Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2020

GIÓ LỘNG MÙA XUÂN - Trần thị Phương Lan












Ríu rít đôi chim hót chuyền cành
Xuân về bừng sáng mái nhà tranh
Ngàn mai tươi thắm cùng đua nở
Đào, cúc, hồng, khoe sắc trước mành

Bà : phơi  mứt tết ngoài sân nắng
Trầu nhai móm mém nhoẻn miệng cười 
Cháu : sơn  phết lại tường vôi trắng 
Đì đùng pháo nổ đón xuân vui

Xuân đến cho lòng thêm ngất ngây
Cây cỏ dệt chung mộng sum vầy
Xanh biếc chồi non vừa mới hé 
Đồi xuân bướm trắng rập rờn  bay

Nắng tắt,  chiều thôn dã êm đềm
Trăng vàng soi sáng lối thân quen
Bập bùng củi cháy nồi bánh tét
Rộn rã mùa xuân đến trước thềm

Áo mới mẹ may cho rất xinh
Bé em vội mặc ướm lên mình
Đàn, trống rộn ràng vang khắp lối
Thôn dã chiều xuân vạn ý tình

Có chắc mùa xuân đã trở về?
Mây hồng giăng khắp nẻo đường quê
Lưng đèo tiếng sáo diều vi vút
Chờ một mùa xuân vẹn ước thề

Lữ khách đường xa dõi mắt trông
Thôn nữ xinh tươi má ửng hồng
Hương xuân tuy gợi  niềm lưu luyến
Gió lộng  mùa xuân chẳng lạnh lùng.

                          Trần Thị Phương Lan
                              (Bút nhóm Hoa Nắng)  

Nguồn :  https://tuoihoandmore.blogspot.com

Thứ Năm, 30 tháng 1, 2020

THÁNG GIÊNG HY VỌNG - Nhã Uyên















 

Là Tháng Giêng, là khởi đầu năm mới

Là hương thơm bánh mứt Tết đến nhanh

Là áo lụa, là tơ trời chờ đợi

Là chào nhau trong câu chúc chân thành


Cất tiếng hát như chim trời buổi sáng

Vừa hót lên lời chúc tụng an bình

Cây đã chổi những mầm xanh duyên dáng

Nụ hoa yêu trong một thoáng hồi sinh


Là Tháng Giêng, là hương hoa ngào ngạt

Là ước mơ, là chúc tụng không thôi

Là hy vọng, là tương lai thành đạt

Là tay đan, là cười nở trên môi


Tháng Giêng đến, là mừng vui tuổi mới

Để bắt đầu bao nguyện ước đẹp xinh

Là điểm tô cho con đường đi tới

Nhờ ơn trên trọn năm mới an bình


                                                  Nhã Uyên

 Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com

Thứ Tư, 29 tháng 1, 2020

GIẾT LỢN ĐẦU XUÂN - Minh Quân


Thoạt nghe qua bốn tiếng nầy hẳn có bạn không hài lòng, hỏi:

- Ai lại giết lợn vào đầu xuân bao giờ? Tên này nói phét! Người ta có giết lợn là giết vào những cuối năm, sắp sửa vào xuân ấy chứ. Láo toét! Không tin!

Hoặc có anh thích ăn chay và vốn hiếu sinh thì lại bảo:

- Tên này chúa ác! Ai lại mới đầu năm, năm mới năm me mà bàn chuyện sát sinh? Như thế thì còn mong học hành tấn tới làm sao được? Tâm địa như thế...

Này! Xin van bạn! Đừng có vội vàng kết tội oan cho tôi, nhá! Tôi cũng đồng ý với bạn, không bao giờ lại tính chuyện giết chóc vào đầu năm, dù cho thứ lợn tôi kể ra đây là "lợn đất". Thế là vừa lòng bạn nhá?

Bây giờ bạn lại gặng:

- Ối tưởng gì, giết lợn đất thì có chi đặc biệt mà cũng khe khoang?

Vâng! Đúng thế! Lợn đất thì lạ lùng gì? Nhiều người vẫn nuôi lợn đất, chờ đến gần Tết giết thịt chia cho lũ trẻ và cả nhà là thường. Và nếu chỉ thế thì tôi không dám làm rầy tai, bẩn mắt bạn đâu. Đằng này mẹ tôi không thế: mẹ tôi nuôi nó cho no kềnh, no nứt bụng ra (bắt cả bọn tôi góp tiền nuôi nữa) mà rồi đến khi giết lại lấy hết tiền trong bụng nó cho trẻ ở trong một Cô Nhi Viện gần nhà. Có ức không, kia chứ?

(Nguyên cái lệ này mới phát sinh đâu cỡ ba bốn năm nay, chứ ngày trước, khi lợi tức nhà tôi kha khá thì không thế ; cứ mỗi cuối năm mẹ tôi trích ra một số tiền nào đó mang cho là xong) Mẹ tôi muốn làm việc thiện, việc nghĩa ư? Cái đó tùy bà, chúng tôi không hề ngăn cản. Khốn nỗi, để hoàn thành mục đích, mẹ tôi không kể gì phương tiện tốt xấu: chúng tôi bị bắt buộc phải hy sinh, đóng góp cho con vật đáng ghét quá nhiều, một sự bắt buộc mà chúng tôi đều cho là bất công, kém văn minh, trái với nguyên tắc và tinh thần tự nguyện.

Không chỉ thế thôi, mẹ còn bắt chúng tôi tiết giảm mọi thứ đến mức tối đa. Chẳng hạn ngày trước chúng tôi cắt tóc ngoài hiệu thì nay mẹ bảo cắt mấy ông thợ cắt dạo cũng được. Cắt dạo xấu, bạn cũng hiểu như thế chứ? Nhưng mặc chúng tôi phản đối, mẹ tôi không nao núng. Bà nói rằng bà cai trị quốc gia nhỏ bé này theo lối độc tài, đừng có hòng nho nhoe dân chủ bà không ưa. Chưa hết: mẹ tôi chỉ bằng lòng cho may quần tây của bọn con trai và áo dài của bọn con gái ngoài hiệu mà thôi. Sơ mi? Bà may lấy, áo đầm? Bà may lấy, áo quần mặc trong nhà? Lại cũng bà may lấy! Mẹ tôi chưa từng học may lấy một ngày nào, làm sao may đẹp được? Nhưng chê hả: thì ở trần, thì tóc chấm mang tai chịu làm sao nổi? Thế là chúng tôi sau cùng, đành chịu thua. Thì tôi đã bảo mẹ tôi cai trị theo lối phong kiến độc tài mà. Bà nói rằng chúng tôi chưa đến tuổi sử dụng quyền Dân chủ, chỉ tổ làm hư hỏng danh từ tốt đẹp đó đi, chúng tôi còn phải ở trong sự Bảo hộ của mẹ lâu, lâu lắm. Ba tôi, tuy danh vị thì to lớn, song ông cũng như Nữ hoàng bên Anh quốc vậy thôi, bao nhiêu thực quyền ông đều giao cho mẹ tôi nắm giữ. Để chống chế, trả lời về những kêu ca của chúng tôi, mẹ tôi nói thế này đây:

- Các con đừng có đua đòi, không tốt. Đang còn trong tuổi học hành, ăn mặc sao cũng được, miễn sạch sẽ, lành lặn là quí lắm rồi. Con người ta nghèo, chỉ ao ước có mỗi chuyện đi học mà không được, kia thay! Con người ta khổ đến bao nhiêu? Có khi chỉ mong cơm no, áo lành còn chưa được, kia thay! Các con phải hiểu rằng cái giá trị thật của con người là ở đức độ, hành động, tư cách người đó chứ không phải ở những thứ bám bên ngoài (xin mở cái dấu ngoặc: ý bà muốn nói đầu tóc đẹp, áo quần sang đấy) Chăm chú bề ngoài quá, người ta bỏ quên những điều cần trau dồi chăm chú, không tốt đâu, các con ạ!

Nghe cũng khá êm tai. Nhưng mà khi mẹ tôi vào phòng hay xuống bếp rồi, tụi tôi tụm lại mổ xẻ kỹ càng huấn từ của bà thì thấy rõ là bà cho chúng tôi ăn bánh vẽ: chúng tôi còn bé, chúng tôi đã là người ta đâu? Làm sao chúng tôi lại bùi tai vì những lời ngọt ngào như thế và từa tựa như thế mà dễ dàng chịu khuất phục, không tranh đấu cho quyền lợi tối thiểu của mình kìa?

Còn một điểm vô lý nữa, chúng tôi xin xỏ cái gì cũng bị bác bỏ đi, mẹ lấy cớ là phải cần kiệm cho đủ chi tiêu, trong lúc đó hễ ba chúng tôi có cho chúng tôi đôi ba chục thì mẹ tôi đã chỉ vào con lợn đất nằm chễm chệ giữa buýp phê mà rằng:

- Không đứa nào nghĩ đến kẻ nghèo sao? Các con keo kiệt thế?

Làm tụi này thật khó lờ đi. Nhưng tuy không lờ, chúng tôi cũng không nông nổi như thằng Minh hay con Bé, thoạt nghe mẹ nói là lon ton mang tờ giấy bạc hai chục mới toanh gấp tư, nhét ngay vào khe hở trên mông con lợn đất một cách hết sức "quân tử tầu" được. Chúng tôi đâu có ngu?

Dĩ nhiên, hai đứa nó được mẹ khen dữ lắm. Nào biết thương người, nào có lòng tốt v.v... và vân vân.

Còn chúng tôi? Chúng tôi không phải là xấu hẳn, bằng cớ là mỗi đứa chúng tôi đều vui lòng rút bớt trong số tiền ba cho đi năm ba đồng, cũng đủ hai chục để góp thức ăn cho lợn. Rõ kỳ quái thì thôi, đời thuở nhà ai nuôi lợn, bằng tiền chứ không bằng cám, mà cho ăn bằng bạc giấy, bạc đồng lại cho ăn đằng mông bao giờ chưa? Con lợn thì cứ chễm chệ trên tủ buýp phê, một con lợn đất thô, xấu, đỏ chóe một cách rất là phản mỹ thuật mà rất khoe khoang! Trông không ưa được. Cả lũ chúng tôi đều ghét nó, nhưng mẹ thì trái lại. Một tháng, đôi tháng, mẹ lại nâng nó lên, xóc xóc thăm dò nặng nhẹ... với vẻ âu yếm khác thường.

Mỗi cuối năm, con lợn đáng ghét, cái gai trước mắt chúng tôi no nê, chứa bên trong nó từ đầu đến đuôi đầy nhóc đồng hào, đồng giấy đủ loại: từ tờ hai chục của Bé, của Minh, đến đồng năm, đồng mười của các anh chị mang tiếng là keo kiệt, cho đến đồng trăm đỏ chóe của ba tôi hay đồng năm chục tim tím mẹ đã bỏ vào mà bà tuyên bố là nhịn đi xe trong hai buổi chợ!

Chúng tôi ai cũng đòi được quyền giết chú lợn này, song mẹ tôi đã nghiêm trang tuyên bố: "quyền ưu tiên thuộc hai đứa bé nhất" hai đứa con hào hiệp, quân tử, có lòng tốt của mẹ tôi. Chỉ có hai đứa là được luân phiên thay nhau giết lợn cuối năm. Chúng tôi không được hưởng chút lợi gì trong việc ấy, song chúng tôi đều cho đó là một dịp thích thú, nên cũng tụm lại chứng kiến cuộc chém giết không đổ máu kia.

Minh (hay Bé) trong dáng bộ trang trọng đứng ngay giữa nhà áo quần mới tinh tay lăm lẳm con lợn đất nặng trịch chờ lệnh mẹ tôi. Bọn tôi cũng hồi hộp đợi, nghẹn cả thở trong giờ phút quan trọng đó.

Giết lợn đất cũng có cả một nghệ thuật đấy, không phải chuyện chơi đâu. Nâng lên thế nào, quật xuống thế nào cho con lợn vỡ toang ra, tiếng kêu rõ giòn, rõ lớn, mà đồng hào lớn nhỏ đừng có văng tuốt trong xó cửa, kẹt giường, gậm bàn, chân tủ hay quá xa ; vừa mất công đi tìm vừa e có kẻ manh tâm chiếm lấy làm của riêng không trả lại. Đó là chưa kể không cẩn thận mảnh vỡ có thể trúng tủ bể kính thì thêm chuyện, mất vui đi!

Tôi đã nhiều lần gạ gẫm và được Minh xiêu lòng thuận cho tôi giết lợn một lần rồi. Thú không tả xiết: này nhé, tôi giơ cao con vật cao quá đầu kia, giả vờ quật xuống hai ba lần mà không quật, rồi thừa một lúc không ai để ý, tôi vung tay một cái "xoảng" một tiếng, con vật vỡ tung ra, chị Mai ôm ngực kêu lên, tiền giấy, tiền hào văng tung tóe, những đồng hào sáng lấp lánh dưới ánh nắng từ cửa sổ chiếu vào. Cả bọn vỗ tay reo hò tở mở!

Chúng tôi cúi xuống, thi nhau nhặt, không, phải nói là tranh nhau nhặt mới đúng. Thôi thì không được hưởng, hãy tạm sờ mó cho đỡ thèm đôi chút vậy, đã sao? Nhặt xong, chúng tôi xếp riêng từng loại, đồng năm, đồng mười, đồng một... bạc giấy thì vuốt phẳng phiu, đoạn đếm. Dĩ nhiên những việc này đều thể hiện dưới sự kiểm soát của mẹ tôi. Món tiền to quá, chúng tôi không khỏi xuýt xoa tiếc rẻ: giá mẹ cho mỗi đứa một phần nhỉ! Giá mẹ chỉ cho trẻ mồ côi một nửa mà thôi, còn một nửa thì chia cho tụi mình nhỉ? Giá... Song chúng tôi ao ước một cách vô vọng. Mẹ tôi không hề nao núng chút nào. Mẹ tôi gom hết số tiền kia lại, cho vào cái túi vải, nghiêm giọng tuyên bố:

- Số tiền thật không bao nhiêu, song rất quí, quí ở chỗ các con đã nhịn quà bánh, mẹ đã nhịn đi xe, ba đã nhịn...

Không biết hai chị và lũ em tôi thì sao, còn tôi, tôi tức nghẹn, không thèm để tai nữa. Hai nghìn một trăm sáu mươi tư đồng bạc. "Ngần ấy tiền chắt chiu trong một năm ròng, ngần ấy mà dám tuyên bố là không bao nhiêu thì quả mẹ tôi... ngoa quá! Hóa ra mẹ tôi thương lũ trẻ mồ côi hơn là mấy đứa con ruột thịt của mẹ, trời xanh ạ". Có tủi thân không kia chứ? Có đáng khóc không kia chứ? Cho con vài chục thì tiếc, còn... Đột nhiên, chị Mai huých tôi một cái mà rằng:

- Sinh kìa, có đi chơi với mẹ không kìa?

Đi chơi? Đi những đâu? Nha Trang? Đà Lạt? Vũng Tàu? Tôi quên phăng điều bất mãn, hỏi dồn, lòng mừng khấp khởi. Giọng chị tôi chua hơn giấm:

- Đi chơi ở đằng chỗ mẹ mang tiền lại cho đó, chớ đi đâu, mày lúc nào cũng như trên cung trăng mới xuống ấy...

Ối! Tưởng đi đâu, hóa ra là lại đằng ấy, đằng chỗ mà vì họ nên tụi này xót ruột, tủi thân, mất tiền... thì chán chết! Ở nhà bắn bi lại còn thú vị gấp mười. Ra chị em tôi cùng một bụng, một dạ như nhau. Không ai đầu quân cả, trừ hai đứa bé nhất. Chúng tung tăng theo chân mẹ đi chơi. Mỗi bận như thế về nhà, chúng hân hoan không thua chi mẹ. Chúng khoe rằng các bà trong ấy khen chúng ngoan, lũ trẻ trong ấy dễ thương, nhà trong ấy rộng, trong ấy nhiều em bé, rằng... đủ thứ bà nhằng!

Thình lình, Bé vụt kêu lên:

- Này anh Sinh ơi! Người ta gởi lời thăm với lại.... cảm ơn anh đấy!

- Láo! Người ta làm gì biết tên tao, tao làm gì mà cảm ơn tao?

- Biết, người ta còn biết cả tên chị Mai, chị Lê, anh Hòa. Người ta khen mấy tụi mình ghê lắm, anh Sinh ơi!

- Sao không biết? Mẹ nói với người ta rằng món tiền mẹ mang lại là của mình cho! Em nghe rõ ràng mà Minh trợn mắt, cao giọng tiếp lời Bé.

Bé chen vô:

- Mấy người trong đó có hỏi sao mấy anh mấy chị không vô chơi nữa.

Tôi tò mò hỏi:

- Rồi tụi mày nói sao?

- Tụi em đâu có biết nói sao? Mẹ nói chớ, mẹ nói vầy nè: "Thưa, các cháu nó không quen đến chỗ lạ, các cháu xấu hổ" Thiệt mà, em không có nói láo đâu.

Chị Mai nheo mắt, bảo tôi:

- Thấy chưa? Thấy sự thật bị bưng bít chưa? Không ai ngờ rằng chị em mình bị bắt buộc phải làm việc nghĩa đâu! Sinh ơi!

Về phần hai đứa nhỏ không biết chúng làm quen với các trẻ mồ côi cách nào, trò chuyện ra sao, có gì vui vẻ mà cứ hong hóng suốt năm chờ ngày đến đó.

Chúng không như tụi lớn đầu chúng tôi, xuýt xoa luyến tiếc mỗi lúc cho lợn đất ăn, chúng làm nhanh và gọn công tác ấy, chúng tình nguyện hăng hái quá đi, kia! Chúng làm cho tụi tôi ngượng hết sức, tức hết sức, vì mẹ cứ mang chúng ra bảo chúng tôi soi gương bắt chước...

Suy cho cùng, nào chúng có tốt gì? Bởi thật ra chúng nào đã biết tiêu tiền : que kem, thỏi kẹo cũng moi túi mẹ. Mới học lớp năm, mới vào mẫu giáo mà mua sắm chi đâu? Bì sao được với tụi tôi. Thử hỏi bạn, lễ Giáng Sinh, ngày Tết tụi tôi cũng cần có tiền mua cái bưu thiếp chúc nhau chứ? Lâu lâu cũng cần mua cái tem thư gửi bạn chứ? Chị em gái của tôi cũng cần có cái nơ, cái lược be bé xinh xinh chứ? Đó là chưa kể những cuốn sách hấp dẫn, bày nhan nhản chung quanh chúng tôi kia. Mẹ tôi cứ làm như chỉ có TUỔI HOA thôi. Mà có nhiều nhặn chi cho cam: mỗi tháng hai kỳ, mỏng tanh tanh, đọc ngoém nửa khắc là xong từ đầu đến cuối. Tiền đâu chúng tôi mua bi, mua dế? Tiền đâu nước mía, nước chanh? Dễ thường chịu nhịn khát về nhà chắc?

Mẹ tôi không bao giờ tìm hiểu chúng tôi. Mẹ không bao giờ quan tâm đến những nhu cầu của chúng tôi, mẹ cứ gắt sao chúng tôi tiêu tiền, sao không làm như hai đứa nhỏ: hễ được đồng nào vứt tọt cho lợn đồng ấy! Dễ nghe chưa?

Năm thì mười họa mới cho chúng tôi ít trự mà không lần nào mẹ quên cái câu bất hủ: "Nhớ đến trẻ nghèo". Nghĩ có chán không? Thật y như thể chúng tôi mang nợ trẻ nghèo đâu từ tiền kiếp, y như chúng tôi chịu trách nhiệm trực tiếp về chúng vậy. Rõ thật bất công. Mà nào mình có giàu có chi cho cam?

Lại còn điều này nữa: chúng tôi không được hưởng Tự do, Dân chủ, nhưng quyền lợi thì là bình đẳng, một thứ bình đẳng rất vô lý, kỳ quặc, nghĩa là thế này: hễ mẹ cho mỗi đứa mười đồng thì lớn nhỏ đều  hưởng mười đồng, ba cho mỗi đứa hai chục thì từ đứa mới vô Mẫu giáo cho chí đứa đã vào Trung học đều chỉ nhận đúng hai chục, không có sai biệt kém hơn đồng nào cả! Có đáng chán không?

Vì thế nên khi nghe hai đứa nhỏ mách rằng trong chỗ ấy họ khen chúng tôi, họ mời chúng tôi, họ cảm ơn chúng tôi, chúng tôi đều chẳng thèm xúc động hay hãnh diện. Nói cho đúng, ban đầu cũng có đứa xúc động hãnh diện sơ sơ, nhưng chỉ một chút thôi, vì chị Mai, chị ấy đã làm cho chúng tôi sáng con mắt ra bằng giọng lịch duyệt, từng trải thế này:

- Tụi bây ngu! Đó là một lối mị dân cho dễ cai trị cũ rích, sao còn để cho bị lừa: mẹ có bảo là của mình góp cho, người ta mới cảm ơn mình, người ta có cảm ơn thế tụi mình mới phổng mũi lên, tụi mình có phổng mũi lên thế, năm tới mới dại dột để cho nhà cầm quyền (tức là mẹ tôi) bóc lột chứ! Hiểu chưa? Rốt lại chỉ chị em ta là bị thiệt thòi mà còn cứ nhơn hơn thì thật thậm ngu!

Chúng tôi nghe mà bàng hoàng như vừa trải qua một cơn ác mộng! Chị Mai tôi không ngờ thế mà lại thông minh quá đỗi! Quả xứng danh là chị cả chúng tôi. Tam đoạn luận của chị cừ quá đi mất!

Thế là từ đầu năm, chúng tôi họp nhau luôn vào lúc rảnh để tìm mưu ứng phó, hầu bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Sau nhiều ngày bàn cãi, thảo luận, chúng tôi đi đến quyết định chung: chúng tôi xui mẹ đừng cho tiền Cô nhi viện vào cuối năm như thông lệ, mà để đến đầu năm. Như thế, theo chúng tôi, lũ trẻ sẽ mừng hơn, mà trong viện người ta cũng thích hơn vì họ sẽ coi như một điềm may mắn trong năm mới.

Ấy, thế rồi trước khi lệnh giết lợn ban ra, tụi này ám sát nó đi chia nhau hết của cải tích trong bụng nó những của cải ấy một phần là của tụi này bị bóc lột quanh năm chứ nào phải riêng của mẹ, ba và lũ ngốc kia đâu? Tụi này có quyền hưởng chứ?

Dĩ nhiên mẹ tức lắm, nhưng mẹ không thể bắt tội đứa nào. Lại là dịp minh niên mẹ phải bỏ chín làm mười đi, chẳng lẽ làm ầm lên thì được cái gì! Vả lại về phương diện pháp lý thì không ai trách nhiệm về tính mạng con lợn quái quỉ kia, huống chi ngày tư ngày tết, người ta còn phải đi chơi đây đó, ai hơi đâu quan tâm đến nó? Sao mẹ không cẩn thận cất nó vô trong tủ từ chiều ba mươi tết cho được an toàn? Trách ai kia chứ?

Cả lũ chúng tôi lấy làm thú vị trong mưu toan bất chính đầy mạo hiểm kia. Bây giờ, đến giai đoạn thuyết phục cách nào cho bùi tai hoãn việc giết lợn cuối năm là đâu vào đấy cả. Đợi mẹ thuận rồi thì cố thuyết thêm là đừng giết vào ngày mồng một, mồng một mà có đổ vỡ, giết chóc không nên (dù là giết một con lợn đất). Hãy đợi đến mồng hai hay mồng ba. Như vậy mới dễ ra tay, vì tụi này cũng kiêng mồng một, sợ xui cả năm. Chúng tôi biết rằng mẹ có lệ đi thăm viếng đây kia vào ngày mồng hai với ba tôi. Chúng tôi sẽ xui mẹ cho hai đứa nhỏ đi theo, tụi nó mà ở nhà thì kế hoạch rất khó thực hiện, (cái đó cũng không khó, vì mẹ vốn hay cho hai đứa đi theo).

Đã đi thăm viếng xã giao ngày Tết thì thế nào không có mời mọc ăn uống? Có ăn uống thế nào mà chả có rượu? Mẹ tôi vốn tửu lượng kém, một chút bia cũng chếnh choáng rồi huống chi suốt một ngày ròng loanh quanh ngoài phố và trò chuyện với người này, người nọ thế nào mà không thấm mệt? Và khi về nhà nhất định sẽ không còn để ý chi nữa. Mẹ tôi sẽ bảo: "Đi ngủ sớm, các con, mai hẳn tính".

Ít nhất cũng trưa mồng ba hay mồng bốn mẹ mới phát giác ra vụ trộm bí mật, song than ôi! Bóng chim tăm cá còn biết kẻ gian ở góc trời nào? Trong lúc đó thì tụi này tha hồ tiêu Tết, thưởng xuân cho bõ... chao ơi! Kế hoạch thật là hoàn hảo! Mới nghĩ tới, chưa thực hành mà thấy mình nhẹ lâng như vừa mọc cánh ấy thôi!

*

Từ bấy giờ trở đi chúng tôi nhiều lần tính nhẩm và cùng nhau thích thú vì biết rõ ràng mặc dù năm nay cơm cao gạo kém, vật giá đắt đỏ nhưng lại là năm con lợn đáng ghét no nê nhất. Thì bạn tính: kỳ tháng tư cô Bích về chơi, cô cho chúng tôi mỗi đứa những hai tờ trăm còn thơm mùi mực, thẳng như một tấm bìa chưa qua một lần nếp gấp. Chúng tôi phải rứt ruột mà chia cho con lợn toi kia hết một tờ (mỗi đứa) vì mẹ tôi viện cớ chúng tôi chưa có thể làm chủ một số tiền quá lớn như thế. Mẹ ngang nhiên đánh thuế lợi tức phụ trội một cách bất hợp pháp vậy đó. Nhưng luật pháp thuộc về kẻ mạnh, cho nên cái gì của mẹ đề nghị cũng là phải hết!

Đến đầu tháng bảy, dì Hà từ ngoài Trung vào mua hàng, lại cho chúng tôi mỗi đứa đến ba tờ trăm nữa, vì chuyến đó dì được khá lời. Dĩ nhiên, chúng tôi phải nạp cho lợn hết một nửa số tiền to đó. Bạn có thấy tức hộ tôi không: tiền ít thì chia một phần tư, mà tiền nhiều thì chia đến một nửa kia. Bạn có thấy ai bị bóc lột hơn chúng tôi chưa?

Năm nay chị Mai đã biết cắt tóc, nên chị ấy cắt cho hai đứa em gái khỏi tốn tiền cho thợ. Mẹ tôi rất hài lòng. Mỗi bận cắt xong, mẹ hỏi:

- Bữa nay ngoài hiệu họ cắt tóc con gái bao nhiêu?

- Dạ, đắt lắm, mẹ ơi! Những năm sáu chục gì, kia đấy.

- Tốt lắm! Thế là mình lãi những năm sáu chục... mình được hưởng...

Thế rồi, trong lúc chị Mai hí hửng những ngỡ phen này mẹ sẽ thưởng công cho, ai ngờ, trước những con mắt ngạc nhiên của chúng tôi, mẹ mang nguyên tờ giấy 50đ cho con lợn đất!

Mấy lần sau chị ấy và chúng tôi phản đối dữ quá, nên mẹ nới tay cho, cải cách một tị: nghĩa là đáng giá năm chục thì cho chị hai mươi nhăm, còn hai mươi nhăm nuôi lợn. Đáng giá sáu chục thì nuôi lơn ba mươi...

Thỉnh thoảng, mẹ treo giải thưởng, đứa nào nhịn ăn quà sáng, chịu ăn cơm nguội thì được một số tiền. Cả bọn mừng rơn, nào hay rốt lại tiền kia cũng chỉ được có hơn một nữa, nghĩa là luôn luôn con lợn ngồi trên, ăn trước, ăn bám, ăn hại vào chúng tôi, ngang nhiên, tàn nhẫn không kể xiết!

Cái lệ ăn chè vào chúa nhật, ăn bánh vào ngày lễ cũng được giảm đi, số tiền đó lại dâng cho lợn đất.

Ấy là vì cơm cao, gạo kém nên mẹ tôi phát kiến rằng phải tìm cách bù vào để số tiền kha khá chứ cứ quanh quẩn trên dưới hai ngàn rưỡi thì không thấm vào đâu, cho người ta chả bõ.

Thậm chí đôi guốc mòn vẹt gót gần bằng lưỡi dao dưới bếp, mẹ tôi cũng không chịu mua thay, còn chần chờ cho đến lúc chiếc guốc còn có hai phần ba chiều dài, lúc mà chị em tôi phàn nàn kêu ca dai dẳng mẹ tôi mới mua đôi khác.

*

Thỉnh thoảng, một trong số chúng tôi bỗng thấy lương tâm vùng dậy trách móc sơ sơ. Nhưng răng của lương tâm chúng tôi là thứ răng sữa trẻ con, lại đúng vào lúc sắp thay lớp mới cho nên sự cắn rứt cũng không có gì đáng kể! Vả lại, nhà hùng biện chị Mai không ngừng khuyến khích chúng tôi bằng câu chí lý:

- Chuyện gì mà thắc mắc? Tao thử hỏi chúng mày: trong mấy năm nay, số tiền chúng ta góp lại cũng gần bằng số tiền chúng ta sắp cướp chứ ít ỏi sao? E hơn đi nữa chứ lại! Phàm, công việc từ thiện thì phải có sự đồng lòng, tình nguyện, mà nay mình bị bắt buộc thì còn nghĩa lý gì? Đáng lẽ chị em ta đòi lại, nhưng mà kẻ yếu không thể dùng sức thì đành dùng chước. Chúng ta nào muốn thế đâu? Sau này, khi làm ăn khấm khá ta sẽ tha hồ làm việc tốt để chuộc lại hành động ngày nay. Là nói cho cùng, chứ chúng ta nào có lỗi gì?

Thế là lương tâm chúng tôi xẹp xuống, chịu thua. Và chúng tôi yên lòng chờ giờ hành động.

Thấm thoát mà Xuân về, Tết đến. Mọi xúi xiểm của chúng tôi đều được mẹ nghe theo. Bà khen chúng tôi có nhiều sáng kiến. Con lợn đất thì cứ hếch mõm, giương mắt ngạo nghễ và khiêu khích chúng tôi, nó ngu si quá đỗi. Nó theo chúng tôi vào tận giấc mơ kia đấy!

Trọn ngày mồng một chúng tôi cứ nhìn nhau cười khúc khích. Ngày mai! Ngày mai! Hai tiếng mới hứa hẹn làm sao! Ngày mai sẽ có nhiều sự lạ: có giết chóc mà không gây buồn phiền, không đổ máu, mà lại thêm vui! Trong lịch sử loài người chắc không khi nào lại có trường hợp hi hữu như vậy.

Nhưng, chúng tôi không hề biết đến chữ "nhưng" khốn nạn, chữ "nhưng" bất ngờ, chữ "nhưng" đáng ghét này, vâng! Nhưng mồng hai, từ sáng sớm, chúng tôi hay một tin ghê gớm: chiến tranh ngay trong thành phố Sài gòn! Giới nghiêm suốt hai mươi bốn tiếng! Súng nổ, người ngã, nhà cháy... trời ơi! Còn mong gì chuyện mẹ ba đi thăm viếng nhà ai? Chúng tôi quên phắt con vật giàu có sung túc mà chúng tôi định giết đi, quên biệt, không một lần nhớ đến. Cho đến nỗi khi đạn nổ xoành xoành sát bên hè, lửa cháy rần rật xóm sau, khi chúng tôi cuống cuồng chạy trốn lửa đạn, không một ai nghĩ đến mang lợn chạy cùng.

Cả xóm sau cháy ngoém, xóm trước cháy sơ sơ. Mỗi ngày chúng tôi thập thò về đầu xóm rồi lại kéo nhau chạy nữa, không mong gì đến chuyện trở về. Mãi đến mồng năm, ba tôi mới vào trong được cùng một số các ông, để thăm nhà.

Khi ông trở ra, ông trầm giọng tin cho mọi người hay là "nhà mình không cháy" rồi thừ người, im lặng. Tức thì chúng tôi ào kéo nhau vào. Từ xóm trong, thỉnh thoảng lính chữa lửa khiêng một xác người ra, xác được bọc kín trong bao ni lông mà mùi hôi vẫn xông lên nồng nặc trong không khí. Gạch, ngói, tôn đổ nát, ngổn ngang, cháy xém, bừa bãi. Vài bức tường trơ trơ ám khói, vô số dây điện đứt rời, giăng dọc, giăng ngang khắp lối đi. Lá cây rụng đầy mặt đất. Ruồi nhặng từng đàn, vơ tay một cái cũng tóm được mươi con. Cửa trước và cửa sau nhà tôi đều bị cạy, phá tung ra. Cửa sổ trước nhà và bức tường ngoài vườn lỗ chỗ vết đạn. Cửa kính trong nhà vỡ nát. Vỏ đạn đầy nhà, to có, nhỏ có, có cái đường kính đo đúng bốn mươi ly. Hồ nước cạn khô. Trên lầu bị nhiều vết lủng nhất, có vết to bằng cả bát canh. Mẹ con chúng tôi thu dọn suốt buổi, dù sao cũng mừng vì không mất mát hư hại quá nhiều như hàng xóm hẻm trong.

Chúng tôi trước sau vẫn quên biến con lợn đất. Thình lình, em Bé kêu thất thanh:

- Ra coi, ra coi con lợn đất đây này!

Thế là chúng tôi bật lên, chồm dậy, lao ra nhà trước, mấy đứa trên lầu đâm bổ xuống luôn. Mẹ tôi cũng có mặt.

Lợn đất vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ, có điều mất biến nửa thân sau. Bụng nó trống rỗng: mảnh vỡ, tiền giấy, tiền hào tung tóe trên tủ, dưới gạch, nhưng toàn đồng một, giấy cũng như hào! Mẹ tôi đứng sững, im lìm không một tiếng kêu. Minh và Bé khóc òa lên một lượt, rồi Bé mếu máo mà rằng:

- Ai giết lợn đất rồi, mất hết tiền rồi, làm sao vô thăm Viện được... hu hu... Bé không biết, Bé bắt đền chị Mai, anh Sinh... hu hu... tại chị Mai anh Sinh bày đặt, không chịu làm như mẹ biểu mấy năm... hu hu...

Chúng tôi không ai dám nhìn ai, cùng quay đi.

Phải! Tại chúng tôi, chỉ tại chúng tôi mà nên nỗi.

Mẹ tôi ôn tồn dỗ hai đứa nhỏ:

- Các con đừng trách các chị, các anh. Các chị các anh có muốn vậy đâu, các chị các anh có lòng tốt, chỉ muốn...

Tai tôi ù đặc. Tôi vội vàng bước mau ra ngõ, tránh hai cặp mắt hờn trách của hai em, tránh đôi mắt dịu dàng của mẹ. Tôi không thể chịu được sự hối hận dày vò.

Khi tôi quay lại, cũng vừa bắt gặp đôi mắt chị Mai, đôi mắt đầy xót thương, hối hận. Lần đầu tiên, chị ấy có cái nhìn sâu thẳm như thế. Rồi chị cúi xuống, nước mắt giọt giọt tuôn trào.

Ra chị ấy và tôi cùng tâm trạng! Chao ơi! Khi người ta biết hối thì... muộn rồi! Bạn ạ!


MINH QUÂN   

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 100, Xuân Kỷ Dậu, 1969)


Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com

Thứ Ba, 28 tháng 1, 2020

NĂM HỌC LỚP NHẤT - Trần Hữu Nghiêm


Suốt năm năm làm học trò tiểu học tôi có thật nhiều chuyện đáng nhớ. Đó là những kỷ niệm ngát hương thơ ấu, mà không bao giờ tìm lại được. Thuở nhỏ vụng dại, vui vẻ nô đùa, học hành trong một ngôi làng. Trường có hai hàng bàng bóng mát, cột cờ trồng đủ thứ hoa. Chúng tôi quây quần trong một lớp học mấy chục đứa với ông thầy khả kính. Biết bao nhiêu chuyện vui buồn đã xảy ra mà có lẽ mai sau sẽ không quên được đâu.

Năm tôi học lớp nhất, vào dịp cuối năm trường có tổ chức một buổi liên hoan. Có cả văn nghệ, đủ thứ ca hát, kịch, vũ... Hôm đó phát phần thưởng cho các học sinh khá trong kỳ thi đệ nhất lục cá nguyệt. Thế là vừa qua kỳ thi, mùa đông đến trường tôi rộn rịp hẳn lên. Từ lớp năm cho tới lớp nhất đâu đâu cũng thấy vẻ hân hoan trên mọi gương mặt. Cả trường chuẩn bị cho buổi Tất niên thật xôm tụ.

Tuần lễ trước đó, thầy Lộc dạy lớp tôi nói:

- Năm nay lớp nhất được ông Hiệu trưởng giao cho một vở kịch lịch sử.

Thế là cả lớp nhao nhao, sách vở bút thước đẩy vào tận hộc bàn, hỏi liên tiếp làm thầy trả lời không kịp.

- Kịch gì vậy thầy? Phải Hai Bà Trưng không?

- Thích quá. Kịch lịch sử hay một cây!

- Diễn kịch Ngô Quyền đánh quân Tàu ở sông Bạch Đằng, thưa thầy.

Thầy Lộc mỉm cười, đợi bọn tôi bàn tán một hồi. Bọn con gái thích kịch Hai Bà Trưng, bà Triệu để được cưỡi voi giả, cầm gươm phất cờ thật oai. Bên con trai thích được làm vua mặc áo long bào, hét ra lửa. Đợi một lát cho vẻ hớn hở lắng bớt trên mặt bọn học trò, thầy từ tốn nói:

- Chúng ta diễn kịch vua Quang Trung đánh quân Thanh dịp tết chiếm thành Hà Hồi và Ngọc Hồi.

Chúng tôi à ra thích thú. Thằng Tốt vỗ tay, tức thì bọn con trai đồng loạt vỗ tay rầm rầm, có đứa còn vỗ bàn, vỗ chân lục cục làm bình mực gần đổ. Bên con gái có vẻ không hưởng ứng mấy, vì thấy vở kịch không có vai nào cho con gái cả. Thanh, trưởng lớp đứng lên hỏi:

- Thưa thầy, ai làm vua Quang Trung ạ?

Thầy Lộc nhìn anh Thanh mỉm cười. Tôi biết ngay anh Thanh nhắc khéo thầy, chứ trong lớp này ai xứng nhất so với anh. Thầy nhìn kỹ bọn con trai xong tuyên bố:

- Trò Thanh làm vua Quang Trung, trò Hành làm Tôn Sĩ Nghị, trò Quới làm Sầm Nghi Đống.

Chúng tôi cười ầm. Chả là Quới và Hành là người Trung Hoa, bán hủ tiếu ở chợ. Thanh đáng lẽ làm quân Thanh thì được làm vua Quang Trung. Tôi thấy anh sung sướng ra mặt, cả Quới và Hành cũng có vẻ vui nữa.

Sau đó thầy Lộc nhìn mặt đám học trò con trai để chọn làm quân ta hay quân Thanh. Đứa nào mập mạp, mắt ti hí thì chắc chắn làm quân Tàu, còn đứa nào cao ráo, dũng cảm thì làm quân ta. Dĩ nhiên phải như vậy, kết quả quân ta mặt mũi bảnh bao sáng sủa.

Xui cho tôi, hồi đó tôi hơi mập mạp lại lùn nhỏ nữa nên bị làm quân Tàu phù chán quá, làm quân Tàu thì chưa lên sân khấu đã cầm chắc bại trận trong tay. Tôi muốn bỏ cuộc, trốn. Nhưng hôm đó tôi được phần thưởng nên phải có mặt. Đành làm quân Tàu vậy.

Bọn con gái được chọn để vũ. Thế là huề, phe nào cũng có nơi để khoe khoang tài nghệ. Được mặc quần áo đẹp như công chúa, thoa son đánh phấn. Được múa kiếm oai hùng. Còn tôi, sau đó may mắn được chọn trong ban hợp ca. Ban này lên trình diễn đầu tiên. Thế cũng hách chán.

Thầy bắt mỗi đứa phải có gươm bằng gỗ, vua quan thì được phát gươm riêng. Lại phải kiếm nón cũ cắt cụt bớt, sơn phết lại. Quân Tàu sơn nón đen, quân ta nón vàng, viền đỏ. Mấy đứa làm quân ta thật sướng, được đâm vào người quân Tàu, được reo hò chiến thắng. Quần áo lại mới, còn quân Thanh toàn mặc lại quần áo cũ.

Ba tôi làm ở garage của sở, nên làm cho tôi thanh gươm thật đẹp. Gươm bằng nhôm, sáng bóng, có cả chuôi gắn nơi lưng quần. Bọn bạn thích lắm, gươm của tôi hách nhất nước mà lỵ. Đánh nhau nghe rợn người chứ đâu phải như gươm gỗ cọc cạch.

Hôm tập dượt, thầy Lộc đã chọn sẵn đứa nào đấu với đứa nào. Trên sân khấu phải có hai cặp đánh nhau túi bụi lúc giao chiến. Tôi đấu với thằng Muôn. Thanh gươm của nó to lớn, dài và nhọn. Tôi phải dặn trước, đánh nhè nhẹ, đừng có đâm mạnh quá đau lắm. Số phận quân Thanh chúng tôi là quăng gươm, té chạy. Lịch sử đã định rồi, ai mà dám cãi. Mà có cãi thì sẽ bị ăn đòn.

Coi vậy mà rồi ngày liên hoan cũng đến, mau ghê. Sân trường rực rỡ cờ xí, đèn đuốc. Những cây bàng như cũng vui hơn, dù mùa đông nhưng lá vẫn xanh kín. Bọn tôi hớn hở vô cùng, chạy lăng xăng rối rít làm như mình là nhân vật quan trọng. Dù gì cũng học lớp nhất, đàn anh mà. Thầy Hiệu trưởng nói hôm nay có cả ông Quận Trưởng và mấy nhân vật cao cấp trên quận xuống dự. Chúng tôi càng thấy buổi lễ quan trọng thêm nhiều.

Hôm đó, sau màn hợp ca chúng tôi vội vã chạy từ sân khấu xuống phòng học lớp ba để sửa soạn vở kịch. Mặc quần áo đời xưa vào, vẽ râu ria trông đứa nào cũng lạ hẳn ra. Quân ta vẽ râu vểnh lên, quân Tàu vẽ râu quặt xuống, hèn nhát. Tôi soi gương và nhìn thấy mình, tức cười quá. Giống như thằng hề múa rối.

Vở kịch bắt đầu bên ngoài. Anh Thanh làm vua thật hách. Râu dài, mặc áo vàng chói ở triều đình, giọng nói sang sảng. Lát sau là cảnh di quân của quân ta. Tụi nó hai đứa khiêng võng, một đứa nằm trong võng, bên trên lủng lẳng bánh tét, bánh chưng. Lần lượt diễn hành qua. Sân khấu ồn ào tiếng nhạc hùng. Tôi hơi run. 

Đến khi quân ta tràn vào thành, bọn Tàu phù chúng tôi xuất hiện. Hai bên đánh nhau, la hét như chợ. Tiếng gươm gỗ chạm vào nhau, tiếng chân nện thình thịch xuống sân khấu. Hai phe đứng hai bên cánh gà lần lượt ra. Nhưng tại bọn ra đầu không ăn khớp, thành ra đánh nhau loạn xà ngầu. Bọn chúng tôi hung hăng tràn nhau ra sân khấu. Thằng Muôn ra nãy giờ đang đánh với thằng Sao.

Tôi chạy ra giữa tiếng reo hò tở mở. Tôi rút gươm sáng chói ra. Chẳng biết lúng túng thế nào, miếng nhôm ở quần để xỏ gươm, bỗng theo tay gươm văng ra. Tôi hoảng hốt nhìn, tay thu lại nhưng không kịp. Miếng nhôm quái ác đó rơi xuống hàng ghế danh dự, trúng ngay trán ông ngồi cạnh Quận trưởng. Tôi há hốc mồm ra nhìn, mọi người đều nhìn. May mắn ông đó chỉ bị trầy sơ sơ, lúc đó thằng Nhân đâm vào bụng tôi. Sực tỉnh, tôi phản công lại mạnh mẽ. Thằng Nhân yếu hơn, chạy vòng quanh rồi lùi vào. Đáng lẽ tôi phải chết, nhưng tôi lại hăm hở đấu với tên khác. Chợt nghe loáng thoáng tiếng nói bên cánh gà. Đầu hàng đi chứ, Nghiêm. Giả bộ chết, chạy vô trong đi. Khi đó tôi mới sực nhớ số phận Tàu phù của mình.

Thằng Tâm đâm vào ngực tôi, tôi té xuống quăng gươm và bò vào trong. Xui xẻo làm sao, thanh gươm lại rơi xuống phía khán giả. Lần này rơi trúng một vị phụ huynh. Ông ta giật mình, sau đó cầm gươm cười cười.

Thầy Lộc cú đầu tôi đau điếng. Quả là cái gươm báo hại. May là ai cũng hỉ hả, cũng vui vẻ với chúng tôi nên họ chỉ cười ồ khi gươm rơi xuống. Không khí hào hứng, làm cho ai nấy đều vui.

Khi ra lãnh thưởng, tức cười quá. Chính ông phó Quận bị miếng nhôm văng trúng trán, là người trao phần thưởng cho tôi. Tôi đỏ mặt lẫn run sợ, lí nhí cám ơn. Hình như ông biết tôi, ông xoa đầu tôi tươi cười.

Hú hồn! Tôi mặc bộ quần áo quân Tàu, nón đen, chạy về nhà tôi gần đó cất phần thưởng. Má tôi cười vui sướng, cho tôi tiền mua xá xị uống.

Trở lại, tôi đi giữa đám khán giả. Họ xầm xì, chỉ trỏ. Tôi thấy mấy chuỗi giấy màu phất phơ, như niềm vui đang nở trong lòng.


TRẦN HỮU NGHIÊM    

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 66, ra ngày 26-11-1972)


Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2020

CON HEO ĐẤT - Phương Việt


Không biết lần nầy là lần thứ mấy, chị Nam mở tủ ra, xáo trộn đống quần áo lên để tìm trăm bạc. Trăm bạc toàn bằng giấy chục đồng. Tối hôm qua, đi chợ về, chị đã cẩn thận thu dưới đống áo quần, thế mà bây giờ không thấy nữa. Trời ơi! Năm hết Tết đến, gia tài chỉ còn trăm bạc, mà lấy tuốt! Chị Nam hốt hoảng, xáo tìm một lúc rồi chạy ra sân nhìn quanh. Không lẽ tên kẻ trộm nào tinh ranh đến thế! Chị nghĩ thầm: có khi chồng chị đã lấy đi đánh xúc xắc rồi. Anh Nam nửa tháng nay mất sở làm, ngồi không, anh nảy ra ý kiến: đi đánh bạc để kiếm tiền! Lúc này chính phủ cấm đánh bạc rất ngặt, nhưng những hạng người máu mê cờ bạc vẫn lập được mưu kế, chơi giấu diếm.

Vừa thấy mặt chồng, chị Nam đã làm ầm lên:

- Trăm bạc tôi cất trong tủ đâu? Trả lại tôi mau, để tôi đi chợ!

Anh Nam ngạc nhiên nhìn vợ:

- Nào ai biết trăm bạc mình để ở đâu mà hỏi! Cất đâu cứ đó mà tìm, tôi không biết.

Chị Nam bù lu bù loa:

- Trời ơi! Anh không biết! Anh không biết thì ai vào đó mà biết!

Rồi chị nằm vật xuống giường, vừa khóc vừa kể:

- Anh thất nghiệp, một mình tôi chạy ngược chạy xuôi, buôn tảo, bán tần, nuôi anh, nuôi con. Hôm qua bán rau được trăm bạc, mừng hết lớn, định hôm nay đi chợ, mua chút đồ ăn trong ba bữa tết. Ai ngờ anh lại lấy đi cúng vào sòng bạc nào rồi. Anh giết tôi anh Nam ơi!

Ban đầu chị ta vừa khóc vừa kể từ tiếng, một lúc sau chị gào thật to. Anh Nam nhớn nhác nhìn ra ngoài, rồi quay vào mắng vợ:

- Mình làm gì thế? Chuyện gì đâu có đó. Mình thấy tôi đánh bạc hồi nào, mà mình làm vang lên thế, lỡ cảnh sát nghe được thì sao?

Chị Nam lồm cồm ngồi dậy xỉa xói vào mặt chồng:

- Nghe được thì anh đi tù! Này tôi nói cho biết: Trưa nay mà anh không đem trăm bạc lại cho tôi, thì tôi đi trình cảnh sát cho mà xem. Tôi nhất định móc cho ra trăm bạc của tôi!

Nói rồi chị vùng vằng cắp nón đi ra cửa. Ra đến đường cái, chị đứng nhìn quanh, chẳng biết đi đâu nữa. Tức mình thì đi cho khuây khỏa, chứ biết vay mượn vào ai. Các người chị quen biết, họ có khác gì gia cảnh chị. Độ trước, lúc chồng chị còn việc làm, chị còn hơn họ là đàng khác. Nước mắt chị lại trào ra. Chị khóc tức tưởi. Chồng chị trước đây có biết cờ bạc gì đâu. Chẳng qua ở không rồi sinh làm bậy. 

Anh Nam thấy vợ đi khuất xuống đường dưới, anh cũng vội vàng chụp mũ lên đầu, đi lên phía trên. Anh đâm ra bối rối, không biết toan tính thế nào, vì chính anh đã lấy trăm bạc của vợ! Có điều là anh nướng hết rồi! Anh bứt tóc, giận mình đã liều quá. Không biết ma xui quỉ khiến thế nào, anh lại thấy vợ cất trăm bạc vào tủ. Thế rồi, cả đêm anh nằm mơ thấy mình ngồi vào bàn xúc xắc, đặt đâu trúng đó. Chơi một lúc, anh kiếm cớ đi ra ngoài, đếm lại bạc: kể cả trăm bạc vốn, anh có những sáu trăm! Chao ôi! Sướng quá! Anh lẩm bẩm tính những món tiền phải tiêu: đem trả cho vợ trăm bạc và cho thêm trăm nữa để mua sắm đồ ăn Tết ; lấy hai trăm chuộc lại cái đồng hồ đeo tay cầm hôm qua ; mua cho con Hạnh chiếc áo mặc Tết năm chục, tội nghiệp con bé mới 12 tuổi đầu, Tết nhất không được một manh áo mới để khoe với chúng bạn! Thế vị chi đứt mất 450 đồng. Còn 150 đồng mình xìa ba bữa Tết! Anh khoái quá reo lên một tiếng, bỗng giật mình tỉnh dậy. Trời đã sáng hẳn. Anh đưa mắt nhìn quanh. Vợ anh đã đi đâu từ sáng. Con Hạnh cũng đi chơi đâu nốt. Đột nhiên anh nghĩ tới trăm bạc của vợ, thâm tâm anh quả quyết hôm nay thế nào anh đánh cũng được. Anh lật đật tung chăn nhảy xuống giường đi lại mở tủ. Trăm bạc vẫn còn nằm yên dưới đống áo quần. Anh run run giơ tay chụp lấy cho vào túi. Anh vừa bước chân ra sân, thì con anh đứng nhìn anh trân trối. Anh chột dạ, nghi ngờ không biết nó có biết anh lấy trăm bạc không, vội hỏi:

- Hạnh, con đi đâu về?

Con bé ngập ngừng trả lời:

- Thưa ba, con đi chơi bên bác Châu về!

Yên trí, anh bảo con:

- Thôi con ở nhà coi nhà. Chốc nữa má con có hỏi, bảo ba đi lên trên này có chút việc.

Bé Hạnh mở miệng toan nói gì với ba nó, nhưng nó lại thôi, đứng yên nhìn ba đi ra khỏi cửa. Anh Nam bảo con là anh lên xóm trên có việc, nhưng đi lên được một quãng, anh lại rẽ đường đi xuống xóm dưới. Ngôi nhà gạch trước mặt anh, bề ngoài xem như không có người, nhưng sự thật ở trong, có hàng chục người đang sát phạt nhau. Một vài đứa trẻ chơi vớ vẩn trước cửa, chủ nhà đã thuê chúng nó để xem chừng người lạ mặt hay Cảnh sát tới. Chỉ một mật hiệu của chúng, tất cả mọi người ở trong nhà rút lui ra cửa sau chuồn thẳng. Thấy anh Nam chúng nó mở cổng cho anh vào. Chúng nó đã quen mặt anh, mấy hôm nay, ngày nào anh chẳng tới.

Cầm trăm bạc trong tay, anh đứng nhìn họ đánh một lúc. Anh thử đoán ba lần, khi mở đều trúng cả. Đến lần thứ tư anh không do dự gì nữa, anh đặt cả trăm bạc vào con số mà anh chắc thế nào cũng trúng. Không may cho anh, cái nắp giở lên: con số khác trúng! Anh Nam đứng sững, nhìn bàn tay người chủ cái đưa ra lùa bạc vào. Mồ hôi ra như tắm, anh thất thểu ra về, vì hôm nay, không còn gì bán nữa. Thấy anh vừa vào lại ra ngay, thằng bé nói mỉa:

- Không có tiền, thì vào làm quái gì cho mệt!

*

Thấy ba má mắng nhau, bé Hạnh đi vòng ra sau nhà nhìn vào. Chưa khi nào, bé lại thấy má nó dữ tợn như thế. Mắt má nó đỏ kè, long lên, tóc xổ ra, tay xỉa xói vào ba nó, miệng nói oang oang, trông như một mụ điên. Bé mếu máo, nhưng không dám khóc to. Chờ ba má nó ra khỏi nhà, bé mới vào nhà, lại phía giường ngủ của bé, giở chăn lên lấy con heo đất ra. Con heo bằng đất nung, trên lưng có một lỗ xẻ dài để bỏ tiền vào. Trước đây lúc ba Hạnh còn đi làm, tháng nào lãnh tiền về cũng cho Hạnh một tờ giấy chục đồng thật mới. Rồi cả má nữa, bữa nào má buôn được lời nhiều, thế nào Hạnh cũng xin được tờ giấy chục đồng. Được bao nhiêu, Hạnh không mua quà, Hạnh nhét vào bụng con heo đất hết. Hạnh đem con heo đất ra đằng sau nhà, ghé mắt nhìn vào đường xẻ: bụng con heo tối quá, không trông thấy gì cả. Hạnh lắc lắc con heo, những tờ giấy bạc ở trong xô vào nhau nghe xào xạc. Hạnh biết má giận ba vì ba đã lấy trăm bạc của má. Có lẽ ba đánh thua hết rồi. Bây giờ chắc ba đi mượn tiền, nếu không mượn được, chốc nữa mà về, e ba má sẽ mắng chửi nhau nhiều hơn khi sáng. Thôi bé hy sinh lấy tiền của bé bỏ vào đó cho má, để ba má khỏi la rầy nhau. Bé Hạnh nâng niu con heo đất một lúc rồi đi lại phía cục đá tảng. Một tiếng "xoảng", con heo đất bể tan tành trên tấm đá. Giấy bạc một chục văng ra tứ phía. Bé Hạnh nhặt vội vàng, xếp lại cẩn thận, đếm được 12 tờ. Bé lấy riêng ra hai tờ, sắp mười tờ kia lại tử tế, đem vào mở tủ để dưới đống áo quần. Bé lại chạy ra lượm từng mảnh vỡ con heo đất vất đi. Bé vừa làm xong, thì má về. Bé đứng tái mét nhìn từng cử chỉ của má. Chị Nam vừa vất nón xuống đất đã hỏi oang oang:

- Ba đâu, Hạnh?

Hạnh thưa nhỏ nhẹ:

- Thưa má, ba vừa đi, con không biết đi đâu.

- Thế con có thấy ba con vào mở tủ ra không?

Hạnh đáp lí nhí:

- Thưa má, có.

Chị Nam vội vàng lại mở tủ, giở đống quần áo lên. Vừa thấy xấp bạc, chị mừng rú lên:

- A, đây rồi! Đây rồi!

Rồi chị thở hổn hển:

- Trời ơi! Chút nữa thì mình không biết lấy gì ăn cho qua ngày Tết!

Nét mặt chị rạng rỡ, chị đếm lại xấp bạc: 10 tờ đúng! Chị khoái trí ngúc ngắc cái đầu:

- Ừ, có thế chứ! Nuốt không trôi, sợ mình đi trình cảnh sát!

Sung sướng quá, chị nói huyên thuyên. Chị ẵm bé Hạnh vào lòng, nựng nịu:

- Con coi nhà cho má, để má đi chợ mua đồ ăn kẻo trưa nhé!

Thấy má trở lại hiền hòa, bé Hạnh quàng tay lên cổ mẹ, nũng nịu:

- Hồi sáng, con thấy ba má giận nhau, con sợ quá!

Chị Nam vuốt ve con:

- Tại má lo quá, con à. Không có trăm bạc ấy, thì cả nhà ta biết lấy gì ăn cho qua bữa Tết?

Có tiếng động. Chị Nam nhìn ra, thấy chồng về, chị nhoẻn miệng cười, nói mỉa:

- Chào ông, ông sợ tôi đi trình cảnh sát sao mà để bạc lại đó? Thôi, ông ở nhà với con, để tôi đi chợ đã kẻo trưa quá rồi!

Anh Nam ngạc nhiên quá. Anh đang lo chưa biết nói thế nào cho vợ im miệng đi. Thế mà ai đã trả tiền lại đó? Anh không hiểu ra sao cả. Anh đứng sững, mặt đực ra như tượng đá. Chờ cho vợ ra khỏi nhà, anh chạy lại hỏi con:

- Hạnh, ai để tiền lại cho má con đó?

Bé Hạnh gục đầu vào ngực anh, mếu máo:

- Thưa ba, con đập con heo đất của con, con lấy 10 tờ giấy bạc chục để vào đó cho má. Hồi sáng, con thấy ba đi đánh bạc, con muốn xin ba đừng đi, mà con sợ ba đánh!

Anh Nam nghẹn ngào, ôm lấy con vào lòng, hôn lấy hôn để:

- Trời ơi! Con ngoan quá! Con đã cứu ba! Thôi để qua Tết, ba đi làm, ba sẽ trả lại cho con. Ba sẽ mua cho Hạnh con heo đất khác.

Bé Hạnh hai tay ôm choàng lấy cổ ba nó:

- Không, con không bắt ba trả tiền lại. Con xin ba đừng đánh bạc nữa. Con thấy má giận ba vì ba đánh bạc, con buồn quá!

Anh Nam ôm chặt lấy con, hôn lên hai má phinh phính của con:

- Ừ, ừ! Ba hứa với con, từ rày cho đến chết, ba nhất định chừa đánh bạc. Và ba má sẽ không giận nhau bao giờ nữa đâu!

Bé Hạnh sung sướng nhìn ba, nét mặt em sáng lên, đẹp như một nàng tiên bé nhỏ.


PHƯƠNG VIỆT    



(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 1, Xuân Quý Mão, 1963)


Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com


Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2020

ÁO HOÀNG HOA - Thụy Đỗ

Gửi TH.

Rủ mây về núi cao vời
Ta ra ngọn suối ngồi cười với hoa
 

Bé về những nét kiêu sa
Êm làn gió, cũng mơ hồ tiếng chân
 

Nghiêng mình vớt khẽ nhánh rong
Ngón tay bé cũng bềnh bồng trong ta
 

Bé ơi mặc áo hoàng hoa
Để con bướm nhỏ ngẩn ngơ lượn vòng
 

Thì thầm hát với hư không
Mùa Xuân chợt cũng vô cùng dấu yêu
 

Bé về nắng mới vừa xiêu
Áo vàng rung với gió chiều khẽ bay
 

Hỏi lòng chưa hết men say

                                                 Thụy Đỗ

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa Xuân Quý Sửu, 1973)


Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com

Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2020

TẾT VIỆT TRÊN ĐẤT PHÁP - Đỗ thị Thuấn


- Ê! Thanh, mày về hồi nào vậy?

Thanh giật mình quay lại, chàng bồi hồi khi nhận ra người bạn học cũ của chàng, Quân, da xạm đen trong bộ quân phục. Chàng nói với bạn:

- Trời, Quân, gặp mày mừng quá. Tao về từ ba, bốn tháng nay rồi đến tìm mày ở nhà, mới hay mày đã đổi địa chỉ, gặp nhau ở đây thật là may. Mình kiếm chỗ nào ngồi uống nước nói chuyện chơi đi?

- Hay là về nhà tao đi, nhà tao cũng gần đây. Mày về cho biết, luôn thể thăm má tao, bà vẫn nhắc đến mày luôn.

- Ừ, được rồi.

Thanh vừa ở Pháp về, chàng đã học bên ấy 5 năm trước khi lấy được cái bằng kỹ sư về ngành điện. Vì nhà còn có một mẹ một con, các chị lớn đã đi ở riêng, nên mẹ gọi Thanh về cho bà bảo khỏi nhớ. Hiện chàng con đang xin việc nhiều nơi, tìm chỗ làm xứng đáng với khả năng của chàng. Quân nắm tay Thanh dắt về nhà mình, vừa vào đến cửa thì lũ em chàng đã chạy ùa ra nắm lấy tay anh.


Bà mẹ Quân cũng vừa từ dưới bếp lên, nhìn Thanh rồi hỏi:

- Phải cháu Thanh đó không?

Quân vội cười, đỡ lời bạn:

- Vâng, thưa mẹ Thanh đấy ạ, hắn vừa từ Pháp về, con gặp hắn trên đường, bèn rủ hắn về đây để thăm mẹ đấy ạ.

Thanh cũng cười, chào bà cụ:

- Thưa bác, bác vẫn mạnh chứ ạ?

- Vâng, tôi cũng thường. Thế nào, Thanh về có gì vui không? Hay tối nay ở lại đây ăn cơm với chúng tôi đi nhé, rồi kể chuyện bên ấy cho các em nó nghe.

Mấy đứa em Quân mắt đã sáng rỡ lên chờ đợi. Thanh thấy vậy, mỉm cười:

- Thưa vâng ạ, nhưng con chưa cho mẹ con biết, để con về qua nhà một tí rồi sẽ trở lại vậy ạ.

- Cháu nhớ trở lại sơm sớm nhé.

- Vâng ạ.

Rồi Thanh cười nhìn bạn:

- Thôi, tí nữa nhé!

Một giờ sau, Thanh đã ngồi tại bàn ăn nhà Quân, chung quanh là các em Quân, và phía bên kia là Quân và bà mẹ. Ba Quân đi vắng vì được bạn cùng sở mời ăn tối nay. Mẹ Quân mời:

- Cậu Thanh cầm đũa đi để các em nó ăn, rồi tí nữa cậu sẽ kể chuyện cho chúng nó nghe. Nào, các con muốn biết gì thì lát nữa hỏi anh nhé!

Mọi người ngồi ăn uống vui vẻ.


Một lúc sau, Minh, đứa em Quân mười sáu tuổi hỏi Thanh:

- Anh Thanh, ở bên Pháp thích không anh?

- Có lúc thích, có lúc không, em à. Có những cái lạ lạ hay hay làm cho mình thích, nhưng nhiều lúc thói quen bị đổi khác, mình thấy thiếu thốn, nhớ nhà lắm.

Hương, đứa em gái mười lăm tuổi cũng hỏi:

- Lạ, thích như thế nào hả anh? Anh kể cho tụi em nghe đi.

Quân mỉm cười:

- Có nhiều thứ lắm, thí dụ như đời sống tân tiến, lâu lâu họp bạn đàn hát, nấu ăn cũng vui, và được dịp gặp nhiều bạn ngoại quốc, trao đổi văn hóa, hoặc được mời đến dự những buổi văn nghệ các xứ khác, ví dụ như các nước Nam Mỹ, Phi Châu, Anh, Mỹ, Gia Nã Đại, Thái Lan, Lào chẳng hạn và nhất là hè đến, được đi du lịch xa với bạn, rất thích. Ở các nước Âu Châu đi du lịch rất dễ dàng, và không đắt lắm. Nếu ít tiền, thì ghi tên vào các nhóm du lịch của sinh viên, còn nếu có bạn Pháp hay Việt có xe hơi mình sẽ góp tiền đi chơi chung, đến mỗi nơi lại dựng lều trong các khu dành riêng, cũng rất rẻ và rất an toàn. Như vậy mình sẽ tha hồ ngoạn cảnh, trong một tháng hè, mình sẽ có thể thăm rất nhiều nơi, nếu vài ba ngày mình lại đổi chỗ ở, đi từ tỉnh này đến tỉnh khác.

Minh lại lên tiếng:

- Thế ở bên Pháp, anh thích nhất tỉnh nào hả anh?

- Ở bên ấy, anh thích nhất các tỉnh miền nam, vì cảnh đẹp, đầy hoa và khí hậu lại ấm áp.

- Miền Nam là vùng bên bờ Địa Trung Hải đó hả anh?

- Ừ, vùng đó gọi là Côte d' azur, vì bờ biển của nó rất đẹp. nước trong xanh như ngọc bích, và người Pháp cũng gọi miền nam của họ là Midi, vì họ cho rằng ở đấy có nhiều nắng ấm, như là buổi ban trưa, chứ miền bắc nước Pháp, trời hay xam xám lắm.

- Thế anh thấy biển ở bên ấy, với biển ở bên mình, biển nào đẹp hơn hả anh?

- Ý em muốn nói bở biển? Theo anh, bờ biển miền nam bên ấy đẹp một vẻ đẹp lộng lẫy, với các cây thông và các mỏm đá, người ta đông đúc, đường xá rất tân tiến, và đâu đâu cũng thấy vết sửa sang của bàn tay con người, còn các biển phía tây nước Pháp, ven bờ Đại Tây Dương, thì lại đẹp một vẻ hoang dã, lạnh lẽo hơn, vì trời thường nổi gió. Còn bờ biển xứ mình thì đẹp khác, một vẻ đẹp thơ mộng, thái bình hơn và theo anh, anh thích bờ biển Việt Nam hơn là bờ biển xứ Tây. Có lẽ vì nó là đất nước mình, cũng có lẽ là vì những phong cảnh Việt Nam, nó đã ăn sâu vào tâm trí anh từ thuở còn nhỏ, nên anh nhớ hoài, không quên được.

Thấy mình có vẻ như sắp làm thơ, Thanh vội ngừng lại. Thu, em Hương, nhỏ nhất, tiếp lời:

- Thế anh nhớ nhà có buồn không?

- Buồn chứ, vì vậy nếu không đi chơi, thì tụi anh thường tụ họp với nhau, những chiều thứ bẩy, chủ nhật, nấu ăn chung, nói chuyện, hoặc đàn hát với nhau cho đỡ buồn.

- Thế tết ở bên ấy thì anh làm gì, hở anh?

- Tết bên ấy, anh không được nghỉ như các em ở bên này đâu. vì vậy tụi anh chỉ chọn một tối thứ bẩy nào gần nhất, trước hay sau tết, để bày ra một dạ tiệc, chung vui với nhau mà thôi.

- Trong dạ tiệc, các anh làm gì hở anh?

- Thường thường, các anh họp tất cả các bạn ở tỉnh lại, vì tỉnh anh ở cũng bé, chỉ có lối bốn mươi sinh viên Việt Nam và các anh tổ chức nấu các món ăn Việt Nam, và chương trình ca nhạc giúp vui. Có năm các anh mời các vị giáo sư, và các bạn sinh viên ngoại quốc nữa, để họ chia sớt niềm vui với mình, và cũng để giới thiệu một phần nào văn hóa nước mình. Nhưng cũng có năm, các anh chị ấy thấy đông quá, nên ngại vì sợ mệt, chỉ tổ chức giữa các người Việt Nam với nhau mà thôi, và chỉ mời một vài người có trách nhiệm đối với sinh viên bên ấy nữa thôi.

Hương hỏi:

- Thế ai đi chợ, ai nấu món ăn và các anh làm món gì thế hả anh?

- À, đi chợ thì đã có các anh lớn có xe hơi, lãnh nhiệm vụ, còn nấu ăn thì có các chị lo, các anh thì trang hoàng căn phòng khách lớn, đã mượn sẵn của cư xá, và các anh cũng phụ giúp bưng đồ ăn nữa.

- Thích nhỉ, anh nhỉ, còn các món ăn?

- Các anh làm những món thông thường mà mọi người đều ưa, như phở, hay mì, chả giò, gỏi gà, cháo gà v.v... hay cơm rang... Các anh làm mỗi năm vài món thôi, nếu tất cả đều đồng ý.

- Giỏi quá, các anh làm sao biết nấu cơm?

- Mới đầu không biết, sau nhờ bạn chỉ cho, cũng quen đi chứ em?

Ở bên ấy, nhớ nhà, chỉ có cách làm cơm Việt cho bớt buồn, em không biết chứ thà biết nấu cơm còn hơn nếu không sẽ bị những dịch vụ như đi chợ, rửa bát.

Hương cười:

- Anh nói làm em buồn cười quá. Sang tận bên Pháp để học được nấu bếp!

Thanh cũng cười:

- Thế đấy em, nhiều cô sinh viên lúc mới sang cũng còn loạng quạng lắm, vì ở nhà, có khi được cha mẹ cưng chiều, không cho làm việc gì đâu, thế mà sang đấy, chỉ ít lâu là biết làm cơm ngon lắm, nếu không sẽ thua bọn con trai còn gì.

Hương nối lời:

- Còn con trai sang đấy cũng biết nấu nướng, giúp đỡ được các cô gái như tụi em?

Cả nhà cùng cười.

Minh ngắt lời, sau đó:

- Thế nhưng mình đang nói chuyện tết kia mà? Anh chưa cho tụi em biết, các anh tổ chức chương trình ca nhạc như thế nào?

- Các anh đôi khi cũng làm một sân khấu, mượn máy khuếch đại âm thanh, và các chị lên ca những bài hát về Tết, hoặc những bài tỏ tình nhớ thương quê hương. Các chị còn có những màn vũ nữa, như múa nón, múa quạt hay múa đèn, những màn này được ngoại quốc khen ngợi nhiệt liệt lắm, nếu họ được mời đến xem. Các anh còn có đóng với các chị những vở kịch kể lại một chuyện cổ tích, hoặc những vở kịch vui, những sớ táo quân, những màn múa lân hay màn biểu diễn võ nghệ Thái cực đạo nữa. Anh nào biết đàn hát thì cũng lên trình diễn nhạc tây và nhạc Việt, em biết không, có lần có một anh còn biểu diễn đàn cả một bài cổ nhạc Việt Nam nữa đấy, đặc sắc lắm, rất được ngoại quốc khen ngợi, nhưng thường thì trong chương trình văn nghệ, các chị đóng vai trò quan trọng hơn các anh, vì các chị mới có giọng oanh vàng, và ai cũng say mê những bài ca của các chị, nghe rồi đỡ nhớ quê hương, hay càng thêm nhớ quê hương nhưng mà chắc chắn là yêu đời hơn.


Mắt Thanh mơ màng như hồi tưởng lại cái không khí tết năm nào nơi xa xăm kia, mà chàng đã được hưởng, và tết năm nay, các bạn chàng ở bên ấy cũng sẽ được hưởng. Các em Quân như cũng không dám quấy phá phút mơ mộng của chàng. Lát sau Hương mới hỏi:

- Anh về rồi, có còn nhớ bên ấy không?

- Đôi khi thôi, em ạ! Đôi khi, những đêm khó ngủ, vì mấy ai dứt bỏ được dĩ vãng mình, ở bên ấy thì nhớ bên mình, về đây, lại nhớ đất Pháp, nhưng dầu gì, anh cũng nhớ ít thôi, vì anh biết đây mới là quê hương anh, có những người dân mang cùng màu da, và anh từ khi về, mới cảm thấy thương mến những người dân Việt Nam xiết bao ; những khuôn mặt mang nhiều nét quen thuộc, cùng một cảm nghĩ với mình. Không, chính ở bên ấy, anh mới nhớ bên này nhiều hơn và bây giờ, mỗi khi nhìn thấy một người ngoại quốc trên xứ mình, anh lại thấy thương thương họ, vì họ đã phải chịu cảnh ra đi xa xứ sở mến yêu.

Quân tiếp lời, để phá tan bầu không khí như đượm vẻ u buồn:

- Và tết này, anh Thanh sẽ được ăn một tết đầu tiên với gia đình, kể từ ngày trở về quê hương.

Mọi người cùng mỉm cười, và vì bữa ăn đã xong, má Quân mời mọi người qua phòng khách để uống trà và nghe nhạc. Thanh cũng đứng lên xin phép về vì mẹ chàng đang mong.


ĐỖ THỊ THUẤN  

(Trích tuần báo Thiếu Nhi Xuân Nhâm Tý, 1972)


Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com