Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2017

HẸN XƯA TRONG MẶT TRỜI BUỒN - Trần Miên Trường















Hơi thở học trò vô tội
Bọn mình sưởi ấm cho nhau
Mai tao đi vào quân đội
Bọn mình thôi giã từ nhau.
 
Những ngón tay gầy đen nhánh
Một lần gói trọn niềm thương
Mai tao chim trời vỗ cánh
Thơ ngây rồi cũng lên đường.
 
Son giá ngày xanh một thuở
Mái trường phong kín buồn vui
Xa rồi bút nghiên sách vở
Tao đi cảnh luống ngậm ngùi.
 
Từ đó bọn mình cách trở
Gió mưa lạnh tuổi trăng sao
Trong hoang liêu buồn nhắc nhở
Thư từ nhớ viết cho tao.
 
Mai tao đi vào quân đội
Hành trang nặng trĩu tủi hờn
Súng gươm mới mười lăm tuổi
Vào đời chưa thấy lớn khôn.
 
Hẹn xưa một lần chưa nhạt
“Long mày đi trước bình yên
Chờ bọn tao về họp mặt
Một ngày từ giã bút nghiên.
 
Trong mặt trời buồn nhắc nhở
Hẹn xưa đã hiện hữu rồi
Bọn mình chừ chung hơi thở
Súng gươm ấm lại môi cười.
 
Ngày mai nắng mới reo ngoài nội
Thanh bình trăm hoa nở đua duyên
Bọn mình thôi giã từ quân đội
Trả súng gươm về với bút nghiên.
 
TRẦN MIÊN TRƯỜNG
 
(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 103, ra ngày 1-4-1969)



 Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com


CHIẾC ROLEX ÂN NGHĨA - Quốc Bảo



Đakao ngày 30-10-1971

Kính gửi Thiếu Uý Bùi Dương Uy KBC 6757

- Anh Uy ơi!

Anh chết thật rồi hả anh Uy?

Cho đến bây giờ em vẫn chưa tin là anh đã chết.

Chết gì mà dễ quá vậy? Chết gì vô lý vậy hả anh?

Tối hôm qua em đem cái đồng hồ Rolex đến nhà thì cậu anh cho hay anh vừa tử nạn ở Qui Nhơn ngày 24-10-1971, máy bay do Thiếu Uý Nguyên bạn anh lái bị trục trặc sao đó đâm vào núi Chúa. Toán trực thăng cấp cứu đã tìm được xác anh, hiện giờ anh đang nằm ở nhà xác Quân Y Viện Qui Nhơn. Mợ anh hay tin, xúc động đến ngất xỉu, vừa được chở vào nhà thương.

- Trời! Thật không ngờ cuộc sống con người lại kết thúc bất ngờ và thảm khốc đến như vậy!

Em đứng khựng như chôn chân ở trước cửa nhà. Trên mặt tủ chè giữa nhà, tấm hình bán thân của anh đặt trước tượng Thánh Giá, hai ánh nến lung linh. Cặp mắt anh… Trời ơi! Em sợ quá, cặp mắt trong tấm hình sao mà tinh anh đến thế! Anh nhìn em chằm chằm. Em chợt giật mình thảng thốt nhớ đến chiếc đồng hồ Rolex đang cầm nơi tay, lũ quái trong băng “Batman Dakao” cướp giựt của anh hôm thứ bảy, chúng nhờ em đem hoàn trả lại anh. Nhưng… anh không còn nữa, chỉ còn cậu anh đứng giữa căn phòng vắng lặng. Gương mặt ông hốc hác trông thật thiểu não, cặp mắt như thất thần, chắc ông không nhìn thấy di vật quí giá của anh trong tay em.

- Không hiểu sao lúc ấy em lại không trao luôn chiếc đồng hồ Rolex cho cậu anh cho rồi! Em bỏ vào túi, lẳng lặng quay đi. Hình như em đã khóc.

Anh Uy, anh có nghĩ rằng việc xui xẻo mất đồng hồ đã là điềm báo trước cái chết bi thảm của anh không? Anh có nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ cần đến đồng hồ nữa? Thời gian đâu còn nghĩa gì với anh bây giờ anh nhỉ! Bây giờ, với anh, tất cả đều là hư vô. Trong cái hư vô bất tận, thế giới của thần linh, đã có linh hồn anh, tấm linh hồn tuyệt đẹp và thánh thiện. Đã đành anh hoàn toàn trút bỏ vật chất. Song em vẫn ân hận rằng, khi chết trên tay anh không còn chiếc Rolex này.

Chiếc đồng hồ mà lũ quái Batman Dakao coi là một kỷ vật vô cùng quí giá. Lũ chúng không bao giờ quên được ngày anh đem nó đến tiệm Cầm Đồ Bình Dân cầm lấy 40,000đ đưa cả cho băng Batman Dakao để lo chôn cất gia đình thằng Mọi Cà Chua – Bố Mẹ và hai đứa em nó bị pháo kích chết hồi Mậu Thân. Ngay thằng Mọi Cà Chua cũng không ngờ anh thương nó đến thế. Hằng ngày mỗi buổi sáng nó đều đến đánh giày cho anh trước khi đi làm, và tối thì đến nhà bỏ báo. Nó kể chuyện, có một lần nó khều cái bật lửa Zippo của anh, bị anh chộp được, anh nổi nóng đã gài cho nó hai cái bạt tai. Vậy mà hôm thấy nó mang hai cái khăn trắng đại tang, cặp mắt ngấn lệ sưng húp, quì sụp xuống đánh giày cho anh, khi hỏi và biết gia đình nó vừa bị pháo kích chết sạch, anh đã khóc lên rưng rức với nó. Rồi bất ngờ anh đi cầm đồng hồ lấy tiền cho nó.

Anh biết không! Thằng Mọi Cà Chua và cả băng Batman Dakao đã ngẩn ngơ trước nghĩa cử từ thiện và cao đẹp của anh, tụi nó họp băng lại tìm cách đáp lễ anh, và chúng đã hành động theo thể thức đặc biệt du đãng. Thằng Út Ghẻ bám anh suốt hai buổi chiều ở Thanh Thế “choọc” cho được cái bóp, lục tìm thấy tấm giấy cầm đồ, rồi lại bí mật nhét bóp vào túi anh. Anh coi tụi nó nghề chưa! Trong suốt ba tháng, băng tụi nó cặm cụi đánh giày, bán báo, bán kem, v.v… cố dồn tiền chuộc lại cái Rolex. Nhưng rốt cuộc chỉ gom góp được có 20 ghim thành thử không thực hiện được ý định đó. Thật ra nếu muốn có bốn, năm mươi ghim một cách phi pháp, đối với chúng chẳng khó khăn gì. Chỉ túa ra “mồi” một bữa là dư đủ, song chúng đã không làm vậy, mà quyết tâm “làm ăn lương thiện” để đáp lại tấm lòng vàng từ thiện của anh.

Hôm thằng Mọi Cà Chua giỗ trăm ngày gia đình nó, anh được mời tới dự và đã phải kinh ngạc khi chúng đưa trả lại tấm giấy cầm đồ, và đã phải kinh ngạc khi chúng đưa trả lại tấm giấy cầm đồ kèm 20 xấp, anh liền từ chối số tiền đó, và vì thế, băng “Batman Dakao” càng kính mến anh hơn. Vài ngày sau anh đi chuộc lại cái đồng hồ, và đã đồng ý cho băng tụi nó khắc vào mặt sau câu kỷ niệm “Ghi ơn đại ân nhân Batman Dakao”.

Thế mà trước khi chết, anh lại bị chính một quái Batman Dakao tước mất cái Rolex ân nghĩa này.

- Anh Uy biết thằng chó nào thủ phạm không?

Thằng Chín Chìa Vôi đấy anh! Nó là anh bà con của thằng Mọi Cà Chua, thế mới khốn nạn, dã man, tàn bạo, vô nhân đạo, ác ôn côn đồ chứ!

Nhưng, thưa anh… quả đó là một sự ngẫu nhiên, một ngẫu nhiên vô cùng bi thảm.

Để em kể anh nghe:

- Chiều hôm thứ sáu 22-10-1971 thằng Mọi Cà Chua ngồi đếm báo ở rìa đường Lê Lai, một chiếc xe du lịch ào qua đụng tung nó lên lề, máu họng trào ra ngất liền tại chỗ. Khốn khổ! Thân phận nó mồ côi mồ cút, như anh biết đó! Bà con thân thích chẳng còn ai ngoài thằng Chín Chìa Vôi. Thằng Chín khóc nức nở đưa em vào bệnh viện, trong tui không có lấy một đồng bạc. Rồi chẳng hiểu cách nào mà nó đớp được cái Rolex.

Vừa nhìn thấy là em biết ngay của anh. Giận quá, em chửi toáng lên:

- Tiên sư nhà mày! Cái thằng Chìa Vôi! Bộ hết “địa mập” rồi sao mà nhè ngay Bố Ân Nhân của băng, mày “lương” cái “đổng” này.

- Ủa! Sao lạ vậy cà! – Chín Chìa Vôi trợn mắt – Mày nói gì? “Đổng” này của “khứa” nào?

Em lật mặt sau đồng hồ dí hàng chữ khắc kỷ niệm vào sát mặt Chín Chìa Vôi, hét lên

- “Khứa” nào à! Anh Uy đây nè! Bố Ân Nhân nhà mày đấy con ạ.

- Úi cha! – nó sững sờ, bứt tai bứt tóc – Tổ trác tao rồi! Hèn chi tao thấy cái lưng trông quen quen.

Cơ khổ! Tính thổi bậy một quẳn kiếm “địa” cứu sống thằng Mọi, dè đâu lại gặp anh Uy. Rồi nó năn nỉ với em:

- Thôi tao nhờ mày, bằng mọi cách đem trả lại ảnh dùm tao, bữa nào thằng Mọi nó khỏi, anh em tao sẽ đến lậy ảnh xin lỗi.

Em đã nhận lãnh chiếc đồng hồ. Nhưng em không giúp được nó theo ý muốn, vì anh đã chết rồi. Anh Uy yêu quí của chúng em ơi! Sao sự việc xảy ra lại bất ngờ và bi thảm đến thế nhỉ.

Bi thảm thêm nữa, là khi em cầm cái Rolex trở về thì thằng Mọi Cà Chua đang hấp hối, trong tay Chín Chìa Vôi, chung quanh đủ mặt băng Batman Dakao, em về hơi trễ, song em còn nghe được một câu của thằng Mọi, nó nói với băng:

- Anh Uy… muốn chúng mày làm ăn lương thiện, tao cũng chán cái nghề ăn trộm ăn cướp rồi… có lẽ tao chết… tao xin chúng mày nghe lời anh Uy, nghe lời tao… từ nay… bỏ… bỏ hẳn.

Giọng nó nói thều thào không còn nghe rõ, song khi em giơ cái đồng cái đồng hồ ra, mắt nó vụt sáng lên, nó lắp bắp mấy tiếng:

- Anh Uy! Anh Uy!...

Rồi nó đi theo anh luôn!

Anh Uy ơi! Bây giờ thì em đang khóc thật đây. Không biết em khóc vì anh hay vì thằng Mọi, nhưng có điều chắc chắn, tâm hồn em bỗng thấy bình tĩnh lạ thường. Em có thể đoan chắc với anh là tụi Batman Dakao, từ nay có ai vứt “đổng” ra giữa đường cũng sẽ không có thằng nào “lương” nữa. Tụi nó đã thề độc trước thi hài thằng Mọi Cà Chua là “làm ăn lương thiện”, lời thề như dao chém cột, anh cứ tin đi!

Còn cái Rolex của anh… Anh ơi! Em đã mại được 30 xin, số tiền này vừa đủ để tụi Batman chôn cất thằng Mọi.

Anh Uy ơi! Hôm nay em lên An dưỡng Viện Biên Hòa thăm mộ anh, em sẽ đốt lá thư này để gửi nó về thế giới thần linh cho anh, em biết không bao giờ anh giận tụi em, anh luôn luôn thương chúng em, và nếu anh chứng kiến được lời thề độc của Batman Dakao, hẳn anh sẽ hài lòng và mỉm cười rất tươi nơi chín suối.

Vĩnh biệt anh.
 Em của anh.

Tái bút: Anh Uy ơi! Băng “Batman Dakao” xin em biên tên thánh Phêrô của anh để tụi nó nhớ và cầu nguyện mãi mãi cho Linh hồn Anh. Em đã phải dậy chúng nó “làm dấu” và đọc một kinh ngắn: “Chúng tôi cậy vì danh Chúa nhân từ cho Linh hồn Phêrô được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy một Đức Chúa Trời, sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen.”

Vĩnh biệt anh một lần nữa.
Em của anh.


QUỐC BẢO   


(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 17, ra ngày 5-12-1971)

Nguồn : https://tuoihoandmore.blogspot.com

Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

CHƯƠNG VII, VIII_BỨC TRANH DÒNG HỌ NGUYỄN


CHƯƠNG VII

SẤM TRẠNG TRONG TRANH


Khi thấy thằng Có trở về sau một đêm mất tích và rồi lấy lại được bức tranh, Mười Khoái tự thấy sáng mắt ra. Một đàng, thằng Tỷ, con ruột của y, vì không chịu học hành tử tế lại ham chơi lêu lổng, đánh bạn với những đứa chẳng ra gì nên chỉ rình cơ hội nã tiền để tiêu pha bậy bạ. Đàng khác, cậu Cường còn nhỏ tuổi hơn thằng Tỷ mà xử sự đứng đắn như người lớn, không nỡ phá món hoạnh tài của lão mặc dầu cậu ta dư sức dẫn thằng Có về trả gia đình nó mà không tốn một đồng bạc.

Càng ngẫm nghĩ càng cảm phục cậu thiếu sinh Hướng Đạo có độ lượng và biết thương người. Vì thế, chuyến đi Đà Lạt này nhằm ngày lễ Giáng Sinh, lão năn nỉ Cường cùng đi với lão cho vui và nhất là, lão nói, cho thằng Có đi đường có bạn.

Bà Mười và thằng Tỷ phải ở lại trông nhà.

Xe đến bến đã thấy ông Sỹ lái xe nhà ra đón. Có cả thằng Căn, thằng Chính cùng đi. Thì ra Cường đã đánh điện lên cho bạn biết trước. Sáu người lên xe về nhà, nói cười vui như Tết.

Gia đình ông Sỹ đã hội họp đông đủ để đón mừng người ruột thịt trở về sau mấy năm lưu lạc.

Trà nước xong xuôi, ông Mười mở vali lấy tờ giấy khai sanh và bức tranh trịnh trọng để lên bàn nói:

- Thưa ông bà, giữ đúng lời hứa, hôm nay chúng tôi đưa cháu Thiện Cơ lên đây sum họp với gia đình. Có đầy đủ cả khai sanh và chứng tích gia đình để xin ông bà coi lại.

Ông Chủ hãng Kiến Bình hớn hở đáp:

- Dạ, chúng tôi đội ơn ông Mười nhiều. Khai sanh thì bữa trước chúng tôi đã được coi rồi. Tôi công nhận là đúng. Còn bức tranh để xin kiểm chứng.

Vừa tháo tranh ra khỏi khung, ông vừa ngoái lại bảo thằng Chính đứng sau lưng:

- Chính lấy cho ba hộp dấu.

Ông Sỹ úp mặt phải bức tranh xuống bàn, ngửng nhìn ông Mười nói:

- Anh tôi đã cẩn thận in dấu hai ngón tay trỏ của cháu Thiện Cơ vào mặt sau bức tranh này. Nếu cháu đã có tờ khai lược giải cá nhân rồi thì ta cứ việc đem so dấu tay ở tờ khai ấy với dấu tay ở bức tranh là xong. Nhưng cháu Cơ chưa đến tuổi phải khai. Vì thế ta phải in ngay dấu tay của cháu vào kế bên các dấu đã có trước xem có giống hay không…

Nào, cháu đưa ngón trỏ tay mặt… rồi! Ngón trỏ tay trái… rồi!

Ông ngắm nghía và tấm tắc khen:

- Trời sinh ra thật kỳ lạ! Ở cõi đời này, cái gì cũng biến dạng với thời gian. Ấy thế mà chỉ có các vân tay là không bao giờ thay đổi. Đây ông Mười coi, tuy lớn nhỏ có khác, nhưng đường nét vẫn y hệt. vậy có thể kết luận : thằng nhỏ này chính là đứa bé mà anh tôi đã in dấu tay vào đây lúc nó mới lên năm tuổi.

Mười Khoái chỉ vào những hàng chữ đỏ, chữ Việt nhưng viết bằng bút lông, ở sát mép bên mặt bức tranh, thắc mắc hỏi:

- Còn đây có phải là một bài thơ không? Sao hàng nào cũng như đứt quãng thế nhỉ?

Ông Sỹ mỉm cười nói:

- Đúng là một bài thơ. Một bài thơ cổ. Một bài Sấm thì đúng hơn. Rồi đây ông sẽ hiểu.

Quay sang Căn, ông bảo:

- Căn lên lầu lấy bức tranh của cháu xuống đây coi.

Sau khi tháo bức tranh sau này ra khỏi khung và ráp hai bức vào với nhau thì thấy những chỗ cố ý cắt nhô ra thụt vào ở mép hai bức tranh hoàn toàn ăn khớp với nhau. Rõ ràng đây là hai mảnh của một bức tranh cắt đôi ra bằng một đường gẫy không đều.

Ông Sỹ tươi cười giải thích:

- Ông Mười coi, anh tôi đã cẩn thận xẻ đôi bức tranh không phải bằng dao mà bằng kéo, không phải theo một đường thẳng mà theo một đường răng cưa. Dụng ý, theo tôi, là như thế này. Một họa sĩ giỏi ngó bức tranh do thằng Căn giữ có thể tưởng tượng ra mà vẽ một bức khác để tiếp nối một cách không mấy khó khăn. Nhưng đến khi ráp hai bức vào với nhau mới thấy không ổn vì các mép không ăn khớp. Còn bốn câu thơ thì câu nào cũng khuyết mất một nửa.

Nhưng trường hợp của ta đây thật đã rành rành, không còn nghi ngờ vào đâu được nữa. rõ ràng là hai nửa cùng do một tấm xẻ ra cũng như hai đứa, thằng Căn và thằng Có đây, cùng do máu huyết anh chị tôi tạo thành.

- Nhưng còn bài thơ? – Mười Khoái vẫn chưa hết thắc mắc, hỏi – Chẳng lẽ bài thơ này không nói lên một cái gì sao? Nếu nó chỉ có độc một mục đích chứng minh nửa bức tranh nọ là tiếp nối của nửa bức tranh kia, thì theo tôi nghĩ, ông Nhân chỉ việc ký một chữ thật to ở ngay chính giữa mặt sau bức tranh lớn cũng đủ rồi.

Ông Sỹ gật gù đáp:

- Ông nói vậy cũng có lý. Rất có thể anh tôi để lại cho hai cháu tôi một cái gì, nhưng ý tứ thâm trầm quá, khó lòng đoán ngay ra được.

- Vâng – Mười Khoái vui vẻ nói – Chắc là không có một kho tàng như trong những truyện truyền kỳ, nhưng tôi mong rằng có một di sản kha khá lưu lại cho hai cháu đề làm nhẹ bớt gánh nặng của ông chủ trong việc gây dựng tương lai cho hai cháu.

- Cảm ơn ông. Tôi cũng mong như vậy lắm. Nếu có, thế nào chú cháu tôi cũng phải nhớ đến ông Mười chứ! Hà hà…

Trong bữa tiệc mừng dọn ra ngay chiều hôm đó, ông Sỹ lựa lời gạn hỏi:

- Ăn cơm mới, nói chuyện cũ, không biết ông Mười có vui lòng cho chúng tôi được rõ ông Mười gặp được thằng cháu Cơ trong trường hợp nào chăng?

- Được chứ! – Mười Khoái sốt sắng đáp – để nhớ lại coi nào… Bữa ấy vào thượng tuần tháng giêng năm Mậu Thân, tình hình thật là hỗn loạn. Dân chúng trong thành Huế tìm đường rút ra khỏi thành nội, dắt díu nhau chạy về hướng Nam. Vợ chồng tôi với thằng Tỷ – thằng cháu hôm nọ có lên đây với chúng tôi – đêm ấy tạm trú trong một căn lều hẻo lánh ở ngoài đồng. Lều nhỏ và tối như hũ nút. Bước vào trong đụng phải người ta mới biết bên trong đã có người rồi. Cũng hai vợ chồng và một đứa con. Hai vợ chồng cùng bị thương nặng. Người chồng đã cấm khẩu nhưng vẫn tỉnh. Người vợ còn nói được. Nghe tiếng, chúng tôi nhận ra là người quen, người bà con thì đúng hơn. Đó là ông bà Hai Tu, người Sóc Trăng ra Huế làm ăn đã lâu. Bà Hai Tu có họ xa với vợ tôi ở Huế nhưng không năng đi lại nên không thân nhau mấy.

- Tôi kiệt sức mất rồi – bà Hai nắm tay vợ tôi nói – chắc tôi chết đến nơi. Nhưng trước khi nhắm mắt, tôi muốn nhờ dì dượng giúp cho một việc, mong dì dượng đừng từ chối.

- Được, chị cứ nói, chúng em xin cố gắng – vợ chồng tôi sốt sắng đáp.

- Thằng bé này là con thứ của ông Nguyễn Thiện Nhân, điền chủ ở Kiến Hòa. Mẹ nó là chị ruột ông Phạm văn Khánh, thương gia ở Huế. Bà Khánh, tức mợ ruột nó, là chị em họ với chồng tôi. Chiều hôm qua cùng chạy loạn với nhau chẳng may giữa đường ông bà Khánh cùng bị đạn bắn trọng thương. Lúc hấp hối, ông bà ấy giao thằng bé này cho tôi nhờ tiện đường vô Saigon dắt nó đi theo rồi tìm cách cho cha con nó gặp nhau. Ông bà ấy buộc trên lưng nó ba cái quần áo và một bức tranh để làm dấu tích gia đình. Lại đưa cho tôi một tờ khai sanh của nó và mười lượng vàng. Bây giờ vợ chồng tôi chết đến nơi, chắc không làm tròn được lời ủy thác ấy. Vậy trăm sự nhờ dì dượng làm phước trông nom nó giùm tôi. Đây tờ khai sanh và mười lượng vàng, dì cầm lấy…

Nói xong, chi Tu trút hơi thở cuối cùng. Bên cạnh, anh Tu cũng đã đi từ lúc nào, hai mắt còn mở trừng trừng… Nông nỗi chạy loạn Mậu Thân ở Huế thật là khổ cực hết chỗ nói!

Cảm động ứa nước mắt, ông Sỹ chân thành cảm tạ:

- Vợ chồng tôi mang ơn ông bà Mười và ông bà Hai Tu không biết đến đâu mà kể. Nếu Trời không dun dủi cho ông bà gặp ông bà Hai Tu đêm hôm ấy thì chắc thằng cháu tôi chết mất xác ở ngoài Trung rồi chứ đâu còn đến ngày nay. Ông bà thực là ân nhân của gia đình chúng tôi.

- Nhưng chúng tôi cũng có cái bậy, ông bà ạ – Mười Khoái thành thực nhận lỗi – Thú thực, khi về đến Saigon, thâm tâm chúng tôi là muốn đi ngay Kiến Hòa tìm ông Nhân. Nhưng chẳng qua là cái khó nó bó cái khôn. Chúng tôi tứ cố vô thân ở giữa cái đất Saigon là nơi củi quế gạo châu. Vốn liếng chả mấy chốc hết sạch sành sanh. Nói ông bà bỏ lỗi, lại thêm cái tội cờ bạc bê tha, nên kiếm được đồng nào hết veo ngay đồng nấy. Thành thử đã không giao được thằng nhỏ cho gia đình nó, lại còn không cho nó được ăn học bằng người. Sau dậy cho nó được cái nghề sửa xe, lại trông vào đó làm kế mưu sinh cho cả gia đình. Càng nghĩ tôi càng hổ thẹn với lương tâm. Nếu không gặp được cậu Cường có mắt tinh đời thì chưa biết bao giờ mới có ngày vui vẻ như ngày nay!

Ông Mười ở Đà Lạt chơi một hôm, được ông Sỹ cung phụng như một bậc thượng tân. Ông đích thân lái xe dẫn đi xem khắp các thắng cảnh trong thị xã cũng như ở vùng phụ cận.

Hôm sau nữa mới ra về, mang theo ba trăm ngàn cùng quà cáp rất nhiều.

Đến tối, ông Sỹ mời Cường lên thư phòng trên lầu nói chuyện. Cả Căn, Có, Chính cũng được tham dự.

- Cậu Cường à! – ông Sỹ vào đề – cậu có ý kiến chi về bài Sấm không?

- Thưa bác – Cường đáp – cháu cũng nghĩ như ông Mười nói hôm kia. Bác Hai viết nắn nót như vậy tất nhiên phải có dụng ý.

- Phải rồi, có dụng ý là cái chắc rồi. Sở dĩ hôm nọ bác không muốn đi sâu vào vấn đề vì không muốn để ông Mười quá chú tâm vào việc này.

Ngưng một lát, ông Sỹ nói tiếp:

- Cứ ý bác suy thì nhất định là bác Hai có để lại cho hai đứa này – ông chỉ vào Căn và Cơ – một cái gì. Là vì số tiền bán ruộng đất không thể tiêu hết được mặc dầu bác Hai cho vợ chồng Phạm văn Khánh rất nhiều. Trước khi mất, bác Hai cầm tay bác dặn đi dặn lại không được bán khoảnh đất vẽ trong tranh.Chắc chắn bác Hai chôn của cải trong mảnh đất ấy. So với toàn thể gia tài của bác thì khuôn viên khu hương hỏa nhỏ xíu. Nhưng đứng riêng ra, nó cũng rộng được đến mười mẫu. Nếu không được chỉ dẫn một cách rõ ràng thì mười mẫu cũng là một diện tích khá mênh mông, khó mà kiếm cho ra chỗ cất giấu.

- Thưa bác, vâng – Cường đáp – Chính vì thế bác Hai mới phải viết mấy câu Sấm để chỉ đường cho bác.

- Thú thật hai đêm rầy bác nghĩ nát cả óc mà không ra…

Căn nói xen vào:

- Cháu cũng nghĩ suốt từ lúc ráp xong bức tranh đến giờ mà chả hiểu ba cháu muốn nói gì cả. Nhất định phải có anh Cường nhúng tay vào mới xong đó, chú ơi. Từ trước đến nay, bao giờ ở Hướng Đạo có trò chơi lớn, thế nào anh Cường cũng chiếm giải quán quân. Mật thư khó cách mấy, anh ấy cũng mò ra chìa khóa trong giây lát.

- Ừ thôi bác giao cho cậu Cường đó – ông Sỹ cười nói và đẩy bức tranh về phía Cường – Cậu chịu khó nghĩ giùm bác và giúp các em.

Cường lẩm nhẩm đọc bốn câu Sấm đã ráp xong đầy đủ:

Long vỹ xà đầu khởi chiến TRANH,
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
MÃ ĐẦU DƯƠNG CƯỚC TRANH CÙNG TẬN
THÂN DẬU NIÊN            kiến… thái bình.

Đọc đi đọc lại, Cường ngồi lim dim cặp mắt suy nghĩ. Chán rồi lật qua mặt phải, ngắm nghía bức tranh đến độ xuất thần…

Trong phòng im lặng như tờ, từ ông Sỹ đến thằng Chính ai cũng tôn trọng phút suy tư của người bạn trẻ.

Chừng một khắc đồng hồ sau, Cường từ tốn đặt bức tranh xuống bàn, chậm rãi nói:

- Thưa bác, cháu xin trình bầy ý kiến. Bài Sấm bác Hai dùng là một bài rất phổ quát, rất nhiều người thuộc lòng. Bởi vậy, nếu viết sai hay viết thừa, viết thiếu chữ nào là người đọc có thể nhận thấy ngay. Căn cứ vào điểm ấy, bác Hai cố ý viết trật một số chữ và cũng cố ý viết hoa một số chữ không cần thiết phải viết hoa, để tạo ra những điểm khác thường. Dụng ý của bác Hai là chỉ đường cho chúng ta bằng điểm khác thường đó.

Toàn bài có nhiều điểm khác thường kiểu ấy:

Điểm thứ nhất là chữ TRANH ở cuối câu đầu vô cớ viết toàn hoa.

Câu thứ hai không có gì đáng nói.

Câu thứ ba cố ý viết sai. Thay vì “Mã đề dương cước anh hùng tận”, lại viết là “MÃ ĐẦU DƯƠNG CƯỚC TRANH CÙNG TẬN” Và cũng viết toàn hoa. Đó là điểm khác thường thứ hai.

Điểm khác thường thứ ba là ba chữ đầu câu thứ tư vô cớ viết hoa. Lại bỏ sót một chữ, chữ Lai ở chính giữa câu. Đó là chưa kể ba dấu chấm bỏ lửng sau chữ kiến.

- Có lý, có lý – ông Sỹ như chợt tỉnh, reo lên – Nhưng cái khó là tìm cho ra ý nghĩa của những điểm khác thường ấy.

- Vâng – Cường quả quyết đáp – cháu chưa nghĩ ra, nhưng cháu tin rằng cái khó khăn ấy có thể vượt qua được.

Cả Căn, cả Cơ, cả Chính cùng reo, mắt sáng rỡ:

- Anh Cường hay quá ta!

Cường cười, giơ tay cản:

- Khoan, khoan, đừng vội nóng! Tôi mới nói là có thể vượt qua được chứ có nói vượt qua đâu.

Căn cười cười nói với ông chú:

- Thằng này thông minh lắm, chú ơi! Nó nói sẽ nghĩ ra tức là nó đã nghĩ ra được đến tám, chín phần mười rồi đó.

Nó nhìn mặt Cường, trêu:

- Biết quá mà! Cu cậu đã đoán ra, nhưng chưa dám nói quyết vì còn thử lại bài toán chứ gì! Tao còn lạ!

Cường chỉ cười, không đáp. Một chặp sau mới hỏi ông Sỹ những chuyện không ăn nhập gì vào bốn câu Sấm cả.

- Thưa bác, bức tranh này là theo phong cảnh thật mà vẽ ra hay là do óc tưởng tượng của họa sĩ ạ?

- Cảnh thật chứ! – Ông Sỹ đáp – Như bác đã nói, đây là một khoảng trong miếng đất hương hỏa của bác Hai giữ lại không cho bán.

- Dạ, từ dạo ấy đến nay, có gì thay đổi ở miếng đất ấy không ạ?

- Không – ông Sỹ trả lời – không. Đâu đó vẫn y nguyên. Nhà từ đường vẫn thế, chỉ có cũ đi thôi. Vườn hoa cũng y vậy. Cả vườn rau nữa, chẳng có chi khác lạ.

- Thưa bác, nói vây có nghĩa là ngó vào bức tranh, bác có thể nhận ra được từng chi tiết của miếng đất, có phải thế không ạ?

- Đúng vậy đó, cậu Cường.

Cường chỉ vào góc mặt phía dưới cùng bức tranh, hỏi:

- Cái rãnh này chạy đến đây là hết hay sao bác?

Ông Sỹ cười giải thích:

- Đây là cái đường mương chạy dọc theo mảnh đất  này và còn đi tuốt luốt, đi xa hơn hiều nữa, bao cả miếng ruộng đàng kia cơ mà! Nhưng đúng ở đây, nó gẫy khúc nên rất dễ nhận.

- Còn cái hàng rào này? Cũng vẫn y nguyên chứ bác?

- Phải, vẫn y nguyên.

- Cây gì xanh xanh mọc quấn vào hàng rào đó, thưa bác?

- Cây vạn niên thanh đó. Loại cây này sống rất lâu. Bác Hai trồng cây ở ngay khúc hàng rào ấy, đã lâu lắm, nay vẫn còn xanh tươi.

Đang nói chuyện này, Cường bắt ngay sang chuyện khác:

- Thưa bác, bác Hai có giỏi chữ nho lắm không ạ?

- Không. Bác Hai cũng như bác theo Tây học. Có biết chữ nho nhưng không thâm thúy như các cụ đồ nho. Nói cách khác, có thể hiểu chữ nho đã phiên âm sang tiếng Việt, nhưng nhiều khi không rành mặt chữ.

- Dạ, cháu hiểu. À, từ chỗ trồng cây vạn niên thanh đến khúc chót của đường mương này xa chừng bao nhiêu, bác?

Ông Sỹ cũng như mấy anh em Căn, Cơ, Chính ngơ ngác không hiểu Cường định ba hoa trời đất đến đâu mà cứ chuyện nọ xọ chuyện kia như vậy. Tuy nhiên, ông vẫn trả lời:

- Chừng 14, 15 mét gì đó.Bác còn nhớ khi làm cái hàng rào này, có đo để tính công thợ, thấy đúng 30 mét. Miếng đất dành riêng để trồng rau này đo được đúng một sào, sào ta đó cậu, nên tính ra chiều ngang của nó là 12 mét. Nhưng nếu đo xeo xéo từ khúc mương này đến chỗ hàng rào kia thì phải hơn một chút. Cho nên bác độ chừng là 14, 15 mét.

Cường kết luận, mặt tươi như hoa:

- Thưa bác, may ra cháu đã hiểu được những lời chỉ dẫn của bác Hai rồi. Nhưng cháu chỉ dám nói rõ khi nào đã chứng minh được là bài toán giải đúng… Bữa nào về thăm quê, bác cho anh em cháu tháp tùng, cháu sẽ chỉ chỗ, mấy anh em bắt tay vào đào một lúc xong ngay.

Mấy anh em thằng Căn đều háo hức:

- Ngày mai còn nghỉ lễ, ngày mai về quê chơi đi chú.

- Sáng sớm mai đáp máy bay đi Saigon, ba nhé. Rồi lấy xe ở đại lý về Kiến Hòa, vài giờ là tới nơi. Con nóng thử đáp số của anh Cường lắm, ba ơi!

Ông Sỹ cũng nôn nóng không kém:

- Ờ, ờ, mai đi.

- Căn nhớ cụ bị thước dây nhé – Cường dặn – Mượn được thước của mấy ông trắc lượng, đạc điền thì tốt.

*

Thời buổi nguyên tử có khác, mới sáng ở Đà Lạt, trưa đã tênh tênh ở Kiến Hòa.

Và buổi chiều, di sản của ông anh để lại đã có trong tay, ông Nguyễn Thiện Sỹ trịnh trọng đèn hương, dâng cơm canh cúng tạ gia tiên trong ngôi từ đường.

Cỗ bàn thịnh soạn, ông Sỹ khề khà nhấm nháp trong khi mấy cậu thiếu niên cao hứng ăn uống ào ào như tằm ăn rỗi.

Đặt chén rượu xuống thành mâm, ông Sỹ tươi cười nói:

- Thế nào, cậu Cường? Đáp số bài toán của cậu đã đúng hoàn toàn rồi đó. Bây giờ giải thích cho chú cháu tôi nghe được rồi chứ?

- Hay là làm mò? – Căn nói khích – Dám làm mò lắm à! May ra thì trúng, không trúng thì huề cả làng chứ gì!

- Mò sao được, bạn! – Cường vênh váo cãi – Đã thế không cho thằng Căn nghe nữa.

Cơ, Chính, cả hai đứa vội dàn hòa:

- Thôi, anh Căn, để yên cho anh Cường nói.

- Thưa bác – Cường nói – cháu định chắc “bài Sấm cải cách” của bác Hai không thể có những ý nghĩa khúc mắc vì chủ tâm của bác Hai là chỉ dẫn cho người nhà thấy ngay, chứ không phải cố tạo khó khăn để che mắt người ngoài. Miếng đất vẫn ở trong tay họ Nguyễn Thiện thì giấu giếm kỹ quá làm gì cho tốn công. Nếu bó buộc phải dùng phép chiết tự để che giấu – che giấu gọi là thôi – thì cũng không phải là phép chiết tự theo kiểu các cụ thâm nho. Bởi thế cho nên cháu chỉ nghĩ đến cái gì thật là giản dị trong những điểm khác thường của bài Sấm.

Như hôm qua cháu đã trình bầy, câu thứ nhất có chữ TRANH viết toàn hoa là một điểm lạ. Đó có nghĩa là bác Hai bảo : Hãy chú ý đến bức TRANH.

Câu thứ hai không có gì đáng nói.

Câu thứ ba viết toàn hoa để lưu ý đến các điểm khác lạ. Câu này có hai điểm lạ.

Điểm lạ thứ nhất là cố ý viết sai bốn chữ “Mã đề dương cước” ra thành “Mã đầu dương cước”.

Mã đề nghĩa là móng ngựa. Còn Mã đầu nghĩa là đầu ngựa. Mã đầu còn có nghĩa là đầu chữ Mã. Và đầu chữ Mã không chi khác hơn là chữ M.

Dương cước là chân dê hay là chân chữ Dương. Đầu chữ Dương là chữ D cũng đọc là Dê. Dê có bốn chân, vậy bốn chân của chữ Dương chính là các chữ ƯƠNG.

Giờ ta ghép Mã đầu (M) vào Dương cước (ƯƠNG), ta có chữ MƯƠNG.

Điểm lạ thứ hai của câu ba là cố ý viết sai ba chữ “anh hùng tận” ra ba chữ “tranh cùng tận”. Ba chữ này, nếu hiểu chữ nho một cách thật nôm na, có nghĩa là : chỗ cùng tận của bức tranh.

Cả câu thứ ba có nghĩa là : cái đường mương, chỗ tận cùng bức tranh. Nó chỉ cho ta một điểm : chỗ tận cùng của đường mương ở bức tranh, tức là chỗ gẫy khúc mà bác nói có thể nhận được dễ dàng trên thực tế.

Câu thứ tư cũng có hai điểm lạ.

Điểm lạ thứ nhất là chữ “Thân dậu niên” viết toàn hoa. Dậu đồng âm với Giậu là cái hàng rào. Thân dậu có nghĩa giản dị là thân cái hàng rào. Niên đây là cây vạn niên thanh trồng ở hàng rào. Ba chữ “Thân dậu niên” có nghĩa là cây vạn niên thanh trồng ở thân hàng rào. Nó chỉ cho ta thấy một điểm thứ hai : chỗ trồng vây vạn niên thanh ở thân hàng rào.

Quay sang Cơ, Cường hỏi:

- Cho hai điểm trên một mặt phẳng, ta có thể làm gì? Nhớ không?

- Dạ nhớ – Cơ vội trả lời – Ta có thể vạch một đường thẳng và chỉ một đường thẳng mà thôi.

Giỏi! – Cường khen – Và đường thẳng ấy chạy từ khúc gẫy của đường mương đến chỗ trồng cây vạn niên thanh ở hàng rào.

Điểm lạ thứ hai của câu chót là thiếu mất một chữ. Đó là chữ Lai, chữ thứ tư, tức là chữ đứng giữa trong một câu thơ bẩy chữ. Câu thơ khuyết một chữ ở giữa khiến cho ta có thể đoán rằng đồ chôn giấu ở ngay chỗ chính giữa cái đường thẳng mà ta vừa vạch ra.

Và y như rằng, khi đào ở khúc ấy ta thấy ngay những gì bác Hai để lại cho Căn, Cơ.

Ông Sỹ tấm tắc khen:

- Cậu Cường giỏi thật đấy! Thằng Căn, thằng Chính cũng đi Hướng Đạo từ lâu như cậu mà chẳng đứa nào sáng trí và tháo vát bằng!

Tuy kết quả đã được như ý muốn, ông Sỹ dường như hãy còn thắc mắc nên hỏi thêm Cường:

- Cậu Cường chắc cũng để ý thấy ở câu chót, sau chữ Kiến có ba dấu chấm lửng lơ. Trong câu Sấm đích thực, ba chữ “Kiến thái bình” đi một lèo chứ đâu có ngập ngừng như vậy nhỉ? Cậu giải thích thế nào điểm khác thường ấy?

Cường đáp:

- Thưa bác, chính ba dấu chấm lửng lơ ấy làm cháu mất rất nhiều thì giờ suy nghĩ và không dám chắc nơi chôn giấu ở chính giữa đường thẳng. Thực vậy, nếu đếm số chữ trong câu và coi dấu chấm như ba chữ thì chỗ khuyết (chỗ của chữ Lai) trệch hẳn về một phía. Cháu nghĩ mãi không ra về phía nào, phía đường mương hay phía hàng rào? Không có gì chỉ dẫn cả. Sau cháu nghĩ thế này : Dụng ý của bác Hai không phải là làm rắc rối, làm phức tạp mọi sự. Ba dấu chấm theo sau chữ Kiến, do đó, chỉ có mục đích lưu ý chúng ta nhiều vào câu thứ tư mà thôi. Có thể hiểu đại khái câu ấy như thế này : Hãy đào ở chính giữa đường thẳng đã vạch. Sẽ thấy (Kiến nghĩa là thấy)… cái mà chúng ta cần thấy, chứ không phải thấy cái thái bình!



CHƯƠNG VIII

TỈNH NGỘ


Cơm nước xong, về đến Saigon vừa tối mịt. Ghé sạp báo đầu đường mua mấy tờ coi những tin tức thời sự đang đến hồi gay cấn.

Bỗng Cơ nhẩy nhổm lên, la:

- Trời ơi! Sao lại có chuyện thế này?

Tất cả xúm vào coi thì ra đó là một tin gay cấn trong mục “Xẩy ra trong nước 24 giờ qua”.

CON CÁI ĐỜI NAY

“Đêm 28 rạng ngày 29-12, tại hẻm số 789, 123 đường Lê văn Duyệt đã xẩy ra một vụ cướp rất táo bạo.

Khổ chủ là ông T.V.K, 53 tuổi và bà C.T.T, 49 tuổi.

Chính con trai độc nhất của khổ chủ là cậu T.V.T, 17 tuổi đã dẫn cướp về nhà khảo đả bố mẹ để lấy số tiền 300.000đ mà ông K. vừa kiếm được.

Tác tệ xong, cậu con trai “quý tử” còn khui la ve ra cho đồng bọn giải khát, bất ngờ quá chén không đi được nên đồng bọn đành bỏ y lại, vì đã cận giờ giới nghiêm.

Cơ quan Cảnh sát đã bắt giữ cậu T. để điều tra. Đồng bọn của cậu T. đang bị truy nã gắt”.

Cơ, mắt đỏ hoe, thở dài nói với Cường:

- Em chắc anh Tỷ không đến nỗi táng tệ như vậy đâu. Lười biếng, bê tha thì có, nhưng bất hiếu bất mục đến mức đó thì không. Anh Cường có cách gì cứu giùm cho anh ấy không?

- Anh em ta hãy tới thăm bác Mười xem sao đã, rồi sẽ liệu sau – Cường bình tĩnh đáp.

- Ờ, phải đấy – ông Sỹ sốt sắng nói – hay anh em lại trước đi xem có giúp đỡ được gì chăng. Chú sẽ tới sau.

*

Ông Mười, bà Mười, đầu bó băng trắng lốp, ngồi ủ rũ mỗi người một xó trong căn nhà buồn như có tang.

Hai người giật mình khi thấy Cường và Cơ đẩy cửa bước vào.

- Ba có sao không? Má có đau không, má?

Sau phút mủi lòng khi gặp lại thằng con nuôi trong hoàn cảnh bi đát hiện tại, ông Khoái cố bình tĩnh kể lại cho Cường nghe từng chi tiết, thầm mong trí thông minh của cậu Hướng Đạo Sinh này sẽ giúp giải oan cho thằng Tỷ.

- Chúng nó ba thằng, cậu ạ, đứa nào cũng bịt mặt và đứa nào cũng cao cỡ thằng Tỷ cả. Tên cầm đầu đội cái nón kết tím và đeo cặp kính râm y như thằng Tỷ. Thoạt trông, tôi suýt lầm. Cái nón, cặp kính và và cả khăn mùi soa bịt mặt đều là đồ của thằng Tỷ. Mặc dầu nó cố bắt chước dáng điệu và giọng nói của thằng Tỷ, nhưng tôi nhận ra ngay là không phải thằng Tỷ.

Bà Mười nói xen vô:

- Chúng nó khảo ông ấy tàn nhẫn quá, tôi xót ruột kêu lên thì thằng đứng canh chừng tôi đánh tôi mấy cái vào đầu, vào mặt đau điếng.

Ông Mười kể tiếp:

- Của đau con xót, cậu ạ, tôi nhất định không khai chỗ cất tiền. Thằng đứng cạnh nhà tôi gọi thằng đầu đảng : Tuệ, à… Tỷ! Tao cắt tai má mày được không? Thằng chúa đảng trả lời tỉnh bơ : Cắt thì cắt sợ gì! Miễn có tiền thì thôi!

Tên kia lạnh lùng rút con dao bấm, dí sát mặt nhà tôi định cắt tai thật. Tôi sợ quá đành phải chỉ chỗ cho chúng nó, bụng bảo dạ thà để cho của đi thay người còn hơn.

- Thế bác dấu tiền ở đâu mà chúng lục không thấy? – Cường hỏi.

- Ngay trước mắt đó, cậu. Chỗ hở nhất mà hóa ra chỗ kín nhất. Nhưng khôn cũng không lại với ông Trời. Số mất của thì để đâu cũng mất. Tôi giấu ngay trong cái tủ thuốc kia kìa.

- À, à – Cường nhìn tủ thuốc nói – sao bác đóng tủ thuốc cao thế?

- Nhà không có con nít kể ra chả cần đóng cao thế làm gì. Nhưng tôi dùng nó làm chỗ cất tiền cho kín đáo. Ngăn trên cùng, chỉ có mấy cuộn băng để ngoài làm vì, bên trong trống rỗng để được khối tiền.

Cường hỏi:

- Vậy muốn lấy tiền, dễ thường phải bắc ghế?

- Đúng vậy, lần nào cất tiền vào hay lấy tiền ra, tôi cũng phải trèo lên một cái ghế con. Nhưng thằng đầu đảng này thì không, nó kiễng chân một cái là vơ lia cả mấy cọc bạc một cách ngon ơ.

Thằng Cơ la lên:

- Vậy không phải anh Tỷ lấy rồi, ba ơi! Ba có nhớ cách đây… đâu chừng hai tháng, ba sai anh ấy lấy chai thuốc rỏ mắt để ở bên trong từng thứ hai. Anh ấy kiễng chân mãi không với tới, ba la ầm lên đó không?

- Phải rồi! Ba mừng ở điểm thằng tỷ không phải là quân ăn cướp. thế là được rồi – ông Mười kể tiếp – Lấy tiền xong, chúng đánh vợ chồng tôi ngất đi trước khi chúng rông. Tỉnh dậy, thấy thằng Tỷ ngủ gục ở bàn. Trên bàn la liệt những vỏ chai la ve. Có cả cái nón kết và cặp kính của thằng Tỷ nữa. Dưới đất, vứt tung một mảnh băng keo và một sợi dây thừng.

- Bữa ở Đà Lạt về - Cường hỏi cắt ngang – bác có cho anh Tỷ tiền không?

- Có, tôi cho nó mười ngàn.

- Rồi anh ấy ở nhà?

- Không, nó đi chơi ngay. Tối không thấy về ăn cơm. Vợ chồng tôi đợi mãi không thấy nên ăn trước. Ngồi nói chuyện khào đến mười một giờ khuya thì xẩy ra vụ khốn nạn đó.

Cường vỗ mạnh vào vai Cơ hỏi:

- Cơ có nhớ bữa đuổi thằng ăn cắp xe, anh cảnh sát viên Hải đã nhận ra thằng Chi Cao trong băng thằng Tuệ Sếu không? Chính bữa ấy, anh bắt gặp Tỷ mang cái chi như tấm lịch treo tường đi vào xóm thằng Tuệ ở ngã tư Bẩy Hiền. Về sau, hình như anh Tỷ có thú thật với bác rằng anh ấy gửi bức tranh ở nhà thằng Tuệ thì phải?

- Phải rồi, phải rồi! – bà Mười vội đỡ lời.

- Vậy là rõ ràng rồi, thưa hai bác. Đầu đuôi có thể như thế này:

Chiều hôm ấy có tiền, anh Tỷ hân hoan lại nhà thằng Tuệ ở Bẩy Hiền khao các bạn. Rượu vào lời ra, Tỷ khoe nhà có tiền. Tụi chúng xúi ảnh về lấy nhưng ảnh không chịu. Chúng phục rượu cho ảnh say rồi lấy thừng trói lại, dán băng keo vô miệng rồi chở đến đây cùng một số vỏ chai la ve. Chúng bỏ anh nằm còng queo ngoài hàng ba khi chúng vào trong này khảo của hai bác, Băng thằng Tuệ đứa nào cũng cao kều. Cao hơn cả thằng Tuệ, đầu đảng. Nó đội nón của Tỷ, mang kính của Tỷ và bịt mặt bằng mùi soa của Tỷ để trút hết tội lỗi vào đầu Tỷ và đánh lạc hướng cuộc điều tra. Bác gái đã có nghe thấy một đứa quen miệng kêu nó là Tuệ trước khi sửa lại là Tỷ mà!

Chớp được tiền xong, chúng cần đánh cho hai bác ngất đi để khỏi trông thấy chúng thi hành thủ đoạn kế tiếp. Tức là chúng cởi trói cho Tỷ, gỡ băng keo và lôi vào đặt cạnh bàn, gục đầu xuống bên những vỏ chai mà chúng đã cẩn thận mang theo.

Ông Khoái nở một nụ cười héo hắt, khen:

- Cậu Cường đoán việc thật rành. Nghe cậu nói, tôi như người ngủ mê mới tỉnh, như người ở trong bóng tối bước ra chỗ sáng.

- Thế cơ quan Cảnh sát đã lấy lời khai của hai bác chưa? – Cường hỏi.

- Rồi – ông Mười đáp – Sáng nay mấy ổng tới, dẫn theo cả thằng Tỷ nữa.

- Thế bác khai ra làm sao?

- Thì đại khái cũng như vừa kể cho cậu nghe đó. À, họ có để mấy món đồ vào ngăn trên cùng tủ thuốc và bảo thằng Tỷ với tay lấy xuống cho họ. Nó với mấy lần không tới. Cố kiễng chân lắm mới với tới cuộn băng để ngoài cùng.

- Họ có hỏi bác nghi cho ai không? – Cường hỏi.

- Có. Tôi trả lời không biết nghi cho ai. Nhưng nhất quyết không phải là thằng Tỷ.

- Họ còn làm những gì nữa không, bác?

- Có chứ. Họ kiếm những nút chai la ve, nhưng không thấy. Họ nói riêng với nhau, tôi nghe lỏm, câu được câu chăng. Dường như họ đang giảo nghiệm để kiếm dấu tay trên những vỏ chai la ve, trên nón kết, kính râm, và cả trên miếng băng keo nữa, nhưng chưa có kết quả. Tội nghiệp, tôi thoáng thấy ở cổ tay thằng Tỷ có vết bầm, chắc do dây thừng chúng trói.

Kể xong, ông Khoái băn khoăn hỏi:

- Vậy làm thế nào minh oan được cho thằng Tỷ hả cậu?

- Về phần bác – Cường đáp – nếu cảnh sát có điều tra bổ túc, bác nhớ khai : anh Tỷ dại dột chơi với bọn thằng Tuệ Sếu và thằng Chi Cao ở Bẩy Hiền nên bị chúng lợi dụng. Băng ấy đứa nào cũng cao. Thằng Tuệ cao hơn anh tỷ nên có thể với tới chỗ để tiền. Bác nghi cho hắn vì một tên đồng bọn đã nhịu miệng kêu nó một lần bằng tên Tuệ.

Ông Khoái gật đầu, cố ghi nhớ trong khi Cường nói tiếp:

- Còn về phần cháu, cháu sẽ thưa với ba cháu điện thoại can thiệp cơ quan phụ trách điều tra theo chiều hướng phá vỡ băng thằng Tuệ Bẩy Hiền.

Tuy nhiên, nghe lời bác nói, cháu có cảm tưởng cơ quan cảnh sát đang truy nã thủ phạm đúng theo chiều hướng ấy. Chắc chắn anh Tỷ được vô can, nhưng sở dĩ chưa được cho về vì họ còn đợi bắt xong tụi thằng Tuệ. Hai bác cứ yên tâm.

Thằng Cơ ôm lấy bà Mười, nước mắt chạy quanh, nói:

- Má đừng buồn, thế nào anh Tỷ cũng được vô can. Con có ít chục ngàn đây, ba má dùng đỡ, mai mốt chú con sẽ giúp đỡ ba má thêm.

Bà Mười cảm động, khóc thút thít:

- Con tôi hiếu thảo quá, thế mà ba má trước kia xử tệ với con. Càng nghĩ, má càng hổ thẹn quá!

- Bác đừng nói như vậy – Cường đỡ lời – Ơn hai bác cứu sống thằng Cơ lớn như trời bể. Nó có bổn phận phải báo đáp chứ!

Rồi kết luận:

- Thôi, xin phép hai bác, chúng cháu về để hai bác đi nghỉ. Hai bác cứ yên tâm đi, cháu cam đoan thế nào anh Tỷ cũng được vô can.

*

Chín giờ sáng hôm sau, trong khi ông bà Mười đang tiếp chuyện ông Thiện Sỹ thì thằng Tỷ đi xích lô máy về nhà. Nó chạy a vào, ôm lấy ba nó, ôm lấy má nó, khoe rối rít:

- Con được vô can rồi, ba má ơi!

Chợt thấy ông Sỹ mỉm cười nhìn mình, nó vội chắp tay, cúi đầu chào rất lễ phép. Rồi ôm mừng thằng Cơ, nó khoe:

- Cành sát đã thộp cổ được tất cả tụi thằng Tuệ, thằng Chi. Số tiền lấy lại được gần hết, vì đêm qua gặp giờ giới nghiêm, chúng chưa có dịp tiêu xài. Thế có may không?

Ngồi sà xuống cạnh mẹ, nó thủ thỉ, nhưng mọi người đều nghe rõ:

- Bây giờ, con đã tỉnh ngộ rồi, má ơi! Từ rầy con không thèm giao du với lũ bạn xấu như thằng Tuệ nữa. Con sẽ đi học đàng hoàng. Đỗ đạt được càng hay, không đỗ, con sẽ đi làm thợ. Con sẽ kiếm sống một cách lương thiện cho ba má khỏi mắc cỡ vì con. Một lần danh dự suýt bị tổn thương, con quyết không bao giờ đi vào vết xe cũ nữa.

Nở một nụ cười rạng rỡ, ông Mười nói với ông Sỹ:

- Ông chủ ơi! Không những thằng con tôi tỉnh ngộ, tôi cũng tỉnh ngộ luôn nhờ cái biến cố vừa qua. Bây giờ, tôi không dám chống báng câu châm ngôn “mỗi ngày một việc thiện” của cậu Cường nữa.

Tôi thề bỏ hẳn cái tật mê cá ngựa. Tôi sẽ đi sửa xe thế vào chỗ thằng Cơ ở bên hông Trường Đua. Tôi sẽ sống một đời sống lương thiện, lành mạnh. Có tu thân mới tề gia được, phải không, ông chủ?

Ông Sỹ chưa kịp trả lời, bà Mười đã nói tiếp luôn:

- Tôi cũng vậy. Từ rầy không thèm bê tha bài bạc nữa. Thu dọn nhà cửa cho vén khéo và trông nom cái ăn cái mặc cho chồng con, sướng hơn!

Ông Sỹ trịnh trọng nói:

- Tôi thành thực mừng cho ông bà và cậu Tỷ. Tiện đây, tôi cũng xin nói để ông bà mừng giùm cho. Nhờ cậu Cường hiểu được ý nghĩa mấy câu thơ sau bức tranh chúng tôi vừa kiếm lại được chút di sản của anh tôi để lại cho các cháu. Tôi xin trích ra một phần biếu ông bà gọi là đền đáp phần nào công ơn của ông bà đối với cháu trong lúc loạn lạc. Xin ông bà vui lòng nhận số tiền nhỏ mọn hai trăm ngàn này để làm vốn. Sau này cần thêm, ông bà chớ quẩn ngại, cứ cho chúng tôi biết, chúng tôi sẽ xin cố gắng giúp đỡ ông bà.

Quá cảm động, ông bà Mười rân rấn nước mắt:

- Cám ơn ông chủ, ông chủ đối với chúng tôi quá tốt. Quả là chúng tôi may mắn gặp được quý nhân. Nhờ ông chủ và cậu Cường, vợ chồng, cha con chúng tôi mới tỉnh ngộ và mới có hy vọng sống một đời sống sạch sẽ và đáng sống.

CHÂN PHƯƠNG

10/1972         

Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

CHƯƠNG V, VI_BỨC TRANH DÒNG HỌ NGUYỄN


CHƯƠNG V

BỨC TRANH


Hơn bẩy giờ sáng, ông Năm Cầm đi đâu về, cười hề hề bảo vợ đang đứng chờ ở cửa:

- Anh chị Mười lóng rày sang dữ. Bây giờ còn bầy đặt đi Đà Lạt nghỉ mát nữa cơ đấy. Tôi vừa gặp hai vợ chồng với thằng con diện quần áo lạnh mới toanh bước lên xe đò đi Đà Lạt…

- Vậy hả? – Người vợ nói rồi quay sang nhà bên cạnh, hỏi chõ vào trong – Thằng Có có ở trong nhà không đó? Ba má và anh hai mày đi Đà Lạt rồi hả?

Có mở cửa ra thưa:

- Dạ, ba má và anh hai cháu mới đi hồi sáng sớm, cháu không biết đi đâu.

- Họ dắt nhau đi Đà Lạt nghỉ mát đấy – vợ Năm Cầm đáp – Sướng ghê ta! Bác Năm cháu vừa trông thấy họ ở bến xe. Sao cháu không được đi? Phải ở nhà trông nhà hả? Tội nghiệp thằng nhỏ thế thì thôi! Làm việc quần quật suốt ngày, quanh năm chí tối mà chẳng được đi chơi lấy một phút. Chả bù với thằng Tỷ, rong chơi tối ngày!...

Có ậm ừ vâng dạ mấy tiếng xã giao rồi mặc vội quần áo, lấy xe ra, lễ phép nói với vợ chồng lão Năm Cầm vẫn còn đứng ba hoa trước cửa:

- Hai bác cho cháu gửi nhà một lát, cháu ghé Trường Đua một chút xíu cháu về ngay.

- Ờ, ờ, cứ khóa cửa lại cho chắc ăn. Rồi để bác trông chừng cho, không đứa nào dám phá cửa vào dọn đồ đi mất đâu mà sợ.

Có lên xe phóng vội đến nhà Cường báo động:

- Anh Cường ơi! Sáng sớm hôm nay, họ kéo nhau lên Đà Lạt hết cả rồi. Anh tính sao? Em sợ họ phá vỡ kế hoạch của mình quá!

Cường bình tĩnh trấn an bạn:

- Yên chí đi! Không có chi phải lo ngại hết. Để mặc anh đối phó cho.

Nói xong, ngồi vào bàn hí hoáy thảo một bức điện:

Nguyenthiencan
1782 Phandinhphung Dalat
Mười và vợ con lên tới chiều nay (.) Đề phòng mạo nhận (.) Nhớ ghi số và ngày khai sanh (.)
BTTB (1)
Cường (./.)

Thảo xong, đưa cho Có và dặn:

- Có lấy xe phóng lẹ tới Bưu Điện Trung ương, bên hông nhà thờ Đức Bà, đánh bức điện tín này cho anh Căn đi.

Xong đâu đấy, cứ yên tâm về nhà chờ anh. Sáng nay, anh được nghỉ hai giờ đầu, nhưng bận chút việc, chừng tám giờ rưỡi mới lại Có được. Tuyệt đối không có gì đáng lo ngại đâu. Rồi anh sẽ phân tách cho Có hiểu từng chi tiết…

*

Cường tới đúng tám giờ rưỡi, không sai một phút. Bao nhiêu lo âu tan biến, Có nhẩy tót ra đón, dắt xe vào trong nhà.

- Sao, đầu đuôi câu chuyện ra sao? – Cường hỏi trước khi ngồi xuống ghế.

- Từ bữa anh bói Kiều và bắt đầu để báo lại, rồi mỗi ngày mỗi để báo lại cho em đều đều, ông bà Mười bèn tập được thói quen xem báo. Nhất là ông Mười, ông đọc kỹ lắm, không sót chỗ nào. Thành thử khi anh đăng báo “Nhắn tin tìm cháu”, ổng thấy ngay và chỉ cho bả đọc đi đọc lại.

Ban ngày, ổng bả bàn tán những gì em đâu có biết vì còn bận suốt ngày đi làm như anh đã rõ. Ban đêm, đêm hôm kia, ổng bả bàn soạn lâu lắm, em nghe được hết. Có cả anh Tỷ nữa.

Số là từ ngày cái lều sửa xe của em đông khách, kiếm được bộn tiền, và nhất là từ ngày em được quen anh, – ổng bả có vẻ nể anh lắm, – ổng bả đối xử với em có nương tay ít nhiều nên chín mười giờ tối em đã được nằm một chỗ nghỉ ngơi cho lại sức.

Ổng bả yên trí em đang sức ăn sức ngủ, đặt mình xuống là ngáy pho pho nên bàn chuyện riêng với nhau chỉ dè dặt lúc ban đầu. Đến giai đoạn gay cấn, họ thảo luận hăng say quên cả giữ gìn nên phát thanh khá lớn, em nằm nhà trong nghe rõ mồn một mặc dầu em không cố ý nghe lỏm.
. . . . . . . . . . . . . . . . .

- Theo tôi nghĩ – lão Mười nói – đầu têu vụ này không ai khác hơn là thằng Cường.

- Ông nói thế nghĩa là sao? – Mụ vợ hỏi.

- Nghĩa là đầu dây mối nhợ là do thằng Cường chứ còn ai vào đây. Nó quen tụi ở Đà Lạt, tụi này nhờ nó điều tra, và nó điều tra ra thằng Có nhà này chính là thằng Nguyễn Thiện Cơ. Nó mới bầy đặt chuyện bói Kiều, đoán Kiều để xúi dục vợ chồng mình buông tha cho thằng Có. Rồi lại bầy trò mỗi ngày để lại mấy tờ báo. Tức là nó sửa soạn để cho cái tin đăng báo tìm người nhà đập vào mắt mình.

Người vợ vặn lý sự liền:

- Ông nói vậy khó nghe quá! Tôi hỏi ông : cậu ấy bầy đặt mấy chuyện đó với mục đích gì? Xin mình buông tha, mình không buông tha thì làm gì được mình nhỉ? Mách mình bản nhắn tin để làm gì? Không lẽ để cho mình lượm được một mớ tiền? Liệu ông có chia cho cậu ấy một đồng xu teng nào không?

- Bà luận vậy cũng có lý – lão Mười công nhận – Nhưng sao tôi cứ nghi nghi. Nhất là cái bữa bói Kiều. Nào là “mở cửa cho ra”, nào là “tình nặng, ơn sâu”, cái gì nó cũng cố nói vơ vào…

- Ông cứ nghĩ bậy cho người ta hoài – người vợ cự nự liền – Thế tôi hỏi ông, kỳ cá ngựa tuần ấy con Phi Hồng có giật giải không nào? Trúng phong phóc vậy mà ông còn nói kia nói nọ.

- Ối chào! Chẳng qua là chó ngáp phải ruồi – lão Mười vẫn cố cãi – Bây giờ đến lượt tôi hỏi bà : thằng Cường khôn lanh như vậy, bộ nó mù tịt không biết gì về vụ thằng Có nhà ta sao?

- Ông sao hay có tật thì giật mình! Bàn dân thiên hạ biết bao nhiêu người thông minh sáng láng, dễ thường họ đều bắt buộc phải tỏ tường chuyện bí mật của những người khác hay sao?

- Nói tóm lại, theo như ý bà thì thằng Cường không hay biết gì ráo phải không?

- Tôi không biết – người vợ cãi và lý luận – Tôi chỉ thấy có hai điều : Một là cậu ấy không biết, tức là cậu ấy vô tình mang một mối lợi lớn lại cho mình. Hai là cậu ấy có biết, nhưng cậu ấy không xui thằng Có bỏ nhà đi, tức là cậu ấy cố ý tạo điều kiện cho mình kiếm một mớ đỡ khổ. Đàng nào cậu ấy cũng là người tốt, không có làm hại gì cho mình nếu không nói là giúp ích cho mình rất nhiều.

- Bà lý sự như vậy cũng được đi. Nhưng…

Lão Mười bỗng hạ thấp giọng, Có lắng tai mới nghe rõ:

- Nhưng tôi nói thật cho bà biết, mình không thể thấp cơ thua trí một thằng bé con được. Dù sao thằng Có bây giờ cũng là một cây tiền cây bạc của mình, mỗi tháng thâu vô được năm sáu chục ngàn chứ phải ít ỏi gì cho cam. Dại gì buông nó ra để đổi lấy một trăm ngàn đồng đền ơn đáp nghĩa. Chi bằng ta cứ… thằng Tỷ… được cả đơn lẫn kép… tha hồ…
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

- Em chỉ nghe được đến đó mà thôi – Có kể tiếp – Đoạn cuối nói nhỏ quá, có cả tiếng bàn cãi của anh Tỷ, em nghe không rõ nên không tài nào đoán ra họ lập mưu mẹo gì. Mãi sáng sớm hôm nay nghe ông hàng xóm cho biết tất cả ba người kéo nhau đi Đà Lạt, em mới ngờ rằng họ định đánh tráo người, đem con ruột của họ thế vào chỗ của em để vừa được tiền đền ơn, vừa ném được một con chuột chuyên phá phách vào trong cái chĩnh gạo nếp thật đầy.

- Chính anh cũng liệu như vậy nên vừa rồi mới bảo em đi đánh dây thép dặn anh Căn đề phòng gian lận đó. Lão Mười tham lam quá. Làm sao cấy nổi thằng Tỷ vào trong gia đình ấy được. Cái bản mặt cô hồn và cái tiếng nói khào khào như vịt đực của thằng Tỷ trộn lẫn thế nào được vào những khuôn mặt hiền lành và giọng nói ấm áp một cách đặc biệt của gia tộc em!

Tươi hẳn nét mặt, Cường hân hoan nói tiếp:

- Nhưng xét cho cùng, họ đi Đà Lạt sáng nay cũng có nhiều cái hay cho chúng ta…

- Lại có chuyện ngược đời đó nữa sao anh? – Có ngạc nhiên hỏi lại.

- Có chứ sao không? Này nhé, ông Sỹ, chú em, thú thật không kiếm đâu ra được một bản khai sanh của em. Muốn nhờ Tòa Tỉnh Kiến Hòa lục giùm cũng không phải chuyện dễ vì không nhớ số và ngày khai. Nay lão Mười lù lù dẫn xác lên Đà Lạt, nhất định phải xuất trình một bản khai để làm bằng chứng. Anh đã dặn trong điện tín là phải ghi nhớ số và ngày khai. Biết rõ số và ngày khai rồi, sau này muốn xin bao nhiêu bản trích lục mà không được. Mình có khai sanh rồi thì bản khai sanh lão Mười nắm trong tay bỗng trở nên vô dụng. Như vậy khác nào họ có con dao sắc, bỗng dưng đưa cho ta nắm đàng chuôi. Đó là một điều lợi thấy rõ.

- Còn điều lợi nào nữa không anh? – Có nôn nóng hỏi.

- Ờ, còn một điều lợi thứ hai cũng quan trọng không kém. Trong thư trước, anh Căn báo cho anh biết là em hiện đang giữ một bức tranh làm chứng tích gia đình. Chuyện này, khi anh ở Đà lạt, chú em quên không nhắc đến. Em cũng công nhận là có, nhưng chúng ta không có một lúc nào thật vắng vẻ, thật tự do để mang bức tranh ấy ra mà xem xét coi có cái gì lạ không. Nay họ đi vắng, tức là họ dành cho chúng ta một thời cơ thật thuận tiện để làm công việc ấy.

- Anh nhắc bây giờ em mới nhớ – Có reo lên – Để em vào lấy anh coi.

Đó là một bức tranh hình chữ nhật, tranh sơn dầu, một bề 30 phân, một bề 40 phân, dường như do một bức tranh khổ 60x40 cắt đôi ra.

Đề tài trình bầy, không có gì đặc sắc lắm, thường là đàng khác. Bối cảnh là một ngôi từ đường cổ kính giữa một vườn hoa rộng mông mênh. Bình diện gần là một hàng rào ngăn cách vườn hoa với một mảnh rộng trồng các thứ rau, có một con rạch nhỏ chạy ngang suốt từ bên này sang bên kia bức tranh.

Có hai tay trịnh trọng nâng bức tranh đưa cho Cường và nói:

- Cậu mợ em trước khi chết bảo em rằng ba em căn dặn phải giữ cho kỹ bức tranh này để làm dấu tích hầu sau này anh em ruột thịt nhận được ra nhau. Trong những ngày chạy loạn, em phải kè kè mang nó đi theo. Ở đây, mới đầu ông Mười mắng không cho treo, sau thấy em kiếm ra tiền, có lợi cho ổng nhiều nên ổng mặc kệ cho em máng nó ở đầu giường.

Cường ngắm nghía mãi, không tìm ra dụng ý của những nét vẽ.

- Có bao giờ em tháo tranh này ra khỏi khung không? – Cường hỏi.

- Dạo chạy loạn ở Huế – Có đáp – thấy nó cồng kềnh quá, cậu em định tháo bỏ cái khung ra, chỉ cần giữ lấy bức tranh không cuộn nó lại cho gọn, nhưng không có thì giờ mà tháo nữa. Thét rồi quen đi. Về đến Saigon, yên rồi, cứ để vậy treo cho tiện. Không ai có ý tháo ra làm gì nữa.

- Thế bây giờ, ta thử tháo ra xem có gì lạ không nhé? – Cường đề nghị.

- Dạ, tùy anh.

Tấm ván mỏng ép sau bức tranh vừa được mở ra, Cường đã vui mừng reo lên:

- Có thế chứ! Giá trị bức tranh là ở đây này. Ha ha ha…

Có ngạc nhiên chạy lại nhìn, thấy Cường đã nhẹ nhàng vuốt mép bức tranh phía tay mặt. Thì ra bức tranh chỉ có ba cạnh phẳng phiu, còn một cạnh thì khúc khuỷu, chỗ nhô ra chỗ thụt vào, phải gấp lại theo một đường thẳng mới lồng vào khung được. Chỗ gấp ấy đã thành nếp, nhưng vì gấp ở mặt sau nên coi tranh ở mặt trước không ai để ý.

Nhìn mặt sau bức tranh, thấy mé bên trái có hai ngón tay mầu đỏ in rõ từng vân. Dưới dấu tay, có ghi ba chữ : Nguyễn Thiện Cơ.

Mé bên phải có bốn hàng chữ:

Long vỹ xà đ
Can qua xứ xứ
MÃ ĐẦU DƯƠNG
THÂN DẬU NIÊN

Có kinh ngạc kêu lên:

- Trời ơi! Ai ngờ lại còn những cái kỳ lạ này nữa, thế mà mấy năm nay chả biết gì cả. Nhưng ý nghĩa ra sao, em không hiểu, anh giảng cho em nghe đi.

- Giản dị quá mà em – Cường nói – Này nhé, ba em có một bức tranh vẽ một cảnh quen thuộc ở quê nhà. Ông có hai đứa con trai nên lăn tay và đề tên mỗi đứa ở một bên bức tranh. Giữa bức tranh, ông viết một bài thơ cổ. Đoạn ông cắt bức tranh ra làm đôi bằng một đường gẫy để sau này khi ráp hai nửa lại, hễ thấy các đường răng cưa ăn khớp vào nhau là đúng.

Vì tranh bị cắt đôi nên bài thơ cũng bị cắt đôi. Do đó em thấy những chữ bị cụt và những câu không có vần. Thật ra thì bài này có vần có luật đàng hoàng…

Vẫn còn thắc mắc, Có hỏi:

- Nói vậy, đó là một bài thơ cổ, tức là một bài thơ đã có sẵn từ xưa. Vậy chắc anh thuộc bài thơ ấy?

- Thuộc chứ – Cường đáp – Đúng ra, đó không phải là một bài thơ thường, mà là bốn câu Sấm của Cụ Trạng Trình. Bốn câu Sấm này quá phổ biến nên nhiều người thuộc lắm.

- Thế ý nghĩa của nó ra làm sao anh? – Có hỏi.

- Trạng Trình thấu rõ máy trời, biết trước những việc xẩy ra mấy trăm năm về sau nhưng không dám tiết lộ thiên cơ. Bởi vậy Cụ phải gói ghém những điều tiên tri trong những câu thơ bí ẩn gọi là Sấm. Chỉ khi nào việc xẩy ra rồi, người ta mới thấy là Sấm ứng nghiệm. Không mấy ai đoán được đúng ý nghĩa của nó trước khi biến cố xẩy ra…

Có thắc mắc hỏi:

- Đã khó khăn bí hiểm như thế, chả biết ba em còn viết vào bức tranh làm gì? Ai mà hiểu nổi?

Cường giải thích:

- Ba em chỉ mượn hình thức mấy câu sấm để che mắt những kẻ tò mò. Nó không có ý nghĩa gì về thời thế như những câu sấm đích thực. Trái lại, nó mang những nghĩa bóng, những nghĩa ẩn mà người dưng không thể biết được, nhưng người thân thuộc lại có thể đoán ra dễ dàng.

Anh tin rằng khi ráp bức tranh của em vào bức tranh của anh Căn, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa thực sự của toàn thể bức tranh cũng như của những câu sấm trá hình vậy.

Cường bảo Có trong khi y tần ngần lật đi lật lại tờ tranh và khe khẽ đọc mấy đoạn thơ cụt ngủn:

- Thôi ráp tranh vào khung đi, treo trả vào chỗ cũ. Nhớ đừng để ai chú ý đến nó nghe.

Đến giờ đi học, Cường đẩy xe ra, sắp nhẩy lên yên bỗng sực nhớ ra một việc vội chạy vào bảo Có:

- Khoan, đừng lắp tranh vào vội. Trưa nay, họ chưa về kịp đâu. Để tan học, anh về nhà lấy máy hình lại đây chụp ít kiểu mặt trước, mặt sau phòng khi bức tranh vì một lý do nào đó bị thất lạc…

---------------
(1) BTTB : bắt tay trái bạn (lối chào thân mật giữa các Hướng Đạo Sinh.)




CHƯƠNG VI

CẢ NGƯỜI LẪN TRANH MẤT TÍCH


Đi Đà Lạt vội vàng. Về Saigon cũng vội vàng. Vừa về tới nhà, việc đầu tiên của lão Mười là kiểm soát xem Thiện Cơ có còn đó hay không, hay là đã rông đi đâu mất tích rồi.

- Có đâu? – Y đập tay vào cửa sắt gọi – Có đâu, mở cửa cái coi.

Có lên tiếng thưa:

- Dạ, để con kiếm xâu chìa khóa.

- Ở nhà hổm rầy có chi lạ không? – Y vừa bước vào nhà vừa hỏi.

Rồi không đợi nghe Có trả lời, y sồng sộc chạy xuống nhà dưới, đảo mắt ngó quanh, liếc thật nhanh lên tường cạnh tấm giường của Có.

Bức tranh vẫn còn đó, y nguyên. Thế là yên chí lớn. Có thể coi là chắc như cua gạch món ba trăm ngàn sẽ nắm trong tay. Dù chẳng nhiều nhặn gì nhưng đó cũng chẳng phải là một món tiền nhỏ nhoi mỗi lúc mỗi kiếm ra một cách dễ dàng.

Bây giờ y mới dám phóng tâm nghỉ ngơi sau hai ngày đi lại vất vả.

- Có à! – Y đặt ly nước ngọt xuống bàn, quay đầu xuống bếp gọi – Trời hãy còn sớm, mày lấy xe lại Trường Đua căng lều lên mà làm việc, may ra còn kiếm được một mớ đỡ khổ. Mấy hôm đi tiêu hết nhẵn cả tiền…

- Dạ! – Có ngoan ngoãn vâng lời.

Vừa định thay đồ mát nằm nghỉ, y sực nhớ hôm nay là chủ nhật, có những độ ngựa gay cấn mà không bao giờ y chịu bỏ lỡ trừ những khi ốm liệt giường.

Y gọi vợ lại bảo:

- Bà với thằng Tỷ ở nhà nhé. Tôi phải ghé Trường Đua một lát cho đỡ ghiền.

- Ờ, đi đâu thì đi, miễn sao đừng về hạch tiền tôi là được rồi.

*

Tối mịt hôm ấy, y lần về nhà, thất thểu như một người vừa ốm dậy. Y ngạc nhiên thấy trong nhà tối om. Thì ra cả nhà đi vắng hết, cửa đóng có khóa trái ở ngoài.

- Ông Mười đó hả? – Bà Ba bên hàng xóm hỏi vọng ra.

- Phải, tôi đây. Chi đó, bà ba?

- Bà Mười đi khỏi, chắc lại đi đậu chến. Một lát sau, cậu Tỷ cũng đi luôn. Gửi tôi chìa khóa… Chìa khóa đây, ông Mười.

- Cám ơn bà Ba.

Y mở khóa vào nhà, bật đèn lên, ngồi chưa nóng chỗ đã thấy mụ vợ bò về, phờ phạc như người mất hồn.

- Đen ơi là đen – mụ lau mồ hôi than thở – thua không còn một đồng bạc dính túi!

- Tôi cũng đâu có hơn gì bà! – Mười thở dài than – Chưa bao giờ bị ngựa đá tới tấp và đau như kỳ này. Hết cả tiền về xe, phải năn nỉ người ta cho quá giang đến đầu đường, rồi lết bộ về nhà đó.

Lát sau, y an ủi vợ, mà cũng là tự an ủi mình:

- Thôi, bà nó ơi! Cờ bạc có canh đỏ canh đen, người ta cũng có lúc lên lúc xuống. Trời sắp cho vợ chồng mình hưởng cái hoạnh tài nên bắt vợ chồng mình phải chịu một chút thử thách đó thôi… Thôi, chịu khổ cực vài hôm, rồi tha hồ mà phong lưu.

Mụ vợ thở dài thườn thượt, vào trong sân rửa mặt. Bỗng kêu thất thanh:

- Chết rồi, ông ơi!

Lão Mười cuống lên, hỏi dồn dập:

- Cái gì thế? Cái gì thế?

Mụ vợ đứng như trời trồng, mắt thất thần ngó lên bức tường trơ trọi cạnh tấm giường xiêu vẹo của Có.

- Bức tranh… bức tranh đâu mất rồi? – Mụ nói không ra hơi, thều thào như người sắp thở hắt ra.

Người chồng, mặt cắt không còn hột máu, cũng thở hắt ra luôn:

- Chết tôi rồi! Chết tôi rồi!

Một lát sau, lại hồn, cả hai người quên cả mệt nhọc, cùng nhau lục lọi khắp nhà nhưng tốn công vô ích. Bức tranh đã biến mất.

Lão Mười là người tự trấn tĩnh được trước tiên. Uống một hơi hết ly nước đá lạnh, lão trầm ngâm suy nghĩ:

- Cái điệu này – lão nói – đúng là thằng con quý tử của bà chơi vố này đây!

- Ông nói sao? Ông nghi cho thằng Tỷ hả?

- Thì còn ai trồng khoai đất này? Bức tranh ấy không có giá trị gì đối với tất cả mọi người. Và ở cái đất Saigon này chỉ có vỏn vẹn năm người biết là nó quý giá mà thôi. Năm người đó là tôi với bà, thằng Tỷ, thằng Có và thằng Cường. Hai đứa này không lấy, hay nói đúng ra chúng không thèm lấy vì cả nhà mình đi vắng mấy hôm mà bức tranh vẫn còn cho đến khi mình về. Tôi không lấy, bà không lấy, thì lòi ngay ra thằng Tỷ lấy chứ còn ai vào đó nữa.

- Tôi sợ ông nghi oan cho con – mụ Mười cố chống chế.

- Oan! Thôi được! Để tôi hỏi kỹ lại xem cho bà biết oan hay ưng nhé!

Lão bước ra cửa, nói chõ sang nhà bên cạnh:

- Bà Ba có ở nhà không, cho tôi hỏi thăm một chút coi.

Có tiếng chân bước ra cùng lúc với tiếng trả lời:

- Chi đó, ông Mười?

- Chiều nay, thằng Tỷ nhà tôi gửi chìa khóa cho bà, có nhắn gì lại cho chúng tôi không hả bà?

- Không! Không có nhắn nhe gì hết.

- Cháu nó đi chơi một mình hay có bạn bè nào tới rủ?

- Cậu ấy đi một mình.

- Bà có thấy nó mang trong tay vật gì không?

Suy nghĩ một thoáng, bà Ba tươi cười đáp:

- Có, tôi thấy cậu ấy cắp ở nách cái gì lớn bằng tấm lịch treo tường, ngoài có bao bằng giấy nhật trình.

- Thôi, đúng rồi! – Lão lẩm bẩm, đứng ngây người ra, một lát sau mới ngượng ngập cúi đầu nói với bà Ba:

- Cảm ơn bà Ba, chúng tôi làm phiền bà Ba nhiều quá.

- Dạ, không có chi.

Lão Mười quay vào nhà, ngồi phịch xuống ghế, bảo vợ:

- Bà thấy không? Đúng là thằng ông mãnh đã ăn cắp bức tranh. Không biết nó định giở trò ma bùn gì đây?

- Tôi thấy bức tranh có giá, nó túng tiền đem cầm thế lấy ít nhiều xài đỡ chứ gì – người vợ rụt rè nói.

- Có chó nó mua, có chó nó cầm – người chồng tức mình gắt – Tranh có giá là có giá với mình đây nè, chứ đằng thằng một bức tranh phong cảnh xẻ làm đôi thì còn đẹp đẽ nỗi gì! Ai cầm, ai mua thứ đó!

Suy nghĩ một lúc lâu, lão nói tiếp:

- Theo tôi nghĩ thì thằng con quý tử của bà định bắt chẹt mình đây. Nó đem gửi bức tranh ở nhà một thằng bạn nào đó thôi, mượn đỡ ít tiền xài. Thế nào ngày mai nó cũng vác cái xác của nó về đòi tiền chuộc.

Mụ vợ thở dài than:

- Tôi cũng nghĩ thế. Nhưng bây giờ cả ông và tôi, túi sạch nhẵn như chùi, lấy gì mà chuộc được. Thật chán con với cái! Chỉ một mực ăn chơi rồi phá!

- Thôi, để xem chiều nay sửa xe kiếm được đồng nào, bà giữ lấy rồi liệu dụ nó mà lấy lại bức tranh, hẹn ít bữa nữa lên Đà lạt lấy tiền về, muốn bao nhiêu cũng có. Bà nhớ nó trả tranh rồi hãy đưa tiền nhé… Ủa! Mấy giờ rồi? Sao tối đã lâu ớn mà chưa thấy thằng Có về nhỉ?

- Ờ, tám rưỡi rồi, ông. Mọi ngày chỉ bẩy rưỡi là cùng nó đã về tới nhà. Hay có món khách nào tới trễ, nó phải nán lại làm rốn cho xong chứ gì!

Chưa nói dứt câu đã nghe có tiếng xe máy đậu ngay cửa.

- Chắc nó về đó!

Cả hai người ngóng cổ chờ. Có tiếng Cường hỏi vọng vào:

- Em Có có ở trong nhà không, hai bác?

- Ủa! Mời cậu Cường vào chơi – lão Mười chạy ra mở rộng cửa, mời đon đả – Em nó chưa về. Không hiểu bận công chuyện gì mà giờ này chưa thấy trở về.

- Cháu vừa ở đàng Trường Đua lại đây – Cường nói – Hồi chiều, Có không có mặt ở chỗ sửa xe. Cháu đi cắm trại ở Lái Thiêu về, có mấy quả măng định mang lại cho Có thì chỉ thấy cái lều không. Có đi đâu mất, xe Honda cũng đâu mất tiêu luôn. Thằng Sún con ông Năm ở lều bên cạnh cho biết rằng hồi chiều, lúc sâm sẩm tối, có một người lạ mặt, cao lớn, ăn mặc như lính kín, dựng chiếc xe Suzuki ở cạnh lều, vào nói chuyện gì với Có một lúc, rồi thấy mặt Có tái xanh, lấy xe ra, nhờ thằng Sún trông lều giùm trước khi đi theo người lạ mặt. Không biết là đi đâu.

Lão Mười mặt nhăn nhó, than thở:

- Thật là tai họa! Rắc rối vô cùng! Biết làm sao bây giờ đây?

Rồi lão năn nỉ:

- Thôi, trăm sự nhờ cậu Cường. Cậu nhủ lòng thương kiếm nó cho vợ chồng tôi.

- Hai bác cứ yên tâm – Cường nói – Ba cháu quen lớn với mấy ông trong Bộ Chỉ huy Cảnh sát. Để cháu về thưa với ba cháu điện thoại nhờ mấy ổng ra lệnh cho các Quận kiếm giùm thế nào cũng ra.

- Thôi, cậu Cường – lão Mười vội lên tiếng cản – Đừng phiền đến cơ quan Cảnh sát vội. Xưa nay, tôi vốn có cái tật là rất ngại có chuyện, bất cứ chuyện gì, với mấy ông Cảnh sát.

- Cháu nghĩ nhiều khi tránh cũng không được, bác ạ. Là vì có thể một Quận, một Ty, hay một Chi cuộc nào đó đã bắt giữ Có vì bất cứ một lý do nào… Nếu không can thiệp kịp thời, cháu e…

Càng nghe, vợ chồng lão Mười càng cuống lên.

- Vâng – mụ vợ nói – thôi trăm sự nhờ cậu Cường đó. Cậu cố giúp chúng tôi phen này được… tai qua nạn khỏi…

*

Chiều hôm ấy, Có vừa làm xong mấy mối, kiếm được mấy trăm bạc, đang mải o bế mấy món đồ phụ tùng mà khách hàng có cảm tình mang cho, thì Hải đậu xịch chiếc xe Suzuki đen ở trước lều.

Hải, một nhân viên Cảnh sát đang nghỉ phép nên bận thường phục, cũng là một khách hàng quen của Có. Y rất mến thương Có vì cậu bé này có đủ những đức tính của một người thợ giỏi : rành nghề, thông minh và thực thà, nhất là thực thà.

- Có ơi – y nói choang choang – có rỗi coi giùm anh cái xe!

- Dạ, nó sao đó anh? – Có hỏi.

- Nó mới dốc chứng, chạy nhanh thì không sao, mà hễ cứ đến chỗ đông, khẽ thắng cho chạy chậm lại một chút là y như rằng ông ấy tắt máy. Bực mình hết sức!

Y bước vào lều, nói ba điều bốn chuyện với Có lúc ấy còn bận loay hoay xếp lại mấy món đồ nghề cho có ngăn nắp. Cả hai vô ý quay lưng ra ngoài.

Hải chợt giật mình kêu:

- Chết cha! Nó thổi mất xe rồi, Có ơi! Hừ, láo thật! Quân này láo thật.

Có lật đật đẩy chiếc Honda ra, còn trông thấy hút chiếc Suzuki đen phóng hết tốc lực về phía Bẩy Hiền.

- Sún ơi! – Có gọi thằng nhỏ ở lều bên cạnh – Trông lều giùm anh một lát nhé.

Rồi quay lại giục Hải:

- Anh lên đây em chở. Xe ấy chạy không lại xe em đâu, nhất là nó có tật như anh vừa kể.

Xe phóng vun vút, nhưng vì đường chật người đông phải lách tránh mất thì giờ nên đến Trường Nữ Quân Nhân thì mất hút chiếc Suzuki. May được một khúc đường vắng, xe lao nhanh như gió. Gần đến ngã tư Bẩy Hiền đã thấy dạng một tên du đãng cao kều đang lạng chiếc xe đen ở đàng trước.

- Quân này to gan thật! – Hải hăm he – Chưa biết chủ xế là ai mà nó dám thổi! Quả là điếc không sợ súng!

Khoảng cách mỗi lúc một thâu hẹp. Hải đắc chí:

- Phen này ăn đòn rồi, con ơi! Phải cho quân này một trận thật mê tơi, rồi tống cho nằm ấp mới đáng kiếp! Ai đời xểnh ra một chút là ăn cắp! Loạn quá!

Tên quái xế dường như chưa biết nguy cơ đã gần kề. Y chắc mẩm nuốt ngon miếng mồi vì trời nhá nhem tối rất khó phân biệt ngay gian và y đã về gần tới sào huyệt. Bỗng một chiếc xe hơi chạy ngược chiều lao tới. Y vội lách tránh. Đường chỗ này quá đông. Xe khựng lại, rồi tắt máy. Y cuống lên đạp, máy chưa chịu nổ thì một tiếng còi cảnh sát ré lên cướp tinh thần. Y hốt hoảng quay lại, nhận ra xe Có đang lao tới. Thấy rõ cả Hải ngồi sau lưng ngó lom lom trông dữ như một hung thần.

- Chết mẹ rồi!

Y chửi thề. Tuy tiếc đứt ruột, tên cao kều đành phải quăng xe lại, co giò phóng mình vào một con hẻm chạy tháo thân.

Trèo lên xe, chàng cảnh sát bảo bạn:

- Anh nhận ra thằng này rồi. Thằng Chi Cao trong băng thằng Tuệ Sếu ở bẩy Hiền đây mà. Thằng nhãi cũng khôn hồn đấy! Không thì phen này ốm đòn!

Chợt có tiếng gọi:

- Có! Có! Đi đâu đấy?

Có ngửng lên nhìn, mừng rỡ reo lên:

- A! Anh Cường! Anh đi cắm trại đã về!

Hải vỗ vai Có, bảo:

- Thôi, Có về sau với bạn nhé. Tối rồi, anh phải về nhà gấp. Bữa nào rảnh anh sẽ ghé.

Có lễ phép chào:

- Dạ, anh lại nhà.

Sau khi nghe Có kể chuyện đuổi theo tên ăn cắp xe, Cường cười bảo:

- Thằng Chi Cao cùng một băng với thằng Tuệ Sếu và thằng Tỷ đó. Anh vừa trông thấy thằng Tỷ ôm một vật gì to bằng tấm lịch treo tường, ngoài bọc giấy báo, bước vào trong xóm thằng Tuệ ở ngã tư Bẩy Hiền.

- Không khéo lại là bức tranh của em cũng chưa biết chừng.

- Có thể! Nhưng dù có vậy cũng không sao. À, Có này, đây cũng là một dịp tốt để ta đánh một đòn quyết liệt cho ông bà Mười tối tăm mặt mũi… Bây giờ, em đừng về nhà nữa. lại anh ngủ đỡ một đêm đi. Cơm tối xong, anh sẽ tạt qua nhà em, hù cho ông bà Mười mấy câu. Rồi sáng mai, anh dẫn em về, thế nào ông bà ấy cũng phải lo đưa trả em lên Đà Lạt gấp.

*

Chín giờ sáng hôm sau. Vợ chồng Mười Cá Ngựa đang ngồi phờ phạc trong nhà, bỗng nghe thấy tiếng máy xe quen thuộc đậu trước nhà, ngó ra thấy Cường và Có thì mừng như bắt được vàng.

- A! Cậu Cường tới! A! Thằng Có về!

Cường vào nhà, nói tía lia:

- Y như rằng là Có bị người ta tố cáo mua của gian để thay đồ cho khách. Thư nặc danh, tố cáo vu vơ chẳng có bằng chứng gì, nhưng nếu không can thiệp kịp thời cũng dám ăn đòn lắm. Tệ một cái là người ta hỏi nó tên chi, nó cứ một mực khai tên là Có. Không biết họ, không rõ ngày sanh, cũng không rành được tên cha mẹ nữa. Thằng nhỏ cù lần hết sức. Họ bực mình, đã suýt nổi sùng. May sao, ba cháu điện thoại hỏi ra nơi giữ Có nên cháu tới vừa đúng lúc. Cháu khai đại cho em : Tên là Nguyễn Thiện Cơ, 14 tuổi. Con ông Nguyễn Thiện Nhân và bà Phạm thị Kim, cả hai đều quá cố. Cháu gọi ông Nguyễn Thiện Sỹ, kỹ nghệ gia ở Đà lạt bằng chú ruột. Hiện tạm trú ở nhà bác đây. Quả tình mới 14 tuổi, chưa đến tuổi khai lược giải cá nhân. Có giấy khai sanh làm bằng chứng. Nếu không tin, bác sẽ thân hành mang khai sanh tới xuất trình…

Mười Cá Ngựa càng nghe càng biến sắc. Bụng bảo dạ : Thằng ranh con này sao cứ y như là ma xó, cái gì cũng biết, mà lại biết thật rành mới chết chứ! Thôi, phải rồi, đúng nó là đầu dây mối nhợ tất cả chuyện này đây. Nếu không lo mau mau giải quyết cho êm đẹp, nó dám nổi sùng dẫn lão Sỹ về Saigon trình khai sanh cho Cảnh sát rồi nhận cháu thì mình chỉ còn có nước bơ mỏ, mất mẹ nó cả chì lẫn chài!

Dọn một bộ mặt thật tươi, y đon đả cảm ơn và bóng gió hứa hẹn:

- Cảm ơn cậu Cường rất nhiều, cậu giúp đỡ chúng tôi tận tình. Nhất định là không đời nào chúng tôi dám quên ơn… Cậu bận tâm đến thằng Có, chúng tôi cũng bận tâm không kém. Thế nào chúng tôi cũng phải lo giải quyết cho dứt khoát chứ không thể để lằng nhằng như thế này mãi được. Vừa yên thân cho thằng Có… Vừa yên cả phận chúng tôi…

*

Cường đi khỏi được một tiếng đồng hồ thì thằng Tỷ ở đâu dẫn xác về, nó cười nhăn nhở.

- Thằng quỷ kia – bà Mười hét – mày cất bức tranh đâu?

- Tranh nào hả má? Con đâu có biết. – y điềm nhiên trả lời.

- Thôi đừng có làm bộ ngây thơ, mày không biết thì còn ai vào đây biết nữa. Khôn hồn đưa ra trả ba mày, kẻo ông ấy nổi điên đánh cho gẫy gối tối mặt, không ai can nổi đâu.

Mười Khoái từ nãy giờ ngồi chẳng nói chẳng rằng, lừ lừ đứng dậy, đi tới trước mặt thằng Tỷ, nhìn nó bằng đôi mắt thật nghiêm khắc:

- Tỷ, tao hỏi mày một câu, phải trả lời cho đúng không thì chết đòn. Bức tranh của thằng Có mày có lấy không?

- Thưa ba, có – Thằng Tỷ run giọng trả lời.

- Mày để đâu?

- Con gửi ở nhà thằng bạn.

- Nhà đứa nào?

- Nhà thằng Tuệ ở ngã tư Bẩy Hiền.

- Muốn sống đi lấy ngay về đây cho tao.

Tuy sợ rúm người, nhưng thằng Tỷ vẫn chưa chịu đi. Cha nó quát:

- Đi lấy ngay đi! Sao còn đứng xớ rớ đó?

Nó rụt rè năn nỉ:

- Ba má cho con tiền…

- Tiền gì? – Mười Khoái gay gắt hỏi – Bộ tiền chuộc hả?

Thằng Tỷ đã dạn dĩ hơn, phân trần:

- Thưa ba, không phải tiền chuộc. Nhưng con xin ba má cho con ít chục ngàn…

- Ít chục ngàn? Để làm gì? – cha nó hỏi gắt.

- Dạ, để xài… để xài cho bằng người ta.

Mười Khoái cười gằn, rồi thở dài, mắng:

- Mới ba tuổi ranh, đi học sao không lo học cho bằng người ta? Lại bầy đặt theo băng này băng nọ, tập tành hút xách, bài bạc, toàn những trò chơi mất dậy. Nhà nghèo, bản thân chưa kiếm ra một đồng bạc về giúp đỡ gia đình, đã tiêu xài vung vít cho bằng những đứa con nhà giàu “phá gia chi tử”. Cái điệu này chả mấy chốc đi vào con đường giật dây chuyền hay ăn cướp xe… Rồi tù rạc lúc nào không biết…

Thằng Tỷ đứng chịu trận, không dám cãi nửa lời. Bà Mười thương con, dỗ dành:

- Ba dậy thì phải nghe lời mà sửa đổi. Từ rày không được chơi bời lêu lổng nữa nghe con. Thôi, cho mấy trăm cầm lấy mà ăn quà. Ra lấy xe lại ngay nhà thằng Tuệ đem bức tranh về đây. Ít bữa nữa, ba mày lên Đà Lạt có tiền, sẽ đâu có đó.

_______________________________________________________________________ 

Xem tiếp CHƯƠNG VII, VIII