim Long Hí Nguyệt, Uyên Ương Sắt Cầm, Thập Nhị Tiên Du Hải Đảo... mặc dù thật ra quanh đi quẩn lại cũng vẫn là gà vịt tôm cua ta thường ăn hàng ngày, chỉ xào đi nấu lại, thêm mắm dặm muối, trình bày bắt mắt mà thôi!  Lại còn có cả món Rồng Bay Qua Biển hóa ra chỉ là món rau muống xào tỏi! Quay trở lại việc đặt tên cúng cơm cho tôi, một tối chủ nhựt nọ ba tôi dắt "xấp nhỏ" nhà tôi vô Chợ Lớn ăn chè Phục Linh. Nhưng cũng đêm hôm đó, tôi chào đời. Thế là ba tôi vui miệng bàn sẽ đặt luôn cho tôi cái tên Phục Linh làm kỷ niệm, nhưng má tôi thì phản đối kịch liệt, vì xưa nay chẳng thấy  ai lấy tên chè tên cháo làm tên con bao giờ, nhất là cái món chè đó lại đen thui thủi! Thua cuộc, ba tôi bèn đổi ý sang cái tên Phương Lan hình như rất thịnh hành thời bấy giờ! Lần này thì má tôi chấp nhận, dù vẫn còn đó hai mẫu tự đầu P và L gợi nhớ!

Tôi đặt tên cho hồi ký này là Ký Ức Ngày Xanh, chớ không phải là Kỷ Niệm Ngày Xanh vì ký ức thì thụ động, một chiều, nhận sao để y nguyên như vậy lúc ta còn quá nhỏ chưa nhận thức được điều gì; trong khi kỷ niệm cũng là ký ức nhưng chủ động hơn, có phần đóng góp, tương tác, tác động của ta để gìn giữ, duy trì, thương yêu, tưởng nhớ... lúc đã lớn khôn rồi. Dù gì đi nữa, tôi cũng ước giá như mình đã có thể có nhiều hơn những ký ức ngày xanh, chắc là sẽ thú vị lắm!

Về đây đâu phút vui xưa sum vầy. Thềm hoang thêu nắng phượng thắm rơi đầy. Anh có nghe trong lòng thu chết, bao lá khô phai nhạt hương đêm, tan tác bay phiêu bạt dưới trời quên...(Về mái nhà xưa, Nguyễn Văn Đông) 


Trần Thị Phương Lan   
(Bút nhóm Hoa Nắng)     


Thứ Ba, 19 tháng 10, 2021

TÍ CHÒE CỨU TRỢ - Trần thị Tuệ Mai

  

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Được ngày chủ nhật
Nắng đẹp phây phây
Sáo, Sẻ, Chòe bay
Rong chơi đường phố.
 
Thấy một biệt thự
Cổng lớn tường cao
Cây cỏ đẹp sao
Phô màu lộng lẫy.
 
Ba chàng đứng đấy
Trên cội hoàng lan
Ngắm khu vườn sang
Lấy làm thán phục.
 
Thì vừa gặp lúc
Có tiếng ai ai
Ba Tí ngó coi
Thấy trên hè phố.
 
Có dăm bảy chú
Đồng phục sói con
Mang bị vác thùng
Đi quyên cứu trợ.
 
Đến trước biệt thự
Các chú bấm chuông
Chó sủa oang oang
Mấy người ra ngó.
 
Nhưng không mở cửa
Bảo cứ đứng chờ
Hồi lâu mang ra
Gói con con gạo.
 
Với vài chiếc áo
Cũ kỹ hôi xì
Mấy chú sói kia
Nhận rồi cảm tạ.
 
Mồ hôi tầm tã
Lại tiếp tục đi
Cảnh ấy khiến Chòe
Sinh ra suy nghĩ.
 
Bèn rủ Sáo, Sẻ
Vào thử xem sao
Qua khung cửa cao
Thấy căn phòng rộng.
 
Bầy đồ sang trọng
Quanh chiếc bàn to
Mấy người đậm đà
Đang ngồi đánh bạc.
 
Trẻ con lác đác
Đùa nghịch quanh nhà
Ăn uống bầy ra
Đâu mà thiếu thốn.
 
Đâu mà bận rộn
Chòe thấy bực mình
Nghĩ ra thật nhanh
Một mưu kế tốt.
 
Cả ba đi hốt
Mớ cát ngoài vườn
Đem vào ném tung
Giữa nơi đánh bạc.
 
Mọi người dụi mắt
Thế là bọn Chòe
Lấy hết tiền kia
Đem ra ngoài phố.
 
Đưa ngay mấy chú
Hướng Đạo đi quyên
Quần áo, gạo, tiền
Giúp đồng bào lụt.
 
               TRẦN THỊ TUỆ MAI
 
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 130, ra ngày 1-10-1974) 




Thứ Hai, 18 tháng 10, 2021

THUỒNG LUỒNG SÔNG THANH - Tân

 

 
Hai cha con bắt đầu thả lưới. Cái bóng ông Lạc cao mảnh cộng với cái bóng khác bé nhỏ hơn bên cạnh thành một khối đen mờ, rung rinh trên nền trời vừa rạng sáng. Ghe trôi chậm chậm, từng khoang lưới thả dài kêu lạt xạt với mặt nước sông. Cái bóng cao bỗng ngồi xuống: ông Lạc đưa tay vuốt mái tóc màu xám khẽ gọi:

- Cậu nhớ đừng cho ghe lạc vào bờ quá đấy nhé, vướng lưới thì mệt cậu đấy.

Cái bóng nhỏ dường như không mấy hài lòng về tiếng "cậu" trả lời:

- Con nhớ lắm chớ ba. Mà sao ba cứ gọi con là "cậu" hoài, con là Kim Trung, con gái ba chớ đâu phải con trai gì đâu?

Ông Lạc cười thành tiếng:

- Cậu đừng ngại gì cả, ngày xưa ba má chỉ ước mong có một đứa con trai, chẳng may lại gặp phải cậu là con gái mất. Ba cứ gọi thế để tưởng cậu như là con trai đấy chứ.

Kim Trung quay lại cười với cha. Từ ngày mẹ mất, chỉ còn hai cha con cô bé sống bên nhau, cùng vui buồn với nhau, cô bé chẳng muốn làm mất lòng cha tí nào, nên mặc dù trong lòng không thích được coi như con trai, cô bé cũng chẳng phản đối mãnh liệt cho lắm, vì cô bé vô tư lự, không hề biết trong đầu óc ông Lạc, và vì cô bé vẫn còn rất tinh nghịch, mặc dù đã gần được mười sáu tuổi, cô bé vẫn phá phách như con trai chính hiệu. Vừa phụ cha thả lưới, mắt cô bé vừa chăm chú nhìn xuống mặt nước sông xanh thẳm, thỉnh thoảng cô bé reo lên khi vó một chú cá vô tình lội vào khoảng lưới vừa thả hoặc vung tay đập cho nước bắn tung tóe lên đầu lên cổ. Ông Lạc yên lặng nhìn con gái nghịch ngợm, ngày xưa cũng nhìn Kim Trung như vậy, nhưng ông cầu trời phật độ trì cho cô bé, hôm nay ông lại mong cho cô bé sớm nên người, có chỗ nương tựa, rồi thì khi ông có nhắm mắt theo bà cũng yên lòng mà xuôi tay. Kim Trung là con một của ông, con bé chào đời được sáu năm thì bà Lạc mất, tình thương của ông với cô bé lại càng thắm thiết, và đặc biệt là con nhà chài lưới nhưng Kim Trung lại trắng trẻo xinh đẹp và rất vâng lời ông Lạc, không bao giờ cô bé làm trái ý ông từ hơn mười năm nay, điều ấy làm cho ông hãnh diện với hàng xóm láng giềng vô cùng, và cũng điều ấy làm cho ông Lạc có một tí uy quyền, uy quyền làm vua của Kim Trung, và Kim Trung là chú lính độc nhất của ông vua già đó.
 
Hôm ấy là một buổi sáng mùa hạ, như thường lệ hai cha con lại ra sông Thanh thả lưới. Từ nhiều ngày nay ông Lạc nghe đồn khúc sông gần chân núi Đông có nhiều cá, nhưng vì chỗ ấy nhiều đá ngầm hiểm trở nên ít ai chịu khó ra tận nơi đó. Trong thâm tâm ông Lạc cũng chẳng muốn đi xa, nơi vắng vẻ âm u làm gì, riêng Kim Trung khi biết tin đồn ấy cô bé nhẩy cẫng lên vì từ lâu nay, cô chẳng được đi đâu ngoài việc loanh quanh ở khúc sông hằng ngày, cô bé níu lấy cớ có nhiều cá, suốt buổi xin với ông Lạc, cô nói như van:

- Ba con mình rán đi một bữa rồi nghỉ cho khỏe ba à.

- Ba thấy lo trong bụng.

- Ba sợ rách lưới chớ gì, ba để con lặn xuống gỡ lưới cho nghe ba.

Tuy biết rằng Kim Trung lặn lội giỏi như rái, ông Lạc vẫn gạt phăng:

- Thôi đi cậu, mai cậu đi lưới với ba như thường. Ba già rồi đi xa không được, mệt lắm.

- Vậy là ba quên rồi, con vẫn chèo ghe mà, ba ngồi nghỉ cho khỏe.

- Con quên rằng núi Đông xa lắm sao con! Khi nước lớn, người ta thả ghe cũng phải mất nửa ngày mới tới chỗ có cá.

Viễn anh được đi khá xa, nhìn cảnh hai bên sông làm cho Kim Trung thích chí. Cô bé chẳng cần suy nghĩ gì cả, cô nói:

- Con biết ba không có sợ xa, như ba sợ cá hư đi, phải không ba?

Ông Lạc mỉm cười. Cô bé tiếp:

- Vậy lát nữa con đi mua muối nghe ba, không hại gì đâu ba ơi, tiền bán cá bù qua tiền muối mà ba.

Ông Lạc vẫn chưa xiêu lòng, ông dọa:

- Ba biết, nhưng ở núi Đông có Thuồng luồng, Kim Trung ạ!

Tâm trí lúc nào cũng lo cho gia đình, cô bé hớt liền:

- Thuồng luồng ăn thịt được không ba?

Ông Lạc liếc con gái một cái, lòng ông hơi buồn vì tình cảnh gia đình túng hụt nên Kim Trung dù đã mười lăm tuổi vẫn chưa được đi học gì cả, cô bé còn ngây thơ vô tội, đến con thuồng luồng là con vật ghê tởm, nuốt sống người như chơi, mà cô vẫn cho là con cá bé nhỏ có thể mua bán được, thì chẳng biết đầu óc cô bé còn trắng tinh đến bực nào. Ông Lạc nghiêm giọng dù ông chỉ dọa suông:
 
- Thuồng luồng nó ăn thịt mình thì có.
 
Kim Trung tròn xoe đôi mắt, cô bé ngạc nhiên là phải vì từ lâu nay cô chưa từng nghe giống nào có thể sơi thịt người cả, trừ con cọp ra. Nhưng ông Lạc đã cười:
 
- Ba dọa chơi đấy, con sông ba con mình thường đi đánh cá làm gì có thuồng luồng. Mà khúc sông ở chân núi Đông ấy, ngày xưa ba má còn trẻ vẫn thả lưới ở dưới đó hoài kể tới nay cũng đã gần bốn mươi năm rồi ba cũng chẳng biết thuồng luồng nó ra làm sao cả.
 
 Hơi yên lòng, Kim Trung lại xin nữa:

- Vậy thì sáng mai ba con mình đi nghe ba.

Ông Lạc lặng lẽ gật đầu, ông chiều con gái ông đấy, và một phần ông cũng muốn trở lại nơi cũ, nơi mà hàng chục năm nay ông chưa trở lại để nhìn xem những hình ảnh cũ còn rơi rớt từ người vợ đã mãn phần. Tuy nhiên, trong đáy lòng ông bỗng nổi lên một mối lo lắng, nhiều hơn là lúc ông dọa Kim Trung. Mối lo lắng ấy cứ to dần làm ông thờ thẫn cả người, và suốt buổi câu hôm đó ông Lạc như người bệnh mới dậy, còn Kim Trung, cô bé vô tư chẳng để ý gì đến cha già cả.

Chiều hôm sau Kim Trung tung tăng từ chợ về, ngoài các thứ cần dùng, cô bé còn mua thêm một gói muối và nhiều sợi mây. Ngay buổi tối, cô bé ngồi cặm cụi đan giỏ, đôi tay trắng thoăn thoắt, đôi tay mà ông Lạc thường ví với tay con nhà trưởng giả, cũng được như thế là cùng ; đầu cô bé cúi thấp tóc buộc đuôi ngựa lủng lẳng sau lưng. Trông cô bé thật đẹp trong cảnh mù mờ của gian nhà tranh, được soi sáng bằng ngọn đèn dầu lạc leo lét. Sợ cô bé hỏng mắt, ông Lạc hắng giọng gọi:

- Trung! Con để đó cho ba rồi đi ngủ đi.

Cô bé liến thoắng:

- Sắp xong rồi ba ơi, chỉ còn làm cái quai xách nữa là hết à ba.

Thật ra cô bé mới chỉ đan được một phần đáy giỏ, ông Lạc biết thế nhưng ông lại hỏi tiếp:

- Con đan giỏ làm gì vậy hả Kim Trung?

- Dạ để mai con mắc dưới lườn ghe, hễ bắt được cá cứ bỏ vào đó cho cá khỏi hư ba à.

Ông Lạc cười thầm, trong phút chốc ông quên hết âu lo, ông ngồi xệp xuống cạnh Kim Trung, lấy một sợi mây uốn thành vòng, cặm cụi buộc lại, ông cười:

- Để ba làm dùm con cái miệng giỏ, lát nữa chỉ việc khớp vào thôi.

Bên cạnh một đám sợi mây đã bị chẻ nhỏ, cái giỏ đã bắt đầu thành hình, Kim Trung mạnh tay uốn các đường mép lại, trong khi ông Lạc tròng cái vòng tròn vừa buộc lên trên ; hai cha con thì thụp nắm, giữ, kéo, buộc dây rối rít ; ông Lạc bỗng cười to:

- Ấy, cậu buộc cả tay ba vào miệng giỏ rồi.

Cô bé cũng chẳng vừa:

- Ba uốn mây đè cả vào chân con nè ba.

- Kìa, cậu giữ lại mép bên đó đi chứ, tuột cả rồi.

- A, được rồi nè ba! Bên miệng giỏ phía ba chưa buộc hả ba?

- Ba buộc rồi đấy chứ, cậu rõ lẩn thẩn.

- Thế còn cái nắp, lấy gì làm nắp đây ba?

- Cậu tìm cho ba miếng... miếng...
 
- ...

- À, thôi ba con mình lại đan cái nắp đi, nhà mình làm gì có ván phải không Trung?

Hai cha con lại chúi đầu vào đám sợi mây. Trong cái bóng tối mập mờ, ông Lạc vừa làm vừa chỉ dẫn cho cô bé. Đôi tay nhanh nhẹn, Kim Trung lắng nghe lời cha. Khi ông dứt lời thì Kim Trung reo lớn:

- Ô... ô cái giỏ đẹp quá ba ơi!

Quả thật chỉ gọi là giỏ vì nó có một cái bầu, cái miệng bầu và cái nắp đậy ; tuy vậy, Kim Trung vẫn thích chí bởi cái giỏ chỉ được làm hồi chập tối, như vậy đã là khá lắm, giỏi lắm đối với một cô bé như Kim Trung. Ông Lạc đã đứng dậy từ lâu, che miệng ngáp dài. Nhìn con gái đang vui mừng, ông giục:

- Thôi, nhất định là đi ngủ đây. Trung, cậu nhớ mai dậy sớm để kịp giờ nước lên nghe không.

Cô bé nhảy tót vào cái chõng vâng dạ liền miệng, nhưng đã không quên mắc cái giỏ của cô trên đầu hè, cô bé còn hỏi với:

- Ba ơi! Mai ba có rủ bác Dương đi với cho vui không ba?

Ông Lạc đáp:

- Ồ, bác ấy thèm đi với ba con mình, bác ấy có ghe lớn ra mãi cửa sông ấy chứ.

Kim Trung nhìn cha cười, cô bé muốn hỏi cha cửa sông ở đâu, nhưng mắt cô bé híp lại nặng như đeo đá, và rồi cô ngủ mất.

Ông Lạc lặng yên nhìn giấc ngủ vô tư của Kim Trung, mối lo ngại trong lòng ông giờ lại bùng lên dữ dội. Tự nhiên linh tính người cha như báo cho ông biết trước có chuyện không hay sẽ xảy đến cho gia đình đơn sơ của ông. Ông không đoán được chuyện ấy, nhưng ông chỉ cho là tại vì ông già, tính không còn hung hăng của thời thanh niên, nên khi sắp phải khó nhọc ông cho là thế thì trong con người ông lại có một sự phản kháng ngấm ngầm, in vào đầu óc ông làm ra sự lo âu vơ vẩn như vậy. Nghĩ như thế ông Lạc thấy yên tâm phần nào, ông lại bàn rót nước uống một ly rồi ngả mình lim dim trên tấm phản gỗ, cố tìm một giấc ngủ thoải mái cho đầu óc.

Vào lúc trời còn mờ sáng, hai cha con cô bé Kim Trung đã đẩy ghe ra giữa giòng. Ghe theo nước trôi phăng phăng về phía thượng lưu sông Thanh. Nước sông trong bì bọp vỗ sóng nhấp nhô làm Kim Trung khoái ý, tay giữ cái giỏ mây, tay kia khua nước tung bọt trắng ngầu. Ông Lạc ngồi ở cuối ghe, hai tay ôm dầm cho ghe đi thẳng, mắt ông thỉnh thoảng lại nhìn sang hai bên sông rồi nhìn về Kim Trung. Cô bé đang nằm mẹp xuống sàn ghe, thò đầu ra ngoài, cái đuôi tóc phất phơ, hai khuỷu tay tỳ lên thành. Cô bé vô tư ngắm từng cọng cây đang trôi theo ghe, từng đàn cá tí xíu nhanh thoăn thoắt. Chán rồi, cô bé lại ngồi bên cha. Hai cha con đều im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Riêng Kim Trung, cô bé mơ được thật nhiều cá to, cá to mới đáng giá, bõ công đi mãi lên chợ tỉnh. Bán cá xong rồi, cô sẽ mua cho ba một ít thịt bò, cô bé định khao ông Lạc cơ đấy. Bỗng ông Lạc nhướng mắt nhìn ra xa. Kim Trung nhìn theo cha, thì ra có một chiếc ghe khác đang đậu gần bờ, mũi buộc dây vào thân cây gần đó. Trên đầu ghe, một... à không, hai bóng người, đang giơ tay vẫy. Nhận ra vóng người quen, ông Lạc quay dầm, chiếc ghe liền trôi chậm lại. Kim Trung ngạc nhiên hỏi nhỏ vào tai cha:

- Ai đứng sau bác Đông vậy  ba?
 
Ông Lạc cười:
 
- À chú Đoàn đấy. Hắn làm quan phòng ở thành Hồ Nam.
 
- Chú Đoàn là con bác Hồng hả ba?
 
- Phải rồi, chú ấy có hỏi ba về cậu...
 
Kim Trung cười với cha một tiếng nhỏ rồi chui tọt vào khoang. Ông Lạc ngơ ngác:

- Kìa, làm gì thế Kim Trung. Ra đây với ba. Chú ấy chỉ hỏi ba rằng: cậu năm nay được bao nhiêu tuổi, và trông cậu thế mà xinh xắn đáo để đấy nhỉ.

Kim Trung nghe vậy, cô bé càng rúc kỹ vào khoang, lại còn bỏ cả tấm phên xuống nói vọng ra:

- Chú ấy kỳ cục quá hả ba.

Lúc ấy hai ghe đã gần nhau, ông già Đông quăng sang ghe ông Lạc một sợi dây, ông này nhanh nhẹn chụp lấy buộc vào miếng gỗ bắn mái chèo. Liền đó ghe ông Lạc được kéo phăng tới trước cặp sát vào chiếc ghe bạn. Ông chậm rãi leo qua.

- Sao, đi đâu sớm vậy bác Lạc?

- Ậy, tớ định lên chân núi Đông đây...

- Đi xa vậy ông bạn già? Ở chỗ này cũng khối cá, bác neo ở đây thả lưới với chúng tôi đi. Con bé Trung đâu rồi?

- Nó trốn tiệt. À còn chú Đoàn, chú ở Hồ Nam sao lại bò về mãi đây?

Đoàn đỏ mặt trả lời:

- Thưa bác, cháu được về thăm gia đình hơn mười ngày. Cháu về từ hôm qua, định tìm ít cá mời bác với ba cháu no say một bữa.

Ông Lạc cười:

- Cám ơn chú có lòng nghĩ đến tôi, tôi...

- Cái lão Lạc này cứ khách sáo văn hoa hoài ông Đông hớt lão có định đánh cá ở đây không thì bảo.

- Lại cám ơn ông, cha con tôi phải lên chân núi Đông.

- Lúc nào cũng núi Đông... À con Trung đâu sao ông không bảo nó ra chào bác đi.

Vừa lúc ấy, Kim Trung thò đầu ra, cô bé liến thoắng:

- Dạ chào bác Đông... chào ông... ông...

Cô bé lại thụt vào. Anh chàng Đoàn đứng tần ngần một lúc lâu rồi quay lại, bắt chước chui vào khoang ghe. Đầu mũi ghe chỉ còn hai ông bạn già đứng tán gẫu, cười cười nói nói vui vẻ. Lúc sau ông Lạc trở về ghe của mình, ông Đông còn nói vói qua:

- Nhớ nhá bác Lạc, thế nào tối nay bác cũng qua nhà tớ nhá.

Ông Lạc gật nhẹ. Chiếc ghe nhỏ của ông lại trôi phăng về phía trước. Hai cha con ông già Đông đứng nhìn theo. Mãi đến lúc ông Lạc quay lại giơ tay vẫy, Đoàn mới hỏi cha:

- Thế nào ba, có tin gì mới không ba?

- Ổng lại từ chối nữa, ổng nói là để nó giúp đỡ ổng lúc tuổi già. Với lại ổng chỉ có một mình nó, cha con qua lại cho vui nhà vui cửa.

- Buồn quá Đoàn thốt.

Nhưng ông già Đông bỗng ghé tai thì thầm ít câu. Nét mặt của Đoàn liền đổi sang buồn so nghĩ ngợi, rồi hơi vui. Chàng ta gật gù đầu, tay mân mê chuôi kiếm đeo bên sườn, kêu nhỏ:

- Hay! Ba nói đúng lắm.

*

Ông Lạc khéo léo cho ghe ngừng ở một chỗ vực nước sâu, khuất sau vài mỏm đá nhọn, rồi gác chèo đứng lên. Kim Trung đang loay hoay xếp các phao nổi. Cô bé hỏi:

- Mình thả lưới ở đây hả ba?

- Ừ, ở đây vào khoảng đầu mùa hè, cá hay vào đẻ trứng. Ba con mình tới hơi sớm một chút nhưng không sao. Lúc này hay gặp cá hồng lắm đó nghe Trung.

- Ồ cá hồng... cá hồng bán đắt tiền lắm à ba.

Ông Lạc bắt đầu thả lưới. Ghe lững lờ trôi chầm chậm. Kim Trung thò đầu xuống nước trong, nhìn những đám rong này sang đám rong khác. Khi đụng phải phần chìm của lưới, chúng liền ngoắt lại như chạy trốn. Cô bé nhìn thật sướng mắt. Nhưng ông Lạc đã gọi to:

- Kim Trung, sắp sửa lội xuống để lùa cá đi chứ.

Cô bé vâng lời ngay, ôm một thân tre thả xuống nước rồi nhảy tõm xuống, bơi ra xa... Nhưng ơ... kìa! Cô bé chợt nhìn thấy một đôi mắt to đỏ hồng. Đích thị là đôi mắt vì có những con ngươi, đang chằm chằm nhìn vào cô. Vừa thấy đôi mắt đỏ hồng ấy, tự nhiên Kim Trung lạnh cả mình mẩy, tay chân thấy run run. Sợ hãi, cô bé bơi ngay lại ghe, leo tót lên. Ông Lạc ngạc nhiên:

- Sao vậy Trung? Con bị cảm gió rồi phải không?

Kim Trung lắc đầu, cô bé khi lên ghe đã thấy bình tĩnh lại. Cô lắp bắp:

- Đôi... mắt.

- Đôi mắt nào?

- Con thấy đôi mắt ở dưới nước, nó màu đỏ, nhìn vào con...

- À, cậu lại sợ hão rồi. Nếu ba còn trẻ thì ba đâu có nhờ cậu làm việc này. Cậu xuống đi... chà chà... hôm nay Trung lại sợ à?

- Vâng, con sợ lắm.

- À, nếu thế ba con mình kéo lưới lên thả ở chỗ khác nhé.

Kim Trung mừng húm phụ cha kéo lưới, nhưng bỗng nghe nặng chịch cả đôi tay. Ông Lạc thở dài:

- Ấy đấy lại vướng cái gì rồi. Thế là cậu vẫn phải lặn xuống.

Cô bé lạnh toát cả người, linh tính báo trước điềm chẳng lành với cô. Cô bé ấp úng:

- Ba con mình kéo lên đại cho rồi, nếu lưới rách thì...

Lưới rách thì vá, thật vậy. Nhưng cô bé chợt nhớ ra rằng không có mang dây nhợ để vá theo, và nếu có mang cũng chẳng vá được vì ghe nhỏ, không thể trải lưới ra mà không bị rối, biết làm sao mà vá víu, và nếu có vá xong lưới thì cũng mất rất nhiều giờ, lúc ấy làm sao mà có đủ thời gian thả mẻ lưới thứ hai? Hơn nữa, gia sản của hai cha con ông Lạc loanh quanh chỉ cái ghe, cái lưới... nếu lưới cứ rách mãi thì đào đâu ra tiền để mua lưới khác bây giờ? Kim Trung cứ đứng trân ra một chỗ nghĩ đi nghĩ lại mãi như thế, và dường như ông Lạc cũng thấy vậy. Ông lặng lẽ cởi áo ngoài, nói:

- Cậu sợ thì để ba xuống vậy. Ba thả lưới chỗ này với má con đã hàng trăm lần, chẳng lần nào gặp đôi mắt gì màu đỏ dưới nước cả.

Kim Trung bỗng kêu to:

- Ba ơi.

Ông Lạc quay lại, không cười, nói sẵng giọng:

- Cậu kêu ba làm gì, cậu không thấy dù ba già rồi vẫn phải làm cho cậu hay sao?

Cô bé ứa nước mắt vì từ nhỏ đến bây giờ cô bé mới bị ông Lạc nói như thế. Chẳng qua là vì đôi mắt đỏ hồng cứ ám ảnh cô mãi. Cô bé nói:

- Ba để con lặn xuống gỡ lưới cho, ba ngồi nghỉ đi. Con tin lời ba rồi, chắc là con trông nhầm.

Ông Lạc vẫn chưa được vui, nhưng Kim Trung tiếp:

- Nếu con xuống lâu, ba hãy xuống với con ba nhé.

Rồi như cố nén mà nước mắt vẫn long lanh ở khóe mắt, cô bé gỡ cái vòng ngọc vẫn đeo ở cổ tay trái đưa cho cha.

- Ba vì tin tưởng khúc sông này hiền từ, mà thả lưới ở đây. Nhưng con từ nãy đến bây giờ, trong lòng vẫn không yên...

Ông Lạc cầm cái vòng ngọc ngắm nghía, tỏ ý ngạc nhiên. Kim Trung tiếp:

- Về sau hễ ba còn giữ cái vòng này tức là ba vẫn còn thương con. Má hồi lên Bắc Kinh mua cho con, từ ngày ấy con vẫn đeo luôn. Nó là kỷ vật của má, của con nữa, vì con đã dùng nó lâu rồi.

Ông Lạc nghĩ thương con, nhưng lại cười thầm con nhỏ ăn nói kỳ dị, từ thủa nào mới nghe cô bé nói những lời như thế. Cô bé vẫn nói:

- Con biết hồi nãy ba giận con...

- Tại vì cậu không tin lời ba nói Ông Lạc ngắt lời.

- Nhưng ba ơi, kể từ bây giờ ba không còn khi nào giận con nữa đâu. Con sẽ cố gắng làm vừa lòng ba Kim Trung khóc Ba nhớ giữ cái vòng ngọc con vừa đưa cho ba, ba giữ nó là ba còn thương con. Con định trao cho ba từ tối hôm qua, khi đan cái giỏ, nhưng con quên.
 

Nói đoạn Kim Trung quay người bám lấy mạn ghe, thò chân xuống nước. Cô bé còn ngoài đầu nhìn lại ông Lạc một lần nữa, thật lâu rồi mới chịu buông mình xuống nước. Mặt cố bé tái, môi run... Rồi mặt nước tung tóe một cái nhẹ. Kim Trung đã lặn xuống mất hút. Ông Lạc cầm áo ngoài khoác vào người. Sự âu lo bây giờ sau thời gian lắng dịu lại bùng dậy mãnh liệt trong lòng ông, nhất là khi Kim Trung lặn xuống nước. Tặc lưỡi, ông đứng dậy lẩm bẩm tự an ủi rồi quyết định lặn theo Kim Trung. Mà trời ạ, đúng lúc ông vừa thò chân xuống nước như con gái ông đã làm phút trước thì...

Mặt nước bỗng xao động mạnh mẽ, bọt tăm từng đám nổi lên và dường như có lẫn lộn màu máu đỏ, bùn đen hòa lẫn với nước đục ngầu, lùng bùng như có tiếng quật vào đá ngầm dưới nước. Ông Lạc kinh dị, hoảng hốt nhưng vì lòng cha thương con lấn áp cả sợ hãi, ông vớ lấy con dao tu gần đó, để nguyên quần áo lao mình xuống nước. Lặn mãi, lặn mãi nhưng tuổi già sức yếu, ông Lạc gần muốn đứt hơi phải trồi lên. Tuy nhiên, ông lại lặn xuống lần nữa. Lần này, khi leo lên ghe, ông té nhào vào giữa ghe. Phần mệt nhọc, phần lo lắng cho Kim Trung, ông ngất đi. Không biết bao lâu, khi tỉnh dậy, nhìn cái giỏ mây mà tối qua Kim Trung đã cặm cụi đan và nhìn cái vòng ngọc, ông Lạc như đứt từng khúc ruột. Hai cha con cùng đi, khi về chỉ còn có một người, đứa con chắc đã bỏ xác trong lòng nước mà không tìm thấy di hài, tưởng không còn nỗi bất hạnh nào hơn. Từ gần mười năm nay ra vào sớm hôm, hai cha con vui khổ có nhau, tình thương đậm đà thế mà TRỜI CAO nỡ bắt đi mất một mái đầu xanh. Ông Lạc ứa nước mắt: Trời ơi, tôi có tội tình gì đâu mà con tôi phải đọa. Kim Trung ơi, ba đã giết con. Phải chi ba đừng tự tin vào những gì quá xưa cũ thì con vẫn còn đây, cười với ba. Ba con mình sẽ kéo lưới lên, lưới rách thì ba vá, con nối dây như hồi nào con vẫn làm, hoặc con sẽ tìm cách mua lưới khác. Kim Trung ơi, con vẫn nói: con sẽ sang bác Dương mà mượn. Bây giờ ba không cần lưới, ba không cần ghe, ba cần con, con ở đâu rồi, ba gọi con nhé: Kim Trung ơi! Con ở đâu? Con không về với ba nữa hả? Rồi đây lưới rách, ai sẽ nối dây cho ba vá? Ai sẽ thay ba làm việc trong nhà? Ba phải sống cô độc. Má con đã bỏ ba, con bây giờ cũng bỏ ba mà đi. Kim Trung đâu? Sao con không thưa to lên để ba tới đón? Ba con mình thà ghe chiều về đến nhà, mai lại thả lưới ở khúc sông hàng ngày. Con kể ba nghe những chuyện ở tỉnh buổi chiều qua, rồi ba ngậm ống vố, con hay nói ba ngậm cái sừng trâu...

Đang khóc kể dông dài, bỗng ông Lạc ngưng bặt vì trong gió thoảng ông chợt nghe có tiếng gọi tên ông. Lần này thì rõ ràng hơn:

- Bác Lạc ơi... ơi... hú... u bác Lạc đâu rồi...

Ông Lạc mừng muốn kêu lên. Rõ ràng là tiếng già Đông và thằng con tên Đoàn. Ông sẽ nhờ họ giúp, nhất là Đoàn, anh ta sẽ rất đắc lực. Ông hét to:

- Tôi đây, mau lại đây giúp tôi.

- Chuyện gì đấy...

Rồi có tiếng chèo vỗ nước bì bọp, ghe của ông Đông xuất hiện ở khúc quanh. Đoàn đang chèo. Anh ta rạp người xuống, nâng lên, rồi lại rạp xuống. Ghe rẽ nước đi phăng phăng. Ông Đông đứng ở đầu ghe lập lại:

- Chuyện gì đấy?

Ông Lạc nói không ra hơi:

- Con... con Kim Trung... con Kim Trung...

- Nó làm sao?

- Nó lặn xuống... rồi... mất dạng luôn... tôi không lặn xuống được... mệt... mệt quá.

Ông Đông cau mày. Con bé vẫn nổi tiếng lặn giỏi lắm cơ mà. Ông đoán chừng Kim Trung gặp giống gì hung dữ ở dưới đáy sông và bị hại cũng nên. Ông nhìn mặt nước đã bắt đầu yên lặng và trong dần, chợt thất thanh kêu lớn:

- Kìa kìa, nhìn kìa...

Cả ba người đổ xô về một phía. Lờ đờ trong nước, một con rắn to bằng bắp vế người lớn, đầu đỏ chót, mồng đỏ như mồng gà đang quẫy mình bơi ngang ghe. Ông Lạc thẫn thờ thốt:

- Thuồng luồng!

Thuồng Luồng! Hai tiếng đủ làm sờn lòng những tay đi biển kỳ cựu như ông Đông. Thuồng luồng! Giống thủy quái ghê rợn thỉnh thoảng lại xuất hiện ở miền Bắc Trung Hoa, gây kinh hoàng cho những ngư dân nghèo khổ, sinh sống bằng nghề chài lưới ven sông. Gặp Thuồng luồng, điều đó chẳng ai dám nghĩ tới, nhưng đã gặp nó thì ắt chẳng toàn sinh mạng. Kim Trung, cô bé đáng yêu và ông cha già chưa gặp giống thủy quái ấy lần nào, nhưng khi mà cả hai đều gặp cả rồi, thì Kim Trung đã mất dạng. Cô bé không còn có dịp nhìn ngắm con vật mà đã giết hại cô, cũng chẳng còn dịp mà líu lo với mọi người nữa. Cô bé đã dìm sâu xuống đáy nước nguồn vui sống của ông Lạc. Cô bé làm tắt tiếng cười dưới mái tranh, đã ra đi khi tuổi còn hoa niên, tâm hồn còn ngây thơ. Cô bé hẳn đã hãi sợ lắm, khi con quái vật có mắt đỏ hồng từ trong hốc đá quẫy mình trườn ra. Nó đã rình rập cô bé từ lúc cô bé mới lội xuống lần đầu. Ai biết được tai họa sẽ giáng xuống gia đình ông Lạc, cướp đi mạng sống cô bé Kim Trung. Ai ngờ được cái giống vật mà ít ai nói tới đang há cái miệng đỏ lòm dưới kia, nó đã hại Kim Trung hay là một con nào khác?

Đang ngẩn ngơ nhìn con vật, ông Đông bỗng nhận thấy sự lạ lùng đó. Nghi ngờ con vật sẽ tấn công, ông thúc vào tay Đoàn bảo khẽ:

- Kìa kìa, con thuồng luồng nó định...

Đúng lúc ấy, con vật bỗng vùng lên. Mặt nước nổi sóng. Đầu nó nhô khỏi nước, mồng đỏ tía. Quên cả sợ hãi, ông Lạc tay cầm dầm nhắm vào cái đầu lắc lư ấy thu cả sức mạnh giáng xuống. Và nhanh như chớp, Đoàn nhảy bổ vào khoang ghe, chụp vội cung tên giương vào con quái vật bắn liền một phát. Bị trúng đuôi, thủy quái cũng nhanh không kém, quẫy mạnh chui vào đám rong mất dạng.

Cố trấn tĩnh, ông Đông chỉ vào con thuồng luồng vừa trốn, nói to:

- Giống này quả thực sông Thanh không có. Nhưng vào những tháng mà loài cá hay tụ họp vào đây đẻ trứng, chúng nó thường từ trên nguồn sông mò về đây để kiếm ăn.

Ngừng một lát, ông tiếp:

- Cháu Trung chẳng may thiệt mạng vào miệng thủy quái cũng là cái số của cháu nó hẩm hiu, bác chẳng nên rầu rĩ thái quá. Mà theo chỗ tôi đoán thì không phải chỉ có một mà ít ra cũng phải vài con thuồng luồng ở chỗ này. Bác nếu có thương cháu nó thì đừng nên lặn xuống làm gì, chỗ nước sâu, lại nguy hiểm...

Ông già Đông và anh chàng Đoàn phải khuyên nhủ, an ủi ông già đau khổ mãi đến chiều, rồi đợi con nước ròng, họ mới thả ghe về làng.

Từ đó về sau, chẳng còn ai dám léo hánh đến vực nước ở chân núi Đông nữa. Nhưng các người đốn củi trên núi hàng năm vẫn thấy một chiếc ghe nhỏ, trên đó một thanh niên nước da sạm đen, giương cung bắn vào vực ba phát tên, nơi mà họ nghe kể chuyện một cô gái bé nhỏ hiếu thảo và trong trắng đã táng mạng ở đó vì vâng lời cha. Họ còn rỉ tai nhau rằng cô bé đáng thương kia vẫn là người mà chàng thanh niên dưới ghe nọ hằng để tâm thương nhớ.


TÂN      

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 96, ra ngày 15-10-1968)