Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

GIẤC MƠ THANH BÌNH - Trinh Chí

 
    
Riêng tặng anh Hoàng Đăng Cấp

Đêm nay anh mơ thấy hoa thanh bình
Nở trên môi hồng và ánh mắt xanh
Đàn chim bồ câu muôn phương về đậu
Những cành đầy hoa sương trắng long lanh

Đêm nay anh mơ thấy trăng thanh bình
Trăng đang mỉm cười với dòng sông xanh
Trăng gieo ánh sáng vườn cây sai quả
Em ơi, trăng vàng xóa hết điêu linh.

Đêm nay anh mơ thấy đêm thật hiền
Đêm im tiếng súng không còn giới nghiêm
Từng đàn trẻ thơ reo mừng ca hát
Bên đám lửa hồng có bước chân em.

Đêm nay anh mơ thấy đêm huy hoàng
Những người con trai con gái da vàng
Siết chặt tay nhau từ Nam ra Bắc
Một lòng chung xây ngôi nhà Việt Nam.

Đêm nay anh mơ thấy một con tàu
Chạy từ Nam Quan vào đến Cà Mau
Chở những con người cùng chung dòng máu
Dòng máu hồng tươi vun xới hoa màu.

Đêm nay anh mơ thấy muôn mồ hoang
Cỏ mọc xanh um trên đống xương tàn
Bây giờ cỏ xanh không còn mọc nữa
Muôn hoa khoe màu kết chữ VIỆT NAM.

Đêm nay anh mơ thấy đêm thanh bình
Bao nhiêu hoa mầu chết bom khai quang
Bỗng nhiên nẩy mầm đâm chồi trở lại
Muôn vạn cánh đồng vừa mới hồi sinh.

Đêm nay anh mơ thấy đêm thanh bình
Quê hương chúng ta không còn building
Ba mươi triệu dân trở thành bình đẳng
Họ sống yên lành trong túp lều tranh.

Đêm nay anh mơ thấy đêm nhân từ
Trên khắp quê hương vắng bóng nhà tù
Chính những nơi này trở thành trường học
Anh nghe vang trời tiếng trẻ u ư.

Đêm nay anh mơ thấy đêm thần tiên
Đêm vui đêm xanh đêm thật dịu hiền
Tuổi thơ bây giờ không còn sợ sệt
Đóa môi em hồng nở nụ hồn nhiên.

                                               Trinh Chí

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 107, ra ngày 1-6-1969) 



Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

TÌM VỀ KỶ NIỆM - Nguyễn Vũ Thy Anh

  

 
 Lời mở đầu

Chiến tranh vẫn tiếp diễn ròng rã trên 20 năm trời. Bom lửa, hận thù cày nát quê hương mẹ Việt nam dấu yêu. Tiếng nổ của cơ khí văn minh khiến mớ kỷ niệm từ lâu phủ kín rong rêu trong đáy cùng tư tưởng chợt nổ tung. Bàng hoàng khi cảm thấy mình quá lạc lõng ; chơi vơi trong biển súng đạn, trong không khí sôi bỏng căm thù chúng ta đành bám víu vào mảnh phao kỷ niệm. Ôi kỷ niệm một thời hằn vết trong tháng năm, từ lâu đóng khung vất bỏ nay được rũ sạch bụi thời gian, trìu mến nâng niu để chúng ta lần về bên ngày tháng dấu yêu thoắt đã xa vời hiện tại.


Kỷ niệm cho bè bạn

Bữa tiệc liên hoan chấm dứt. Tao gục đầu trong vòng tay, men bia không làm tao lu mờ lý trí, chỉ đủ để nhạt nhòa những khuôn mặt quen thuộc chung quanh. Âm ba cuồng loạn, tiếng nhạc vút cao réo rắt gọi hồn. Ngác ngơ tao nhìn chúng mày, Minh, Tâm, Anh, Tuấn... ơi, còn gì cho nhau ngày cuối cùng này : những giọt nước mắt, những lời chia tay... thôi, hết rồi. Mai tao ra đi, bỏ lại sau lưng tất cả - chúng mày, ngôi trường xưa, phố thị... và kỷ niệm - để lao mình vào hố thẳm hận thù. Từ nay sẽ không còn một lần được cùng chúng mày chơi đá cầu bằng mấy sợi lông gà xanh, đỏ để được chạy đi nhặt cầu vì bị phạt. Vội vàng những lúc cùng nhau hái trộm ổi, để có lần thằng Hùng bị té phải băng bột một chân mà chúng mình gọi đùa "người hùng nay đã cụt chân". Đáng nhớ biết bao những lần giành nhau đem bài lên cho thầy Thanh để được 20 vì là đứa đầu tiên. Một lần có đứa nhân sai bị thầy phê: "Chưa thuộc cửu chương, cho xuống lớp năm học lại". Đứa nào thế nhỉ? Phải mày không hở Bình ơi? Vang cười dậy lớp mỗi lần thầy Mẫn kể chuyện khôi hài. Thơ ngây làm sao khi đặt biệt danh cho những thầy, cô khả kính : Nào thầy "Quyên cận", thầy Mẫn giám thị", thầy Bùi đốc Long" mà tụi mình đọc trại thành... thành gì nhỉ? Chúng mày còn nhớ không? Đầu năm đệ nhị, lên Sàigòn vào học Hưng  Đạo gặp thầy Thái văn Khôi vui tính thường tự đọc lái tên mình thành Thối văn Khai...

Còn gì nữa không? Những buồn nhớ mỗi độ biệt ly khi nắm tay nhau hát bản "Hè về". Những băn khoăn hối hận lần cả lũ rủ nhau "cúp cua" đi xem phim Độc thủ đại hiệp ở Rex bị thầy dọa gửi thư về cho ba má, nước mắt viền mi, miệng tía lia năn nỉ: "chúng con lỡ dại thầy ơi". Những ngọt ngào yêu thương khi chuyền tay nhau một gói me chua trong lớp học, lòng không ngớt run sợ nguyện cầu: "thầy ơi đừng quay lại". Những hồi hộp đợi chờ sự linh nghiệm của cuộc chơi bói tên: tao với mày thương nhau nhất sao lại mang số 4: một thương, hai giận, ba lãnh đam, bốn hận thù mày ơi!

Những run sợ không dám vào lớp khi chẳng may tới trường trễ giờ vào học. Những rụt rè của buổi học đầu tiên, không dám vào lớp phải nhờ má dìu dắt. Những nức nở vụt bật khỏi đôi môi hồng khi thầy nhẹ nhàng han hỏi: "sao em không thuộc bài". Những hốt hoảng khi không làm bài bị thầy gọi tên Nguyễn Vũ Thy Anh.

Thôi hết rồi, còn gì đâu? Những sóng mắt, những môi cười, những rộn ràng tiếng vỡ pha lê, những gương mặt mấy thằng bạn thân xa xưa lùi dần vào xó kẹt ký ức. Hết, hết rồi. Đó đây tiếng ve sầu nức nở khóc thương cho lứa tuổi 19 ngây ngô. Những đóa phượng vĩ ươm máu nằm chết trong những trang giấy học trò cũng chỉ để trang điểm thêm cho khúc nhạc chia ly đượm màu buồn thảm.

Thôi, giã từ phố thị, giã từ chúng mày. Những đứa bạn một thời dấu yêu tay đan tay tung tăng cắp sách đến trường, giã từ những phương trình, những hàm số, những công thức, những định lý để trong đời chẳng còn một lần cắn nát mười đầu móng tay không tìm ra đáp số cho một bài lượng giác, giã từ tất cả.


Kỷ niệm cho má và em gái

Một lần đóng quân đồi 43 giá lạnh, vội vàng anh tìm mảnh giấy để viết mấy giòng cho mẹ và em được yên lòng nhưng cuối cùng đành xé tấm bìa, viết vào mặt trong của mấy quyển tiểu thuyết em cho anh với lời dặn dò: "nghiền ngẫm trong những ngày tháng dài, đong đầy thương nhớ nghe anh". Biết viết gì cho em. Em ơi! Làm sao anh quên được những rạng rỡ môi cười, những mừng vui rơi nước mắt của má, của em đón anh trong 24 giờ phép ngắn ngủi. Cả những nét âu lo, nụ hôn từ biệt, tiếng thở dài quay đầu, vội kéo tay áo lau đôi giòng nước mắt nóng hổi, khi anh xỏ chân vào đôi giày "bốt", mặc chiếc treillis, khoác lên vai chiếc ba lô nặng trĩu, nhìn má, nhìn em: "Má ở lại con đi, anh đi nha em gái của anh". Làm sao anh quên được tia mắt trầm buồn của má lúc đó (đành dùng chữ trầm buồn vì ngôn từ trở nên bất lực khi diễn đạt nội tâm). Em ơi! Còn đâu những lần thơ ấu rủ nhau nghịch ngợm những đồ chơi xinh xinh nhỏ bé bên gốc ổi, gốc bàng để rồi nửa chừng bị má gọi về đánh tội để tay dơ, ôm mười đầu ngón tay than đau ơi là đau mà nước mắt lặng lẽ viền mi.

Những bồi hồi e ấp khi lần đầu tiên gặp cô bạn láng giềng có cặp mắt nai đẹp ơi là đẹp, muốn làm quen nhưng chẳng dám, đành nhờ em trao vội mấy lời viết trên trang giấy học trò chứa đầy mơ mộng, ngát đầy hương trinh. Còn đâu những lần xúng xính trong bộ quần áo mới và tiền ba má lì xì mỗi độ xuân về. Những lần yên ngủ trong vòng tay cằn cỗi nhưng đầy âu yếm của mẹ già để nghe tiếng võng đưa kẽo kẹt và lời ru "ạ ời con ngủ cho ngoan".

Thơ ngây những lần hai đứa giành nhau gói kẹo má mới mua để rồi từng giọt nước mắt dỗi hờn lả tả tuôn rơi. với câu nói lẫy trong tiếng nấc "nghỉ chơi anh ra cho mà coi". Những tươi đôi má khi được thưởng 5 đồng vì "kỳ này con đứng nhất má ơi". Dễ thương những lúc "chó con" say ngủ trong gầm bàn với tiếng nấc thỉnh thoảng kéo dài vì vừa bị đòn bởi để vở loang mực tím trên chiếc áo má mới may cho. Êm đềm những lúc hai anh em chơi trò bán buôn chờ đợi má đi chợ về, nghe cồn cào trong bụng, rủ nhau vào bếp lục chảo cơm rang, có lần sơ ý đánh vỡ lọ mỡ, ôm nhau thút thít khóc sợ má đánh đòn. Những buổi sang Đông, nằm nán trên giường nghe cảm giác lành lạnh len vào cơ thể.

Rồi khi khôn lớn không còn được má ba âu yếm dẫn đến trường - ngôi trường làng Trần Hưng Đạo rêu phong phủ kín mang vẻ điêu tàn thê lương nhưng chứa chất những quả tim non nóng hổi đầy nhiệt huyết. - Hai anh em dắt nhau đi bộ mỗi sáng 4, 5 cây số ra trường tỉnh ; xứ Banmê giá rét khiến hai hàm răng đánh lốp cốp và hơi lạnh bốc ra miệng làm hai anh em nhớ đến đoạn film được coi một thuở xa xưa rồi tự ví mình là người phù thủy đó (mỗi lần há miệng phun khói là hiện ra một dinh thự đền đài). Những âu lo tức tưởi kéo dài theo bước chân về nhà lần bị bọn anh em thằng Thùy bắt nạt.

Những cái vẫy tay lưu luyến, những tia mắt nghẹn ngào mờ lệ trao nhau tại phi trường Banmê. Thôi rồi, từ nay ta xa rời xứ Banmê buồn muôn thuở mãi mãi. Xứ Banmê kia ơi! Mi đã đến với ta, chứa chất vào tim ta biết bao kỷ niệm dấu yêu. Giã từ mi, giã từ má và giã từ người em gái nhỏ bé thân yêu nhé! Thơ ngây của khung trời thần tiên tuổi nhỏ xin nhờ mi gìn giữ để sau này có một ngày nào trở về nhận diện dấu xưa: nơi đây hai anh em ta chơi nhảy lò cò một thủa, có lần gót chân rướm máu hồng vì đạp phải mảnh thủy tinh đau ơi là đau mà cố gắng tươi vui khi đi ngang mặt má ; bụi cỏ này tuy có cao hơn xưa nhưng vẫn còn bóng dáng một lần lẩn trốn lúc chơi "năm mười". Kìa ngôi nhà xưa! Má ơi! Con xin quỳ dưới chân má với lời xin sám hối đầu môi, với những ăn năn một lần ra đi là mất mát tất cả của đáy lòng. Em gái của anh! Hãy tìm lại cho anh tất cả những thần tiên của một thời bướm hoa dĩ vãng.

Với đôi tay chắp lên ngực, với lời gào thét: "Thượng đế! Hãy trả lại tôi những gì tôi đã mất. Khung trời bừng sáng của thời thần tiên giờ đã rời xa vĩnh viễn, với bầu không khí ảm đạm thê lương của súng đạn, hận thù hiện tại.
 

Kỷ niệm cho ba

Buổi tối má chợt thức giấc gọi "Anh ơi" tiếng kêu tắt nghẹn trong cổ họng, má vội vàng chạy lại không kịp xỏ chân vào đôi dép cũ kỹ thế mà chì còn nhìn ba nức nở: "Mình ơi". Ba ơi! Cái chết của ba thật nhẹ nhàng như một giấc ngủ của nàng công chúa lạ trong rừng thuở nào ba kể cho con. Dáng ba nằm thật thoải mái với hai cánh tay buông thõng, với đôi môi tái nhợt. Ba ơi! Cơn lốc cuộc đời kéo ba vút bay lên cả hư vô và xoay vần những kẻ ở lại vào nỗi muộn phiền giá buốt, cùng những tiếc nhớ hằn vết trũng buồn lên đôi mắt của má.

Không gian dừng lại mặc niệm quan tài ba đi lần ra nghĩa địa với tám ngọn nến lập lòe soi rõ tia mắt long lanh ngập buồn của má và ửng hồng đôi má bụ sữa thơ ngây của con.

Bị má la sao không một tiếng khóc tiễn đưa ba đi vào miên viễn, con bấu mạnh vào đùi... nhưng chỉ cảm thấy xuýt xoa than đau ơi là đau. Khi cầm cây gậy tang trong tay lại vung lên: "Đấu kiếm không Phượng?" (Phượng là tên đứa em gái).

Cho đến bây giờ khi hiểu ra thì ba ơi! Sao ba vội vã rời xa chúng con tìm về miên viễn không cho con một lần chạy đi mua rượu cho ba. Còn đâu nữa những lần được ba bồng bế trên tay, lang bang trên bờ ruộng đón những làn gió bồng tung mớ tóc rối tơ. Còn đâu nữa những vết hằn trên da thịt khi lỡ lầm phạm tội. Những đau thương đi vào cơn mê ngủ tạo ra những tiếng nấc tức tưởi trong vòng tay của ba...

Ba ơi! Ba còn gì cho con nữa. Ba ra đi sớm quá. Tiềm thức của con chưa nhận được một kỷ niệm nào khác.

Thôi, kỷ niệm cho ba xin đành để trống trải cô đơn trong tháng năm dài quằn quại.

 
Kỷ niệm cho người tình

Ngày mai Thy Anh ra đi. Những dấu yêu trìu mến của Mai cho Thy Anh bấy lâu xin đành để vào khung trời kỷ niệm ngọc ngà.

Ngày mai ấy, từ ngày mai ấy sẽ chẳng còn một lần nhìn thấy Mai trong chiếc áo dài trắng thơ ngây hương học trò, tung tăng cắp sách đến trường nên nhờ Phượng trao lại cho Mai quyển nhật ký của Thy Anh (quyển nhật ký bắt đầu viết vào lứa tuổi 16 tròn mơ mộng)

Mai biết rằng Thy Anh nghĩ về Mai thế nào không? Anh nghĩ rằng hàng đêm với quyển sách nhật ký nhỏ bé gối đầu giường, Mai hãy tưởng tượng đến Thy Anh, một cánh chim non run rẩy ra đi mang theo vô vàn thương nhớ. Nếu chẳng được vậy, Thy Anh cũng mong Mai nên im lặng cho Thy Anh ảo tưởng rằng Mai vẫn đang nghĩ về Thy Anh. Đừng làm tan vỡ bọt ảo ảnh ấy. Mai ơi! Mùa thu nào không có lá rụng, chuyện tình nào không chứa đầy nước mắt và thương nhớ hở Mai?

Ngày mai Anh đi, mang theo một ít thương nhớ trên bờ môi, còn gì nữa không? Có chăng ngoài những dòng lệ lăn dài trên gò má.

Ngày... tháng... năm... (12 giờ khuya).

Buồn quá! Tại sao Mai không chịu y hẹn. Không ngờ lòng người giả dối như vậy. Có ai biết bên ngoài là gương mặt đẹp đẽ thế kia mà trong bụng đầy nguy hiểm. Đâu những lần long lanh đôi mắt nói tiếng yêu thương. Đâu những lần cặp môi kia dịu dàng gọi "người ta" tiếng "Anh thương", "Anh mến".

Hồi chiều, nhờ Phượng hẹn Mai lại nhà mình để mình rủ Mai đi coi ciné "khao" mình mới thi đậu tú kép, nhưng chờ đợi mãi chả thấy Mai đâu. Thế thì còn gì là:

"Yêu nhau năm, sau núi cũng trèo
Thất, bát sông cũng lội, cửu thập đèo em cũng qua"

Ghi vào tất cả những bức thư của Mai đã gởi cho mình, gọi là để một lần giã biệt. Nhất quyết từ nay không thèm nhìn mặt con người kia nữa.

(1) "Gia định, 24-6

Anh thân,

Vừa được anh cho biết là sắp xa nơi này, tôi rất buồn là không được nói chuyên vui buồn với người tôi mến. Tôi rất lo không biết anh ở đâu và sẽ ra sao? Đi thì anh nhớ biên thư gởi về nhé. Tối quá xin tha lỗi"
 
(2) "Gia định, 28-6
 
Anh mến,
 
Mai cám ơn anh lắm nhé. Mai trả lại anh cuốn sách toán Đại Số đó. Mai không lấy luôn đâu vì còn em của anh nữa chi. Một lần nữa cám ơn anh.
 
Bữa trước gặp anh đi vô trường đó, hỏi, bảo là đi kiếm cô Mai vậy là Ngọc Mai, Phương Mai, hay là Tuyết Mai, để tôi chỉ cho, mà kiếm cô Mai học cùng lớp hả?"
 
(3) "Gia định, 4-8.
 
Anh mến,

Hôm nay có thì giờ và có dịp để viết thư cho anh, trong kỳ thi vừa rồi anh có đậu không? Chắc là Anh sẽ đậu cao nữa chứ, nếu đậu anh có ý định đi chơi đâu không? Vài dòng gởi đến anh xin đừng phiền Mai nhé".

Hừm! Tức quá! Không thèm sao ra đây nữa. Anh, em, thân, mến... viết hay lắm. Sao người ta hẹn không chịu lại? Không viết gì hết nữa, ngủ cho khỏe.

Ngày... tháng... năm... (9 giờ)

Đang nằm học bài trên gác chợt nghe tiếng ai quen quen: "Có anh Anh ở nhà không?" Thì ra là Mai.

Con người phụ bạc đó còn đến đây làm gì? Nhất định không thèm tiếp chuyện với cô ta nữa. Đồ... sở khanh chưa kịp đóng cửa phòng lại thì con bé Phượng đã dẫn người ta lên tới nơi. Mình ngồi yên lặng không thèm chào nhưng cơn giận của mình đã xuống. Mình chỉ muốn quay lại xin lỗi nhưng cảm thấy kỳ quá... lỡ đóng mặt giận rồi. Không nhìn nhưng mình biết Mai đã đến sát sau lưng và đặt bàn tay lên vai mình ; một mã lực nào thúc đẩy mình lắc mạnh đôi vai khiến tay cô ta tụt khỏi.

Thốt nhiên Mai òa khóc, mình hốt hoảng quay lại xin lỗi "Tại bữa trước chờ Mai không thấy nên Anh mới như vậy chứ". Trong tiếng nấc Mai đáp: "Muốn sang Anh lắm nhưng bận quá làm sao đi được. "Thế là "huề" Mai ơi thôi rồi còn đâu những e ấp tình yêu, những dỗi hờn, những xao xuyến. Ôi! Kỷ niệm dấu yêu!!

 
Để thay đoạn kết

Cho đến một ngày nào ta đi vào giấc ngủ nghìn thu, mớ kỷ niệm kia sẽ lại lần vào quên lãng để nhạt nhòa trong chiếc quan tài đánh verni đỏ sẫm. Nên ta muốn một lần được với tất cả những kỷ niệm đó, dù vui hay buồn, dù ngọt ngào hay cay đắng, dù hững hờ hay tha thiết. Ta đã sống trong tình thương của ba má, tình của Đỗ thị Bạch Mai, tình yêu thân của bè bạn với tất cả dịu dàng, trìu mến của em gái - Nguyễn Vũ Linh Phượng. Đôi cánh tay ta dù bé nhỏ nhưng đủ sức để ôm thật nhiều mộng đẹp. Ta muốn kỷ niệm hãy nở ngát hương hoa vào những chiều vàng hanh nắng, có những làn gió bồng bềnh mớ tóc rối, có những tia nắng mong manh như sợi lụa óng mềm để ta tìm lại những gì đã mất: những nuông chìu của mẹ, những đòn vọt của cha, những dỗi hờn của Nguyễn Vũ Linh Phượng, những tha thiết của Đỗ thị Bạch Mai và những thân mật của bè bạn.


NGUYỄN VŨ THY ANH       

(Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 29, ra ngày 8-7-1972)


Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

MỘT CHUYẾN TRỞ VỀ - Vương Phi

 

 
 Viết cho ĐTV

Tôi bước xuống đò với một niềm vui rộn ràng, đò chòng chành mặt nước xao động, khuôn mặt tôi tan vỡ theo những vòng tròn của nước. Tôi ngồi xuống thanh tre bắc ngang qua lòng đò dựa sát vào mạn ghe khoan khoái nhìn chung quanh, một vài người đàn bà vịn thanh tre cắm sào, bàn chân như bấu chặt thành ván bước xuống. Ông lái đò nhìn lên bờ rồi nhổ sào. Ông chống thanh sào dưới cát bồi lần từng bước cho đò ra giữa dòng. Gió mát thật dễ chịu từ miền sông dứa thổi xuống, đã lâu lắm tôi mới trở về đây. Mấy năm miệt mài ở tỉnh vẫn không làm cho tôi quên cái quê hương nghèo nàn thương yêu. Cuộc ấu thơ của tuổi dại vẫn hoài hoài trong tim, ươm hồng những hơi thơm của lúa chín. Tuổi thơ ấu của tôi được nuôi dưỡng bằng những ngày thật bình dị, mộc mạc chất phác của người dân ở đây.

Tâm hồn tôi thật xôn xao vì những niềm vui xa xưa. Chiếc cầu xe lửa thời còn Pháp vẫn còn nhưng bây giờ đã gẫy ngang. Rêu đóng đầy chân cầu và những đám cỏ mọc um tùm bên bờ đất mọc lan xuống sông gần như che lấp chân cầu. Hồi đó tôi vẫn thường theo lũ bạn nhỏ rủ nhau ra sông tắm. Mỗi lần có tiếng xe lửa hú từ đàng xa, chúng tôi không đợi gọi nhau mà đến gần chân cầu để xem những người tỉnh cho thật thỏa thích. Tiếng xe lửa xình xịch, xe đen ngòm với những chiếc đầu "Thật tỉnh thành" ló ra. Chúng tôi nhìn họ với cặp mắt hiếu kỳ và vẫn thường mơ ước được ra tỉnh một lần thôi để về khoe với chúng bạn những gì mình đã nghe và đã thấy. Nhưng những ý nghĩ đó chỉ thoáng qua thôi, cuộc đời của chúng tôi vẫn êm ả không xáo động nếu... không có chiến tranh xảy ra. Từ những vùng lân cận rồi đến làng tôi không mấy chốc. Thoạt đầu tôi vẫn không để ý, lúc đó tôi đã học được lớp ba trường làng, vẫn hằng ngày rủ nhau đi tắm, làm diều bay bay trong những chiều nắng hạ. Ngoại tôi cho tôi theo cậu và mẹ lên tỉnh khi cậu về quê và cho biết tình hình an ninh. Ngoại tôi và dì Hai ở lại theo hồi xưa "lo mồ mả tổ tiên". Tôi theo cậu lên tỉnh với niềm náo nức, những ham muốn ngày xưa lại trở về dẫy đầy. Sáng mai lên tỉnh mà tôi còn ngồi với lũ bạn nhỏ chia nhau những quả táo tàu mà cậu tôi đem từ tỉnh về. Táo tàu ngon thật, nhưng tôi cảm thấy buồn buồn vì sẽ xa quê tôi. Được sinh ra và nuôi sống bằng những mộc mạc của quê hương, tôi vẫn còn mang nặng tính chất miền trung nghèo khổ, lũ bạn tôi vẫn nhắc:

- Lên trển mầy nhớ gởi cái này về ăn nghe mậy.

Những náo nức lên tỉnh của tôi tan biến sau một tuần ở tỉnh. Tôi nhớ quê tôi quay quắt và vẫn thường nói với mẹ tôi đưa về. Năm năm sống trong thương nhớ quê vẫn ăm ắp trong lòng. Cứ mỗi độ ve reo là tôi lại buồn, tôi thường ngồi bên cửa sổ thầm nhớ quê hương và lũ bạn nghèo trong nước mắt. Tôi vẫn không thường khóc vì thuở nhỏ tôi đã khóc nhiều đâu? Ngoại và mẹ thương tôi vô vàn. Thế mà tôi đã khóc những chiều, những tối mùa hạ chói chang...

Đò đã cặp bến, tôi xách "sắc" và mấy gói táo tàu, như ngày xưa đã hứa, bước lên miếng gỗ ẩm nước. Men theo mấy bụi tre tôi bỏ đường cái để rẽ vào một con đường nhỏ. Con đường này đi một khoảng là dẫn đến đầu làng tôi, ngọn cỏ xanh mơn man vào chân làm tôi vẫn nhớ những ngày xưa đi chân không trên bùn và cỏ ướt. Cỏ khứa không làm tôi khó chịu trái lại mang cho tôi một kỷ niệm dễ yêu trong khoảng nhớ. Bụi tre sừng sững ở đầu làng vẫn cao vời vợi. Ngọn lá phướn mỗi độ Tết đến trên ngọn tre hấp dẫn bọn tôi không ít, nhất là tin dựng nêu bắn ra. Bọn tôi hay đang ăn cơm hay đang cắt môn bạc hà, đang xới củ mì đều bỏ hết mà chạy thật nhanh đến đầu làng để nhìn ngọn phướn đó phất phới trong cơn mưa lất phất. Miền Trung tôi vào dịp tết đến vẫn lạnh và mưa nhiều. Nhưng là mưa xuân cơ, những nhung nhớ của tôi càng chất đầy thì cảm xúc lại làm cho tôi rưng rưng không ít. Như một kẻ thiếu vắng bóng mát ngàn cây lâu ngày, tôi uống thật vội vã, thật đầy những hiện hữu vào tim. Cảm xúc làm cho tôi nghẹn ngào, thật còn những mật ngọt nào cho tôi không nữa?

Ngôi đình ở đầu làng bị sụp một bên mái, trên cột trụ nổi vẫn còn vết lủng của đạn, rêu phong đầy vẫn ấp yêu mái ngói, con đường mòn gập ghềnh nghe chai cứng. Chân hơi đau tôi cảm thấy khó chịu, một thoáng ý nghĩ qua tôi cởi giày đi chân không. Đâu đấy thật im lặng. Cái nắng của miền quê trải dài trên lúa úa, trên tàn cây rộng mát với nghìn lời ca yêu thương. Mùi thơm thoang thoảng của bần vàng đâu đây, một mình tôi đi trên yêu thương nghe chừng như sữa ngọt. Vết chân đi trên cỏ xanh thật êm ái. Bóng người bù nhìn phất phới giữa đám lúa héo tàn, đất đã khô cằn vì ánh nắng gắt gay hay vì bom đạn (?) Một loáng nước thật đục bên gò mả thấp, hình ảnh này thật quen thuộc khi mỗi độ nắng cháy trở về. Tôi ngậm ngùi, miền Trung tôi vẫn suốt đời khổ sở. Mùa mưa thì nước thật nhiều, dâng ngập cả ruộng lúa, mùa hạ lại nắng cháy nứt đất, thiêu lúa. Những hoang tàn xung quanh làm tôi chợt thấy tủi cho thân phận quê tôi thật hiu hắt. Quê nghèo không an ninh vẫn cằn cỗi, khó sống, ruộng lúa miền Trung không cò bay thẳng cánh như miền Nam, không cây ăn trái màu mỡ, không lụa màu như lụa Hà Đông. Quê tôi không có gì ngoài mảnh đất khô dăm ba gốc lúa, vài đám khoai mì, sắn. Toàn những thứ trừ cơm qua ngày tháng. Rồi những ngày chiến tranh tới quê hương mến yêu mất tất cả không còn gì ngoài tâm hồn nấn níu quê hương còn vấn vít...

Tôi bước vào thềm gạch đỏ của ngoại, mấy hàng cau trắng phơi trước sân và một đám củ mì vừa mới đào còn dính đất. Thấp thoáng trong sân vài chú gà đang mổ lúa, yêu thương vô vàn dâng đầy mắt, có cảnh nào xúc động hơn khi trở về quê hương không hở?

Tôi đứng một lát cho xúc động vơi bớt, ngoại tôi còm cõi bên đám rau khoai, bằng một giọng thật khẽ tôi mím môi rồi bật ra:

- Ngoại!

Ngoại tôi quay lại, bà nhận ra tôi, thằng cháu bé bỏng của bà ngày xưa mà bà từng ẵm bế:

- Mi đó phải không Lâm? Mạ mi không về à?

Tôi buông sắc và mấy gói táo tàu chạy lại bên bà nũng nịu như ngày xưa còn bé:

- Không ngoại à ; ngoại có gì cho con ăn với, ngoại còn làm kẹo mè không hở?

Ngoại tôi bật cười:

- Mi giống như hồi nớ nghen Lâm. Háu ăn kẹo mè không khác gì mạ mi khi trước.

Tôi mỉm cười bẽn lẽn và tung tăng chạy vào trong, mùi rơm khô sau hè hơi âm ẩm. Có lẽ mưa hôm qua, hôm kia còn trữ nước. Tôi ngồi trên phản gỗ, lâu ngày đã lên nước bóng loáng. Dì Hai ở ngoài vườn nghe tôi về chạy lên tíu tít:

- Mi về đó hả Lâm? Dữ không, bây chừ trông lớn tệ, hôm mô cho tôi "ăn hậu" đây cậu?

Tôi khúc khích:

- "Ăn hậu" hay "ăn cỗ" hả dì?

Dì tôi âu yếm mắng:

- Mồ tổ mi, nói bậy không (?)

Giọng Huế trọ trẹ khó nghe nhưng tôi nghe như một dòng sữa chảy vào tim thật mát dịu, tôi muốn lịm chết trong dòng sữa ấy quá!

Tôi đứng dậy đi ra sau bếp: vẫn như xưa, chuồng bò ở cạnh bếp, đám môn bạc hà xanh ngắt trong hàng rào mồng tơi những quả tím ngắt như nhắc nhở lọ mực tím ngày xưa. Hồn tôi reo vui, trầm vang những bao la rộng lớn trong lồng ngực nhỏ bé. Không gian im ngắt ngoài tiếng động sột soạt của mấy chú gà phá phách. Đâu đây có tiếng máy bay xa xa...

Tôi soạn đồ đạc lấy mấy xấp vải cho ngoại và dì, những quả cam vàng để cúng ông ngoại, tôi chợt nhớ ra, khẽ gọi:

- Ngoại ơi, tụi con Xí, thằng Chiếu, Minh với con bác Ba còn ở đây không? Cả anh Nghĩ hay làm diều cho con nữa?

Ngoại tôi lấy khăn lau mặt như che giấu giọt nước mắt, tôi biết chuyện  không lành nên trố mắt nhìn ngoại.

- Hôm máy bay rớt ở gò Ôn Đổng, thằng Tèo, con Xí tới chộ không ngờ máy bay nổ, tội nghiệp, mồ tụi hắn chưa xanh cỏ...

Tôi mở lớn mắt nhìn trừng trừng vào khoảng không, hình ảnh hai đứa bạn nhỏ thơ ngây của tôi xa xưa. Ôi những đứa bạn tuổi thơ đã lịm chết trong tiếng nổ quái ác. Nước mắt đã tràn đầy má, rơi trên tay, ngoại tôi vẫn buồn buồn:

- Còn thằng Minh con bác Bảy đầu xóm đi chăn trâu với thằng Nghĩ, không dè trâu đạp nhằm lựu đạn, hai đứa nó cùng ngồi một con trâu để làm diều, làm tụi nó chết cả hai...

Tôi gục đầu trên tay, nhớ lại khuôn mặt bướng bỉnh của thằng Minh, thằng bạn thân nhất trong cuộc đời thơ ấu. Và anh Nghĩ với những mùa hè tuyệt diệu bên cạnh những con diều trắng bay trong không gian nắng đỏ hôm nào. Chiếc sáo tre mà anh Nghĩ đã bẻ ở tre xú để làm sáo cho tôi, cho Minh.

Tháng năm nào đã ra đi, tôi cũng đã ra đi nhưng khi trở về để tiễn chân mấy thằng bạn nhỏ về lòng đất. Trái tim nào rướm máu, lòng người nào không buồn với những cảnh xót tan? Nhưng hợp tan như bây giờ có chua xót không hở? Những quả táo tàu còn đây nhưng tụi mày ở đâu? Tao có mua thêm mấy cuộn chỉ màu ở tỉnh về cho tụi mày làm diều đây. Mùa này diều lên cao lắm, tao chờ đợi những giây phút này để trở về cuộc sống xa xưa nhưng bây giờ và cho đến ngàn sau khi tao nhắm mắt cũng không còn nữa. Tôi không hiểu có cuộc chiến nào có can đảm kéo dài nữa không? Những lời cậu tôi dặn dò trước khi tôi về quê vẫn còn văng vẳng:

- Con về dưới có yên thì ở chơi lâu lâu cũng được, nhưng nếu không yên thì nên về sớm mà nói ngoại cùng đi lên trên này luôn. Chỉ sợ con về không được lâu vì bây giờ người ta đánh dữ lắm, ở dưới chết cũng đã nhiều...

Tưởng ngày trở về sẽ được hòa khúc yên vui với mùa hè dễ mến, nhưng nào ngờ... Tôi thở dài đứng dậy, bóng thằng Chiếu quen thuộc hiện ra ở cửa ngõ, thằng Chiếu đen nhiều và lớn hơn, trong lòng tôi còn sót lại một niềm an ủi. Tôi và thằng Chiếu cầm tay nhau không nói, tôi nghẹn ngào nhìn nó:

- Con Xí em mày chết bao lâu rồi?

Thằng Chiếu quăng cục đá ra xa, mắt nhìn về cuối chân trời.

- Gần hai tháng nay rồi.

Tôi im lặng, một vài con chim lẻ bầy bay trên nền trời xanh, chiếc trực thăng lù lù hiện ra, Chiếu đưa mắt nhìn và chỉ:

- Đó chiếc máy bay giống đó đó, rớt xuống...

Cục nghẹn ngào chận ngay cổ thằng Chiếu nghe thật xót xa.

Im lặng thật lâu, tôi chợt nhớ ra:

- Mày ngồi đây nghe, tao vào lấy cái này một tí đã.

Tôi trở ra với cuộn chỉ màu và bao táo tàu đưa cho thằng Chiếu:

- Cái này tao cho mày làm diều đó, còn táo tàu thì... hồi trước tao hứa với tụi mày khi nào về quê đem cho tụi mày, nhưng bây giờ thì chỉ còn mày...

Thằng Chiếu mân mê cuộn chỉ màu, khe khẽ:

- Từ hôm anh Nghĩ chết đi tụi tao không còn làm diều nữa, tụi tao đâu có biết làm. Làng mình bây giờ không còn diều để thả và chiều chiều nghe tiếng sáo của anh Nghĩ nữa. Bần mùa này cũng chín nhiều lắm nhưng tụi tao đâu dám chèo đò đi hái bần đâu...

Nghỉ một lát, thằng Chiếu nói tiếp:

- Chỗ cành bần de ra sông bây giờ sâu lắm, Ma Da cũng nhiều nữa!

Tôi thẫn thờ nhìn cánh diều của làng bên phất phới trong màu nắng óng ánh:

- Tao biết làm diều, hôm nào tao bày cho tụi mày... còn sáo thì tao chịu, không biết thổi cũng không biết làm.

Nắng chiều thật vàng từ bên kia núi dọi xuống thế gian. Màu nắng ngập đầy trong ánh mắt, tàn lá thầu đâu thật mát với tiếng rả rích của ve sầu. Tôi nhắm mắt thả hồn chìm trong quá khứ, quá khứ bao giờ cũng đẹp, cũng dễ yêu. Ngày trở về tôi tưởng được trở lại vùng êm ấm ngày xưa, được gặp lại mấy đứa bạn quê vui tính nhưng giờ chỉ còn là nuối tiếc. Quê hương nghèo khổ của tôi trồng dẫy đầy củ mì để thay cơm. Củ mì ngọt bùi đượm mùi thơm tho. Những tưởng cái gì ở quê tôi đều khổ cực, cũng thiếu thốn, luống cày ngày xưa được cày bằng trâu, bò nhưng chừ khỏi cần vì đã có đại bác xới thay. Năm ba mẫu đất của ngoại tôi không còn dùng được nữa. Phương tiện dẫn nước vào ruộng thật thô sơ khi xưa bị bom dội hư nát. Người ta đã không giúp đỡ những phương tiện mới cho quê tôi còn nhẫn tâm phá hủy.

Quê hương của tôi ơi, tôi còn gì cho quê hương đây? Được may mắn trở về để nhìn cảnh này hay sao? Biết than thở gì? Thôi đành nhỏ một giọt lệ khiết tinh xuống vùng đất khô cằn, để nẩy mầm ước mong được nhìn quê hương lại như ngày xưa. Ngày xưa thân ái thật nghèo nàn nhưng có nghìn trùng hạnh phúc đong đầy tình quê hương.


VƯƠNG PHI       
 
 (Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 6, ra ngày 20-7-1971)


Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2024

VỀ THĂM QUÊ MẸ - Tâm Linh

 
 
1.
Sao anh không ghé về quê mẹ
Em gái chiều nay đang ngóng anh
Tựa cửa mẹ già run ánh mắt
Nhìn ra sương khói biếc xây thành
Dặm trường một chuyến anh đi mãi
Quên ngả đường xưa quên mái tranh
Tổ ấm ngày xưa đâu đấy nhỉ?
Chờ ai hương gió rũ trên cành
Mây giăng qua ngõ nhiều thương nhớ
Thôn bản đêm về hoen mắt xanh
 
2.
Sao anh không ghé về quê mẹ
Để ngắm mùa cau mới trổ bông
Mái cũ nhà ai vương nét khói
Màn đêm che khuất áng mây hồng
Trăng lên nhè nhẹ trên cành liễu
Tiếng hát vừa dâng ở cuối sông
Đôi mái chèo khuya trao ánh mắt
Thuyền xưa còn nhớ tóc phiêu bồng
Ánh vàng xao xuyến sau hàng giậu 
Xa cách lâu rồi anh nhớ không?

3.
Sao anh không ghé về quê mẹ
Tìm lại ngàn hương thuở ấu thơ
Có sớm trông hoa và bắt bướm
Chiều nghe sương xuống lặng như tờ
Đêm đêm không ngủ chờ nghe gió
Quyện những hương vào trong giấc mơ
Có những đêm buồn trên bãi cát
Nhìn sao rơi giữa vũng trăng mờ
Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa ấy
Réo rắt trong lòng như tiếng tơ

4.
Sao anh không ghé về quê mẹ
Để ngắm hoàng hôn mây trắng bay
Ngõ cũ rêu xanh mờ sắc tím
Đường xưa còn ngập nắng vơi đầy
Quê hương sau những ngày binh lửa
Đợi những bàn tay chung đắp xây
Khoai lúa đồng thơm mùi rạ mới
Mùa vui tay cuốc với tay cày
Có nàng thôn nữ nhìn phương cũ
Hẹn đón ai về trong mắt say.

                                             TÂM LINH
                                                 (Nha Trang)

(Trích từ bán nguyệt san Ngàn Thông số 6, ra ngày 20-7-1971)



Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2024

THƯƠNG VỀ QUÊ CHA - Hoài Huyền Phương

 
 
Ai có về Lục Tỉnh,
Xin qua xứ Gò Công.
Và ghé thăm đất Vĩnh,
Hoa trắng lẫn mây hồng.

Đường lên Tân Phước đó,
Hoa cau rụng trắng đường
Dừa xanh nghiêng chiều gió,
Như mái tóc người thương.

Quê tôi tuy nghèo vắng,
Không có vạn sắc màu.
Nhưng gió đùn mây trắng!
Tình thương chất lên cao.

Kể từ khi chinh chiến,
Bình Xuân đã xác xơ,
Tân Niên Trung nắng chuyển,
Bình Thạnh Đông bơ vơ.

Mấy nẻo đường quê cũ,
Ôi lưu luyến thiết tha,
Ngồi đây tôi ủ rũ,
Nghe thương về quê cha.

                  HOÀI HUYỀN PHƯƠNG
                     (Đơn-Phương - Sài-gòn)

(Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 104, ra ngày 15-4-1969)


Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

CHIẾC KHĂN KỲ DIỆU - Hoàng Hương Trang

 

Thu và Vân là hai cô gái đẹp nổi tiếng trong vùng, nhưng mỗi người một vẻ khác biệt nhau.

Thu đẹp sắc sảo, lồ lộ, lại chưng diện rất sang trọng nên lúc nào trông cô cũng ra vẻ đài các, kiêu sa. Ngược lại, Vân đẹp chất phác, mềm mại, lại ưa chuộng nếp sống đơn giản nên lúc nào trông cô cũng duyên dáng dịu lành.

Sở dĩ Thu và Vân là hai chị em mà lại có hai vẻ đẹp khác chiều hướng như vậy cũng không có gì lạ, nếu chịu khó để ý đến đời sống và hoàn cảnh của hai cô.

Ông Bá, thân phụ của Thu và Vân là một người giàu có nổi tiếng trong vùng Xuyên Thái, một vùng nhiều ruộng đất, nhiều rẫy nương và sông lạch. Nguyên ruộng của ông đã được ví von là ruộng thẳng cánh cò bay, cong đuôi chó chạy, nghĩa là ruộng nhiều quá, diện tích bao la cho đến nỗi cò có sải cánh mà bay, bay hoài không hết, chó chạy mệt nhừ phải cong cả đuôi lên mà chạy cũng chưa hết ruộng của ông Bá.

Rẫy nương của ông Bá cũng nhiều như ruộng, khu rừng nào cũng là của ông, ông khai hoang, ông đốt rẫy, ông trồng trọt.

Rồi còn bao nhiêu là mương, là lạch cũng của ông Bá nốt. Cá tôm đầy lạch, đầy ao, không sao ăn cho xuể. Lúa gạo đầy lẫm đầy kho, đến hư mục, khoai sắn, đậu bắp, cứ chất như núi không làm sao tiêu thụ cho hết được.

Giàu có đến như vậy, ai nhìn vào cũng phải khâm phục. Ngôi nhà ông ở phải nói là một dinh cơ mới đúng. Một dinh cơ đồ sộ nhất vùng. Dân cùng đinh làm rẫy mướn, cày ruộng thuê của ông, mỗi khi gánh lúa, tải khoai tới nạp cho ông, chỉ mới tới cổng ngoài là đã run lập cập vì chiếc cổng vĩ đại, sừng sững xây bằng đá cẩm thạch chạm trổ tinh vi, hai cánh cửa sơn son đỏ chói chạm nào rồng, nào phụng, nào nghiên bút, nào ngũ quả trông lộng lẫy vô cùng, mái ngói thì tráng màu xanh lấp lánh mà mỗi khi trời nắng, trời mưa, nó cũng đổi màu theo thời tiết.

Chiếc cổng vĩ đại đã như vậy, nó lại còn được tăng thêm uy nghiêm bởi hai con sư tử đá nằm chầu hai bên. Nguyên hai con sư tử này là hai khối đá to lớn được chạm thành hình sư tử, hai mắt lồi, bờm dựng ngược, móng vuốt nhe nhọn lễu, làm dân khắp vùng thấy ớn khi đi ngang qua nhà ông Bá.

Mỗi khi dân nghèo tới nộp lúa, nộp khoai sắn cho ông, chỉ mới nhìn thấy hai con sư tử đá từ đằng xa, là họ đã chùn bước, cứ thẳng một mạch mà đi không dám nhìn ngó gì cả. Bốn con mắt của sư tử hình như có sức thôi miên họ, dọa nạt họ làm họ run tay run chân, đầu cúi thấp không dám nhìn lại hai con thú bằng đá đó. Dân làng sợ quá đến đồn đãi thành huyền thoại. Có người kể rằng, đêm đêm họ nghe hai "ông mãnh sư" gầm rung chuyển cả núi rừng, cặp mắt của mỗi ông chiếu ra một thứ ánh sáng lạ lùng. Ông bên tả chiếu ra màu đỏ như huyết, ông bên hữu chiếu ra màu xanh như nước biển. Những đêm trăng sáng, trời trong, họ còn thấy hai ông quay đầu nhìn nhau, gầm gừ, hai luồng nhỡn quang màu xanh và màu đỏ từ mắt hai ông chiếu ra đan kết vào nhau, hòa hợp thành một màu tím sáng lòe như hào quang chớp lóe.

Chỉ nội những chuyện đồn đãi quanh hai con sư tử đá ngoài cổng đã làm cho dân khắp vùng nể sợ ông Bá.

Qua khỏi chiếc cổng đồ sộ vừa kể, là một sân rộng mênh mông với bao nhiêu cây cảnh, chậu sứ, chậu sành không sao kể xiết. Trên những chiếc chậu to vừa bằng vài người ôm, là những cây quí uốn nắn thành hình long ly qui phụng, xung quanh chậu vẽ hình điển tích, kể lại những chuyện xưa trong sách vở, nét vẽ tinh vi, men lấp lánh bóng ngời đủ màu sắc. Có những chậu trồng những thứ hoa kỳ dị thơm ngào ngạt, có những chậu trồng những cây lấy giống tự phương xa, cành lá như nét vẽ, trái như chuỗi ngọc kết, mùi hương bay xa mấy dặm, quyến rũ bao nhiêu ong bướm sặc sỡ tụ họp về làm cho hoa lá càng tăng thêm vẻ đẹp. Mỗi khi dân làng có việc cần phải vào nhà ông Bá, đi ngang qua sân đầy chậu cây quí, họ khép nép, nhìn lấm lét như sợ vướng đổ vỡ những chậu quí, những kỳ hoa dị thảo kia. Trông ánh mắt sợ sệt đến thương hại của người dân quê đủ biết họ khâm phục sự giàu sang của ông Bá đến chừng nào?

Qua khỏi khoảng sân rộng trồng toàn hoa lá kia là những tòa ngang dãy dọc trông đến ngợp mắt, bước đến lạc lối, nơi nào cũng cột kèo chạm trổ, nơi nào cũng sơn son thếp vàng lộng lẫy chóa mắt. Nào nhà khách, nào nhà thờ, nào nhà mát, nào nhà kho, lại còn nhà gia nhân đầy tớ, lại còn nhà nuôi khỉ nuôi chim, thôi thì không biết bao nhiêu tòa, bao nhiêu dãy, đếm không hết mà đi xem cũng không nhớ nổi. Chỗ thì lầu đón gió, chỗ thì gác chờ trăng, chỗ lương dinh, chỗ thủy tạ, bên tây hiên, bên đông phòng, có thể làm người lạ lạc lối không tìm được đường về.

Người ăn, kẻ ở cứ nườm nượp ra vào, xôn xao như chỗ hội hè đình đám.

Ông Bá giàu có đến như thế, tiếng đồn khắp vùng ai cũng kính nể sợ sệt, ấy vậy mà nét mặt ông lúc nào cũng rầu rầu, như có một điều gì phiền não.

Số là, ông Bá lúc còn trẻ, với tài sản ức vạn như thế, ông đã cưới được một người vợ gọi là môn đăng hộ đối, con gái một nhà giàu có ngang hàng với ông.

Tuy nhiên, trời cao ít khi cho ai được hưởng đủ mọi điều sung sướng. Hai ông bà giàu có, ngồi trên bạc trên vàng, lúa gạo mục nát trong kho, mà mãi mười năm sau ngày ăn ở với nhau mới sanh đặng một mụn con gái, đặt tên là Yến Thu, mặc dầu hai ông bà đã đi cầu đảo khắp đền khắp chùa để xin một bé trai gọi là nối dõi tông đường.

Yến Thu mới sinh ra đã đẹp đẽ xinh tươi, lại được bọc trong gấm nhung lụa là, người hầu kẻ hạ nên lớn mơn mởn. Ngược lại, người mẹ của Thu, từ khi sinh được một bé gái xinh đẹp, bà đâm ra kiêu căng, cho là tại bà ăn ở có phúc đức nên sanh đặng gái, lại tốt lành xinh tươi sau này sẽ sang trọng đài các như bà. Còn ông, ăn ở không có phúc đức nên không có con trai nối dõi. Luận điệu này làm cho ông Bá càng buồn rầu thêm, chẳng mấy chốc mà tóc ông đã bạc, lưng ông đã còng.

Người vợ không những không an ủi chồng lại còn ra sức kiêu hãnh, bà làm như bé Thu là con riêng của một mình bà, bà không cho ông bồng ẵm nâng niu, bà bảo là râu ông tua tủa, tóc ông lởm chởm làm bé Thu sợ. Suốt ngày bà chỉ ở riêng trong phòng với bé Thu, không ngó ngàng gì đến ông chồng đau khổ buồn phiền.

Trong lúc đó, ông Bá lo lắng cho dinh cơ sản nghiệp của ông sau này không ai nối nghiệp vì dù sao Thu cũng chỉ là con gái, sau này lớn lên sẽ theo về nhà chồng, dòng họ ông sẽ hương tàn khói lạnh.

Có những ngày ông thơ thẩn dạo quanh vườn, ngắm cây cảnh tốt tươi ông càng chua xót cho thân phận, cây kia đâm chồi nẩy lộc, hoa nọ kết trái lên mầm, còn ông, tuổi ngày càng cao, mong mỏi mà không có một mụn trai nối nghiệp nhà.

Có những trưa nắng đổ ông phe phẩy chiếc quạt lông, trầm ngâm bên khói thuốc, chén trà, nhìn ra sân, đôi chim câu mớm mồi cho lũ con trong tổ, đàn sẻ mới lớn tập chuyền cành, con gà trống cặp kè chị gà mái với đàn con riu ríu, ông cúi đầu tự hỏi sao ông không có một đứa con trai? Mai sau sản nghiệp này ai chăm sóc?

Có những đêm bên ngọn đèn khuya, ông ngồi buồn bã ngắm những pho sách im lìm, ngắm những ngọc ngà châu báu, ông thấy ông quá cô đơn. Những lúc như thế, những lúc mà ông cảm thấy đời ông cô đơn như thế, ông đâu ngờ rằng lại chính là những lúc ông không cô đơn, bởi đã có một người theo dõi ông, xót xa dùm ông, thông cảm nỗi sầu héo của ông. Người đó thường nhìn theo những bước ông đi, thường ngắt bớt những hoa tàn lá úa trong khu vườn ông thường đi dạo để cho ông đỡ xót xa trước sự tàn tạ của lá hoa. Người ấy thường xua đuổi lũ chim bay xa vườn, cho ông đỡ tủi thân so sánh đời mình với chim chóc trong vườn. Người ấy thường lặng lẽ như một cái bóng, khơi thêm dĩa dầu đã cạn, châm thêm bình trà đã vơi, vào những lúc ông suy tư khuya khoắt.

Người ấy không ai xa lạ, chính là một cô hầu gái dịu dàng xinh đẹp mà trước đây khá lâu ông Bá đã cứu vớt cả gia đình cô khỏi cảnh nghèo đói vì mất mùa, nên cha mẹ cô đã cho cô đến ở hầu hạ ông bà Bá để đền ơn và cũng là để trừ số nợ mà ông Bá đã cho vay vào năm mất mùa đói kém trước đó.

Số là một năm mất mùa vì hạn hán, trời không có một giọt mưa, đất đai khô cằn, lúa khoai héo úa, những người làm ruộng mướn của ông Bá không tài nào có đủ số lúa để trả cho ông, vì vậy họ đành xin thiếu nợ. Trong số những người thiếu nợ ấy, có cả cha mẹ nàng hầu gái của ông bấy giờ. Gia đình cô ta có lẽ khổ sở nhất trong số những người thiếu nợ năm ấy, vì không những chỉ hạn hán mất mùa, mà bao nhiêu gia súc đều chết hết vì bệnh. Ông chồng đã lo lắng buồn rầu, lại thêm bà vợ vì quá tiếc của tiếc công mình chăm sóc bầy gia súc, nên bà đã ngã bệnh. Nhà đã túng càng thêm túng, không có lúa nộp cho chủ nợ, không còn gia súc để thay thức ăn, vợ lại ốm không tiền thang thuốc, ông khổ sở không biết xoay sở như thế nào.

Một hôm nhà hết gạo, cha con, vợ chồng đều nhịn đói, nhìn nhau mà khóc. Cô con gái thấy vậy, không thể nhìn cha mẹ khóc lóc thảm thiết như thế được, cô ôm mặt chạy ra đầu xóm ngồi khóc rấm rứt một mình.

Chợt một bàn tay ai đập nhẹ lên vai cô, cô giật mình nhìn lên, thì không phải ai xa lạ mà chính là ông Bá, ông chủ điền giàu có nhất vùng mà chính ba má cô đang thiếu nợ. Ông Bá nhân hôm ấy đi thăm tình trạng lúa ruộng ra sao khi ông biết trời làm đại hạn. Lúc đi qua đầu xóm cống, ông thấy một đứa con gái ngồi ôm mặt khóc, nên ông hỏi cho biết nguyên do. Cô gái cứ thật tình thưa, kể rõ hoàn cảnh quẫn bách của cha mẹ cô đang lâm phải.

Ông Bá nghe xong, động lòng trắc ẩn, bảo cô gái hãy về báo cho cha mẹ cô hay là ông Bá bằng lòng cho thiếu số lúa má đó. Không những thế, ông còn móc túi cho cô một số tiền bảo về lo thang thuốc cho mẹ và mua lại gia súc khác nuôi làm vốn. Cô gái mừng rỡ cám ơn rối rít rồi đâm đầu chạy về kể rõ trước sau cho cha mẹ hay. Ít lâu sau mẹ cô đã lành mạnh, lại có thể chăn nuôi đàn gia súc mới, cha cô đã trồng trọt lại những hoa mầu cho mùa khác.

Một hôm cha mẹ cô nhớ tới ơn của ông Bá đã cứu cả gia đình ra khỏi cơn khó khăn túng quẫn, bèn bàn bạc đem cô gái đến ở nhà ông Bá để hầu hạ ông bà, như thế vừa tỏ được tấm lòng biết ơn vừa là một cách để trừ bớt số nợ mà họ không bao giờ có thể trả được.

Vì cảm tấm lòng của ông Bá, cô gái đã hết lòng kính nể ông bà chủ và không nề hà bất cứ một công việc nặng nhọc nào.

Tuy phải vất vả vì công việc, nhưng nhờ được ở nhà giàu có, ăn uống ngon lành và đầy đủ, nên cô gái quê mùa ốm đói của ngày trước, chỉ ít lâu sau đã trở thành một cô gái khỏe mạnh và xinh đẹp. Càng ngày cô càng hồng hào tươi sáng, trắng da dài tóc, lại được bà Bá cho ăn mặc tươm tất sạch sẽ nên nom cô duyên dáng vô cùng. Cô lại lễ độ, kính cẩn và khá thông minh, hơn hẳn đám gia nhân đầy tớ, người hầu kẻ hạ nhà ông Bá, nên cô được cho lên nhà trên để hầu hạ, sai bảo những công việc nhẹ nhàng.

Kịp khi bà Bá sinh được một gái đầu lòng xinh đẹp, bà trở nên kiêu hãnh, còn ông Bá thì càng thui thủi cô đơn. Chính những lúc đó là lúc cô hầu gái xót xa xúc động cho hoàn cảnh của người chủ nhân hậu đã một lần cứu cả nhà cô thoát vòng đói khổ. Tấm lòng biết ơn đó đã thúc đẩy người hầu gái càng chăm lo hầu hạ ông chủ nhiều hơn. Và rồi, một cảm tình nẩy nở giữa người chủ nhà giàu có nhưng tâm sự buồn phiền với cô hầu gái vừa độ trăng tròn tươi đẹp.

Ít lâu sau, Yến Vân ra đời, tuy trong hoàn cảnh không lấy gì làm suôn sẻ, êm đẹp, nhưng nhìn gương mặt bụ bẫm hồng hào, người ta cũng thấy được đó là một bé gái xinh tươi không kém Yến Thu.

Những giây phút mà ông Bá được người hầu gái cảm thông an ủi, chỉ là những giây phút quá ngắn ngủi. Vì từ khi được biết tin người tớ gái dan díu với chồng, bà Bá đã nổi cơn thịnh nộ. Lòng ghen tuông độc ác trỗi dậy trong người đàn bà vốn đã nhiều kiêu căng đó. Bà đã canh chừng ông Bá, kiểm soát từng bước đi của ông, một mặt bà đầy đọa người tớ gái, bắt làm công việc quần quật không cho lúc nào có thì giờ nghỉ ngơi để có thể tìm cách gặp ông Bá được.

Tội nghiệp, Yến Vân sinh ra trong sự ganh ghét đọa đày, thiếu thốn mọi thứ, trái ngược với Yến Thu ngày nào, thật sung sướng trên nhung lụa, tuy rằng hai cô cùng là giọt máu của ông Bá.

Trong lúc Yến Thu nệm gấm, chăn bông, áo quần tơ lụa, trăm điều sung sướng thì Yến Vân thiếu thốn mọi điều. Cô không có một manh áo lành lặn, không có một chiếc giường sạch sẽ. Mẹ cô phải dùng chiếc khăn quàng duy nhất đã dùng từ hồi mới đến ở nhà ông Bá, để quấn cho con khỏi lạnh. Bà phải ăn cơm đỏ, muối tiêu để có đủ sữa nuôi con. Hai mẹ con bị đuổi xuống ở một chái nhà dột nát cuối dãy nhà bếp. Tuy vậy, với thời gian, Yến Vân cũng dần khôn lớn trong vòng tay ấp ủ của mẹ.

Quần áo Yến Vân mặc là những mảnh vải vụn, cũ, rách rưới do tay người mẹ đêm đêm ngồi chằm vá khâu kết cho con mặc, vì vậy, không đủ ấm và bao giờ Yến Vân cũng vẫn quấn thêm chiếc khăn quàng đã cũ của mẹ quấn cho từ khi lọt lòng, một chiếc khăn len nhàu nát, đen đúa, xộc xệch không ra màu sắc, hình dáng gì cả. Tuy thế, đối với Vân, nó là người bạn chí thiết đã gần bên cô từ khi mới chào đời.

Lúc nóng, cô quấn lên đầu để che nắng. Lúc rét, cô quàng qua cổ cho đỡ gió sương. Đêm đêm nó che chở cho cô khỏi lạnh. Chiếc khăn ấy theo cô như hình với bóng, không bao giờ rời cô.

Ngày ngày Vân thui thủi ở góc bếp, làm bạn với vài củ khoai, dăm củ sắn, vui đùa với con mèo mướp, chú chó vện. Cô cười tươi khi thấy con gà trống cất tiếng gáy vang, cô úp mặt vào tường để nhìn theo đàn kiến đưa đám những con sâu nhỏ. Cô nghe tiếng chim ngoài vườn, cô nhìn ánh lửa trong bếp, lúc thúc theo chân mẹ, sung sướng với nắm cơm, với khúc mía. Cô chưa hề bao giờ biết đến cái thế giới nhung lụa ngọc ngà của ngôi nhà chính, ngôi nhà đồ sộ mà ông Bá và Yến Thu, người chị cùng cha khác mẹ đang ở đó. Vây bọc chung quanh Thu, bao nhiêu đồ chơi đắt tiền, bao nhiêu người hầu kẻ hạ, bao nhiêu thức ăn ngon bổ.

Dù hai hoàn cảnh trái ngược nhau như vậy, cả hai cô càng lớn càng đẹp, không cô nào kém cô nào, tuy rằng hai cô là hai vẻ đẹp khác nhau, hai thứ ánh sáng cùng sáng, nhưng màu trái ngược. Yến Thu rực rỡ như lửa, Yến Vân dịu dàng như nước. Yến Thu chói lọi như chu sa, Yến Vân mơ màng như hồ thủy. Một cô sắc nước, một cô hương trời, cả hai vẻ đều mỹ miều thanh lệ.

Dù hai cô ở trong hai hoàn cảnh khác nhau, Thu nõn nà trước gương soi, lui tới đủng đỉnh bên màn thêu trướng gấm, chân đi hài nhung thêu hoa mẫu đơn mà bà Bá đã cho người đi chọn mua tận Kinh đô, cổ lấp lánh những chuỗi trân châu quí giá.

Ngược lại, Vân vô tư soi mình trên mặt nước ao bèo, đôi má cô ửng hồng duyên dáng với ánh lửa bếp cháy bùng, tay chân cô mềm mại thoăn thoắt trong những công việc hằng ngày, mái tóc cô mượt mà cài một nụ hoa hồng dại thắm tươi, đặc biệt nhất là cô vẫn giữ chiếc khăn len cũ kỹ của mẹ quàng cho từ nhỏ. Ngày nắng ráo, cô mang ra cầu ao giặt giũ thật sạch, trải phơi trên hàng giậu, chờ cho khô, cô xếp cất cẩn thận. Thỉnh thoảng mẹ sai đi đâu cô lấy quấn qua đầu che nắng, những tối lành lạnh, cô quàng chiếc khăn qua cổ và nghe một nỗi ấm cúng thân mật chuyền đi khắp cơ thể, mơ hồ như vòng tay ấp ủ của mẹ cô.
 
Bà Bá coi mẹ con cô như tôi tớ hèn mọn, bao giờ cũng nhìn bằng ánh mắt ghét bỏ, khinh bỉ, bà cấm không bao giờ cho mẹ con Vân được bén mảng lên nhà trên vì vậy giang sơn của Vân chỉ là ngôi nhà bếp tối tăm ám khói, là khoảng vườn rau, bụi chuối, cầu ao.
 
Thỉnh thoảng Vân trông thấy Thu đi dạo chơi thấp thoáng trong vườn hoa, nhưng chưa bao giờ cô dám tự ý vào khoảng vườn cấm đó nên cũng chưa được gặp người chị cùng máu huyết với cô.
 
Ông Bá đã già nua, buồn rầu và bệnh hoạn đau ốm luôn luôn lại bị sự theo rõi canh chừng của bà Bá nên chẳng bao giờ mẹ con Vân được giáp mặt ông. Vân lớn lên và vẫn tin theo lời mẹ kể, cô có một người cha nhân hậu, hiền từ đã cứu sống ông bà ngoại và mẹ cô qua khỏi cơn đói khổ. Cô vẫn theo lời mẹ dạy, cố ăn ở hiền lành, biết thương người hoạn nạn nghèo đói, làm theo gương người cha đáng kính của cô, mặc dầu người cha ấy, mẹ cô vẫn thường che giấu mà bảo rằng vì hoàn cảnh cô không được sống gần cha như bao đứa trẻ khác.

Vân lớn lên trong sự hiền lành, chất phác, trong nỗi dịu dàng do mẹ ban phát cho. Mẹ cô thường nhìn cô mỉm cười bảo:

- Hãy thương yêu tất cả mọi người mọi vật quanh ta, hãy chia sớt miếng cơm manh áo cho người thiếu thốn hơn ta, tình thương cao đẹp làm cho ta cảm thấy ta được đầy đủ, được vui sướng không vướng bận những phiền toái ưu tư.

Và Vân đã sống một cuộc sống thực dịu hiền như cây cỏ.

Có những bữa cơm thanh đạm, nhìn đàn gà con chiu chít bên gà mẹ đi kiếm từng hạt cơm vãi, Vân đã chia cho chúng một phần bát cơm cô đang ăn, cô sung sướng nhìn gà mẹ kêu gọi đàn con lại chia phần tíu tít, mất một phần bát ăn, nhưng lòng cô vui vẻ nhìn đàn gà được no nê và cô nghĩ rằng chúng cũng đang vui sướng với chiếc diều nặng chĩu.

Vân che chở cho từng ổ chim non trong vườn, chăm nom tưới bón cho từng cụm cây mùa nắng hạn. Cô thương yêu loài vật cây cỏ và cứ nghĩ rằng chúng cũng biết đau buồn như chính cô.

Ngày tháng qua đi, ông Bá đã qua đời sau một cơn bệnh ngặt nghèo không cứu chữa được. Từ đó bà Bá và Thu càng hành hạ mẹ con Vân hơn nữa.

Tuổi đời chồng chất, cuộc sống thiếu thốn, công việc nặng nhọc đêm ngày, chẳng mấy chốc, mẹ Vân đã già khọm nhăn nheo. Sự thiếu ăn thiếu mặc, cơm không đủ no, áo không đủ ấm, lại còn lời nặng tiếng nhẹ của bà Bá và Thu, mẹ Vân đã ngã bệnh trong một xó tối tăm nhất của tòa dinh cơ đồ sộ của ông bà Bá.

Mẹ Vân nằm trên chiếc giường tre xiêu vẹo, thuốc thang chẳng có, Vân phải thay mẹ trong những công việc hằng ngày, thỉnh thoảng mới chạy vào thăm mẹ được một chút.

Dù đau ốm như thế, dù thiếu thốn trăm bề, nhưng được lúc nào gần bên con, mẹ Vân cũng đem lời khuyên nhủ Vân hãy chịu đựng, hãy nhẫn nhục, đừng thù hận ai, đừng trách móc ai, hãy cứ bằng lòng với số mệnh, cứ ăn ở hiền lành, một ngày kia sẽ được Trời Phật thương xót mà phù hộ cho. Trong cơn bệnh thập tử nhất sanh, bà vẫn luôn luôn nở một nụ cười bao dung hiền hậu với đứa con duy nhất. Vân sót xa cho mẹ mà không biết làm sao hơn.

Một đêm mưa rả rích, Vân đang co ro bên cạnh người mẹ đau ốm, thấy mẹ vẫn chưa an giấc, cô lấy chiếc khăn len cũ đắp lên ngực mẹ cho bà được ấm thêm đôi chút. Rồi chắp tay van vái:

- Lạy Trời, lạy Phật xin hãy phù hộ cho mẹ con qua khỏi cơn bệnh ngặt nghèo này.

Bà mẹ trở mình, húng hắng ho mấy tiếng rồi cầm lấy tay cô, mệt nhọc trong tiếng nói thều thào:

- Vân con, mẹ chắc không qua khỏi đêm nay, vậy trước khi nhắm mắt mẹ phải cho con biết một điều mà từ lâu mẹ cố tình giấu giếm con...

Vân ôm vai mẹ nức nở:

- Không, mẹ sẽ lành bệnh, không lý Trời Phật bắt mẹ đau khổ mãi sao? Mẹ đừng nói thế con sợ lắm mẹ ơi!

- Con ạ, con hãy bình tĩnh nghe mẹ, đây là lời cuối cùng, con nhớ đừng quên, con chính là con của ông Bá, người ân của ông bà ngoại con. Mẹ chết rồi, con cố ở lại hầu hạ bà Bá và nhang khói cho cha con cho trọn đạo hiếu nghe con...

Vân buông hai vai mẹ, ngạc nhiên:

- Mẹ ơi, có đúng như thế không? Sao lâu nay mẹ giấu con...

Người mẹ cố thu chút hơi tàn kể lại hết từ đầu cho Vân nghe. Cuối cùng, quá mệt nhọc, bà cầm tay Vân, đặt lên chiếc khăn len cũ kỹ và nói trong hơi thở đứt quãng:

- Con... mẹ chỉ có chút kỷ niệm để lại cho con... hãy giữ lấy... chiếc khăn này đã ấp ủ mẹ con ta... mẹ thương con và sẽ phù hộ con!

Bà thở hơi cuối cùng trong tiếng nấc nghẹn ngào của Vân. Gió khuya từng cơn lành lạnh tạt vào căn nhà bếp ám khói.

Chôn cất mẹ mới vừa tròn ba bữa, Vân đã được bà Bá gọi lên nhà trên, lần đầu tiên cô được đặt chân lên tòa nhà đồ sộ lộng lẫy, cô không ngờ ngay sát căn nhà bếp tối tăm mà mẹ con cô sống chui rúc lại là một thế giới nguy nga giàu có mà chủ nhân lại chính là người đã sanh thành ra cô. Càng nhìn những đồ vật sang trọng cô càng đau xót cho mẹ cô đã một đời chịu đựng cảnh tối tăm.

Bà Bá ngồi trên sập gụ chạm trổ tinh vi, cất tiếng lanh lảnh:

- Con kia, mày chỉ là một đứa con hoang vô thừa nhận, đừng tưởng cái gia tài này rồi sẽ có phần mày! Ta không cho mày một đồng một chữ nào đâu. Mẹ mày chỉ là một con đầy tớ hèn mọn. Nay mẹ mày đã chết thì mày cũng phải ra khỏi nơi này, không có cơm dư đâu để nuôi mày!

Vân cúi đầu nhìn lũ chó núc ních đang nằm ngủ ngon lành dưới chân sập gụ, lòng ngao ngán nghĩ thầm:

- Thân phận mẹ con mình còn thua lũ chó kia, những con vật ấy còn được thừa nhận là gia súc, còn được nuôi nấng tử tế... mẹ ơi, một đời mẹ hẩm hiu!

Tiếng nghiến răng ken két của Thu ngồi gần đấy:

- Mẹ đuổi nó đi cho rồi, cũng may là nó rách rưới bẩn thỉu, chứ nếu có ăn có mặt thì chắc nó lấn át cả con đấy mẹ!

Vân nhỏ nhẹ:

- Thưa chị, dù sao em cũng mang trong người dòng máu của cha, như chị vậy!

- Ai chị em với mày? Đừng có hỗn láo con khốn nạn kia!

Vân rơm rớm nước mắt, không dám nói thêm lời nào.

Bà Bá thét vào tai Vân:

- Hừ, dám nhận là chị em hả? Chắc con mẹ mày trước khi chết đã bày mưu sắp kế cho mày để hòng chia cái gia tài này chứ gì? Đã thế ta đuổi mày đi ngay!

Giọng Thu nheo nhéo:

- Mẹ trông nó kìa, quanh năm tứ thời cứ quấn khư khư cái khăn len cũ kỹ trông phát tởm!

- Ừ, cái khăn đó của con mẹ nó hồi trước đấy.

- Trông khiếp quá mẹ ạ, như cái giẻ chùi giày ấy! Mẹ đuổi nó đi thôi, nó hôi hám quá!

Vân lặng lẽ quay về hướng bàn thờ ông Bá đặt ở gian giữa, lần đầu tiên Vân được nhìn thấy gương mặt hiền lành nhân hậu của ông qua tấm hình chân dung trên bàn thờ. Vân chắp tay xá mấy xá rồi lặng lẽ quay ra. Bóng Vân khuất dần sau mảnh sân rộng đầy cây cảnh quí giá.

Từ khi Vân bị đuổi khỏi nhà ông Bá đến nay đã ngót ba năm. Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn, bao nhiêu chua xót đau thương đã đến với cô gái hiền dịu ấy. Còn nhớ khi Vân bước ra khỏi nhà bà Bá, sau lưng còn văng vẳng giọng khinh khi the thé của người đàn bà giàu sang và người chị cùng cha khác mẹ của nàng. Vân cúi đầu đi như một kẻ không hồn, cô thất thểu cất bước chẳng biết đi về đâu. Cô còn nhớ lời mẹ kể về ông bà ngoại, sau khi mẹ cô làm nàng hầu ông Bá, kịp khi bà Bá biết được, máu ghen nổi lên, bà đã cho gia nhân đến mắng chửi đánh đập ông bà ngoại cô. Không những thế, đám gia nhân được sự che chở của bà Bá đã vơ vét hết cái gia tài nghèo nàn của ông bà ngoại cô và nổi lửa đốt nhà không một chút tiếc thương. Ông bà ngoại cô tuổi gia sức yếu, đau buồn đến sanh bệnh mà qua đời, trong khi đó, mẹ cô thì bị bà Bá đày đọa ghét bỏ.

Vân lang thang chẳng biết về đâu, cô vừa đi vừa khấn nguyện, cầu xin hồn mẹ có linh thiêng xin hãy che chở phù hộ cho cô. Trời tối dần, cô lo sợ không biết đem nay sẽ ngủ nơi đâu? Từ trước đến nay tuy nghèo khổ thiếu thốn nhưng còn có sự an ủi của mẹ, còn có manh chiếu rách, tấm giường xiêu để đêm đến mẹ con tựa vào nhau cho đỡ lạnh. Bây giờ thì chẳng có lấy một xó xỉnh nào để nghỉ chân đêm nay. Bốn bề vây phủ quanh cô là bóng tối hãi hùng. Những khóm cây lay động tựa hồ những con thú dữ đang rình rập để vồ mồi. Tiếng côn trùng than vãn đều đều một điệu nhạc buồn bã càng làm Vân lo sợ thêm. Gió đêm lạnh buốt, Vân chỉ vỏn vẹn một bộ quần áo cũ kỹ rách rưới trên người. Cô ghì chiếc khăn len, tìm chút hơi ấm và thì thầm trong đêm tối:

- Mẹ ơi! Con chỉ còn chiếc khăn này là kỷ vật duy nhất mẹ để lại cho con, hơi hướng mẹ còn phàng phất bên con, xin mẹ dẫn dắt con qua khỏi đêm dài tăm tối này.

Sau lời nói thì thầm ấy, Vân tự nhiên có cảm tưởng chiếc khăn xấu xí thô kệch như rộng thêm ra, chiếc khăn phủ quanh người cô thật ấm áp, cô phấn khởi tìm tới một gốc cây sau ngôi miếu hoang, quờ quạng hết những đống lá khô gom lại làm một chiếc ổ thật dày. Cô nằm ngủ thật ngon lành, tưởng như được vòng tay mẹ ôm thật ấm áp.

Tiếng chim ríu rít trên cành lá đã đánh thức cô dậy, những tia nắng hừng đông nhẩy múa trên những giọt sương lấp lánh, cành lá nhè nhẹ đong đưa dưới ngọn gió mai thả những chiếc lá khô rơi thong thả đây đó.

Vân cảm thấy đói cồn cào sau một đêm ngủ ở gốc cây. Cô nhớ lại trước đây lúc mẹ còn sống, mỗi sáng thức giấc cô đã thấy mẹ lùi cho mấy củ khoai lang trong bếp tro để cô ăn lót lòng hoặc mẹ vét cho bát cơm nguội gạo đỏ với vài con tép kho mặn ăn thật ấm bụng. Vân càng nghĩ đến những món ăn đó càng thấy đói thêm lên. Cô ao ước phải chi bây giờ mẹ cho một nắm cơm nguội, một dề cơm cháy hay một củ khoai luộc thật là sung sướng biết bao! Cô kéo chiếc khăn chùm kín đầu để đỡ phải nghĩ đến những món ăn mà cô biết không sao có được. Trong chiếc khăn chùm kín đầu, cô văng vảng nghe tiếng nói dịu dàng của mẹ ngày nào:

- Tội nghiệp con tôi, chỉ có củ khoai luộc mà cũng vui mừng, con ăn đi, mẹ dành cho con đấy!

Bỗng một cái gì nhồn nhột động đậy và ngạc nhiên đến thích thú, ngay dưới chân cô, chỗ cô đã phủ đầy lá khô để nằm đêm qua là một miệng hang nhỏ, trước cửa hang lăn lóc ba bốn củ khoai sắn, và cả mấy cái trứng chim nữa. Cô vội vã gom lá cây và tìm vài viên đá để đánh lửa. Làn khói bốc lên cùng mùi khoai nướng ngon lành làm sao! Những chiếc trứng chim cũng được cô vui dưới đống tro cho chín. Vân bóc trứng, lột khoai đặt trên những ngọn lá xanh non, cô quì xuống van vái mời mẹ về hưởng chút quà mọn., bữa ăn thật ngon lành no nê trong nỗi sung sướng vô biên của cô gái nghèo hèn lang thang.

Kể từ đó, Vân cứ đi lang thang vô định như thế, gặp ai thuê làm công việc gì cô cũng làm kiếm chút công, gặp ai nặng nề khuân vác, cô sẵn lòng giúp một tay, gặp người già nua yếu đuối, cô dắt đi một đỗi đường, gặp trẻ con lạc mẹ khóc lóc, cô cũng vỗ về an ủi. Vân rất nghèo, quần áo chỉ có một bộ trên người và chiếc khăn quàng ngang vai, nhà ở của cô là góc miếu hoang giữa đồng, là gốc cây rợp bóng. Khát cô xuống sông vục nước uống, đói cô mua nắm cơm hẩm ăn khi thỉnh thoảng có vài đồng do người thuê làm công việc vặt. Bạn cô là chim chóc trên cành, là những chú sóc nhảy tung tăng, là con tắc kè kêu khô khan, là con gà gáy giữa trưa, là tiếng côn trùng đêm đêm ru cô ngủ. Vân rất nghèo nhưng thật thong dong, lòng cô thanh thản, không thù hận ai, không ghét bỏ ai, không dua nịnh ai. Những chất phác hiền lành đó đã làm cho cô thêm đẹp. Khuôn mặt dịu dàng trong sáng, nụ cười điềm đạm vô tư làm ai cũng thương cô, họ dành cho cô một vài công việc vặt vãnh để kiếm miếng ăn.

Một hôm, cô trở về chiếc ổ lá dưới gốc cây mà hằng ngày cô vẫn nghỉ chân ở đó. Cô ngồi bó gối thong thả nhai một nắm cơm khô, bỗng một con ngỗng trời không biết từ đâu rơi xuống ngay chỗ cô ngồi, con vật kêu lên những tiếng đau đớn, một bên cánh bị thương, những cọng lông trắng xác xơ dính máu đỏ, chân nó bị gãy, một mũi tên còn dính theo. Nhìn con vật dãy dụa đau đớn, Vân bỗng thấy xót thương, cô nâng nó lên, coi kỹ chỗ bị thương, cô rút mũi tên ở chân nó rồi dùng lá cây quấn chỗ đau, cô lấy chiếc khăn thân yêu nhất của cô để đắp cho con vật. Chiếc khăn đen đúa cũ kỹ nổi bật trên màu lông trắng nõn của con ngỗng trời. Cô vốc cho nó một nắm cơm khô, con vật ăn vài hạt rồi ngước nhìn Vân như tỏ ý biết ơn người đã cứu sống mình.

Ít lâu sau, con vật xinh đẹp đã bình phục, nhưng nó không chịu bay đi xa nữa mà chỉ quanh quẩn gần Vân. Hằng ngày nó vào rừng kiếm ăn, chốc chốc lại bay về gốc cây, không quên mang về cho chủ vài trái cây ngon lành mà nó hái được trong rừng. Còn Vân có món gì ăn được cũng chia phần cho nó. Vân và con ngỗng trắng thân thiết như một đôi bạn. Những sáng đẹp trời, Vân vỗ tay cầm nhịp cho con vật đập cánh nhảy múa. Đến mùa thay lông, nó tặng cô tất cả để kết thành một chiếc mũ thật xinh xắn. Còn Vân thì thỉnh thoảng hái những cánh hoa thật đẹp cài lên đôi cánh nõn nà của con vật thân mến cô.

Thời gian cứ trôi, xuân về rồi hạ đến, thu trút lá rồi đông giá băng, Vân và con vật thân yêu vẫn sống bên nhau. Những lúc trời nóng bức, Vân nằm dưới gốc cây lim dim ngủ thì ngỗng trắng vỗ cánh quạt cho Vân mát mẻ, ngược lại, những đêm mưa gió rét buốt, Vân phải dời chiếc ổ lá khô vào trong góc miếu, ôm ngỗng trắng vào lòng, người và vật co ro đắp chiếc khăn cũ kỹ. Những ngày Vân đi lang thang trong các xóm làng làm thuê làm mướn, khi thì xay lúa giã gạo, khi thì gánh nước, đẩy xe, kiếm được đồng nào, cô mua thức ăn về cùng ăn với ngỗng trắng. Những hôm mưa gió, không ai thuê làm gì thì Vân ngồi bó gối trong góc miếu chờ ngỗng trắng ra bờ suối tìm vài chú cá to mang về cho chủ.

Một hôm, trời đã vào đông lạnh ngắt, từng cơn gió ào ạt lùa vào ngôi miếu hoang không có cửa nẻo gì. Vân và ngỗng trời ngồi sát bên nhau tìm chút hơi ấm từ những ngọn lá khô do Vân nhóm để lùi mấy củ khoai gầy còm. Lúc ấy, trên con đường làng, một toán quan quân người ngựa chạy rầm rập. Bỗng một tên lính đến gần vị quan trẻ tuổi khôi ngô tuấn tú thưa:

- Bẩm chủ tướng, ngôi miếu hoang kia sao lại có khói bay ra, và ngoài cửa miếu có rải rác vài chiếc lông chim ngỗng trời...

Vị chủ tướng trẻ tuổi, chỉ nghe tới đó đã vội bảo tên quân hầu:

- Chúng bay tới đó ngay cho ta, coi có phải con ngỗng trời khôn ngoan của ta đã bị quân gian bắt nhốt trong đó không? Mau lên!

Tiếng dạ vang rân, đoàn người ngựa bất kể mưa gió, băng qua cánh đồng, vượt những bụi gai chơm chởm. Đứng trước cửa miếu, tên quân hung hăng thét vang:

- Ai ở trong miếu ra đây bảo!

Vân run sợ ôm ngỗng trời ngồi nép sâu vào một góc và vội dập tắt những ngọn lá khô đang cháy dở. Tiếng gọi gấp rút ngoài miếu vang vào:

- Ai ở trong đó thì ra ngay ta bảo, ta gọi đến ba lần mà không chịu ra thì ta đốt miếu nghe không? Nào có ra không?

Vân run sợ kéo chiếc khăn  quàng chùm kín đầu. Bỗng từ trong chiếc khăn, một giọng nói dịu dàng của người mẹ thân yêu như thì thầm bên tai Vân:

- Con của mẹ, đừng sợ, đời con đã hết gian khổ kẻ từ đây, con hãy ra chào vị tướng trẻ trung ấy đi!

Giọng nói ấy gây cho Vân một niềm tin mạnh mẽ, cô bớt sợ, chầm chậm tiến ra cửa miếu.

Tên lính hung hăng chỉ mặt cô:

- Có phải mi đã bắt trộm con ngỗng trời của chủ tướng ta không?

Vị chủ tướng trẻ không để cho tên lính hầu nói thêm, chàng xuống ngựa lại gần Vân, giọng dịu ngọt:

- Thưa cô, nếu quả thật con ngỗng trắng của tôi có bay lạc đến đây, cô vui lòng cho chúng tôi xin lại, nó là con vật thân yêu của tôi, tôi sẽ đền ơn cô xứng đáng.

Vân ấp úng:

- Thưa ngài, nó bị thương nơi cánh và chân, nó rơi xuống đây và ở đây luôn, tôi không biết chủ nó là ai để trả lại, nhưng đến nay thì nó đã thành con vật thân yêu của tôi. Biết nó có bằng lòng trở lại với ngài không?

- Cô cho tôi gặp lại nó, rồi sẽ định, nếu nó nhất định không muốn về lại với tôi, tôi sẽ để nó ở lại đây với cô cho có bậu bạn!

Vân mừng rỡ, vào miếu bồng con ngỗng trắng trên tay, bộ lông nõn nà của nó đẹp làm sao, và chiếc mỏ màu vàng thật sang trọng, trong lúc đó người bồng nó, quần áo rách rưới xấu xí thật là trái ngược. Vị tướng trông thấy con vật thân thuộc cũ, mừng rỡ bước lại dang tay đón nó, nó cũng vui mừng nhận ra chủ cũ, vẫy cánh bay vào tay chủ, rúc chiếc mỏ xinh xinh vào chiếc áo sang trọng uy nghi. Vị tướng nghĩ rằng như thế là con vật tinh khôn đã muốn trở về nhà cũ nên rút trong túi ra một nén vàng trao cho cô và cảm ơn Vân đã bỏ công săn sóc nó bấy lâu. Vân buồn rầu nhìn con vật theo chủ lên ngựa ra về. Thôi thế là từ đây cô lại đơn độc không có ai làm bạn. Vân nghĩ thầm:

- Thế mà mẹ ta lại bảo kể từ nay ta sẽ hết khổ. Nó đi rồi ta buồn đến chết mất thôi!

Nhưng trái với ý nghĩ của vị tướng không ngô kia, khi ông vừa giật cương cho ngựa chạy, thì con ngỗng trắng đã tuột khỏi tay ông để bay về đậu trên vai cô gái đang gục đầu đau khổ. Vân ngẩng lên sung sướng, ghì chặt con vật vào đôi tay trìu mến.

Cùng lúc đó, vị tướng quay ngựa lại và ngẫm nghĩ:

- Nếu con bé kia xinh xắn sạch sẽ chút nữa thì ta không tiếc gì mà không đem nó về dinh để nó được gần gũi săn sóc con ngỗng trắng của ta, chỉ tiếc là nó dơ bẩn rách rưới thế kia!

Con ngỗng khôn ngoan hình như đọc được ý nghĩ của chủ nó, nó thoát bay khỏi vai cô gái, chui vào miếu tha chiếc mũ lông chim trắng ra đội lên đầu cô gái rồi lại tha luôn chiếc khăn len xấu xí cũ kỹ mà cô đang quàng trên cổ, con chim trắng ngậm chiếc khăn bay mất hút vào rừng. Cả vị tướng trẻ tuổi và cô gái đều ngẩn ngơ không biết nó bay đi đâu.

Vị tướng quay nhìn cô gái xấu xí lúc nãy, giờ này với chiếc mũ lông chim trắng nõn đội trên đầu như một vương miện, trông cô thật xinh xắn. Tuy thế nhìn lại bộ áo cô đang mặc rách rưới cũ kỹ thật thảm hại!

Vị tướng vừa nghĩ tới đó thì thấy chim bay về, miệng nó ngậm một chiếc khăn màu đỏ tươi có gắn những bông hoa lan rừng thơm ngát. Thì ra con vật khôn ngoan đã ngậm chiếc khăn bay vào rừng sâu, nó đến một giòng suối hồng để giặt và nhuộm chiếc khăn thành xinh tươi như thế, nó lại hái những hoa lan cạnh bờ suối gắn lên chiếc khăn đã được nhuộm đỏ thắm. Chim bay về quàng chiếc khăn đẹp lộng lẫy lên người cô gái. Thoáng chốc, Vân đã trở thành một thiếu nữ sang trọng lộng lẫy, cô xinh tươi như một nàng tiên, với chiếc vương miện bằng lông chim trắng tinh khôi, với chiếc khăn quàng đỏ chói lọi, những bông hoa muôn màu lấp lánh tỏa hương thơm, nét mặt cô dịu hiền thùy mị, đôi mắt ngơ ngác ngây thơ, vị tướng trẻ tuổi như chết lặng trước một sắc đẹp tuyệt trần. Chàng ngập ngừng, chừng như quá xúc động:

- Thưa tiểu thư, sắc đẹp của nàng không gì sánh được, xin cho kẻ hèn này được rước về tệ xá mà tôn thờ trọn kiếp...

Chàng xúc động không nói được thêm gì nữa. Nàng cũng quá cảm động trước những đổi thay đột ngột, Nhớ đến lời mẹ bảo, Vân bằng lòng lên ngựa cho vị tướng trẻ rước về dinh. Con ngỗng trắng vỗ cánh vui mừng, ngửa cổ cất lên những tiếng kêu thánh thót như một bản đàn tuyệt diệu.

Lúc đi ngang qua ngôi vườn cũ của ông Bá ngày xưa, Vân ngỏ ý muốn vào thăm lại bà Bá và cô chị cùng cha khác mẹ. Nhưng vườn xưa đã tiêu điều, cây cối khô héo, nhà cửa đổ nát điêu tàn. Vân hỏi người xung quanh, được biết vào một đêm kia giặc cướp kéo tới đốt phá cả dinh cơ, vơ vét của cải không còn một món gì. Bà Bá bị chúng giết chết thê thảm, tất cả gia nhân đầy tớ, chúng đuổi đi hết, còn lại một mình Yến Thu yếu đuối khổ sở, sống bữa no bữa đói trong mảnh vườn tiêu điều xơ xác như một bãi tha ma. Yến Vân kể hết đầu đuôi cuộc đời nàng cho vị tướng trẻ nghe và xin đem theo chị nàng về nuôi nấng vì dù sao Yến Thu cũng là người chị cùng máu mủ với Vân. Nhất là đời Vân đã từng lầm than đau khổ nên cô cảm thông sâu xa với nỗi khổ mà chị cô đang gánh chịu. Vị tướng nghe xong càng khâm phục lòng nhân đạo và tình bao dung cao quí của Vân. Chàng cho quân sĩ tìm kiếm khắp vườn, bắt gặp Yến Thu đang nằm rên rỉ dưới gốc cây, chàng cho vực lên ngựa chở về doanh trại của chàng. Yến Thu nghe động mở mắt, thấy quan quân đông thì sợ quá, lại nom thấy vị tướng oai phong lẫm lẫm, bên cạnh là một thiếu nữ đẹp như tiên, nàng run cầm cập, lắp bắp hỏi:

- Trời, đây là đâu? Sao tôi bị bắt đi đâu thế này? Tôi có tội tình gì đâu? Lạy quan xin tha cho con khỏi tội...

Yến Vân tới bên chị mỉm cười:

- Thưa chị, em đây, Yến Vân của chị ngày xưa đây, nay em và ân nhân đây sẽ đưa chị về doanh trại của người cho chị em ta được sống gần nhau mãi, xin chị yên tâm.

Yến Thu trố mắt kinh ngạc:

- Em Yến Vân đấy ư? Làm sao em có thể trở thành cao sang lộng lẫy thế này được hở em? Ngày xưa chị đuổi em đi, em chỉ có một chiếc khăn dơ bẩn cũ kỹ thôi mà!

- Vâng, thưa chị, chiếc khăn cũ kỹ ngày xưa đã ấp ủ em những ngày đói lạnh, và nay cũng chính chiếc khăn cũ kỹ của mẹ em ngày ấy đã biến em thành lộng lẫy như hôm nay!

Yến Thu cầm tay em nghẹn ngào:

- Chị và mẹ chị thật có lỗi với em, xin em hãy tha thứ cho chị...

Yến Thu nâng chiếc khăn quàng rực rỡ của em, ngắm nhìn say sưa và nói thì thầm:

- Chiếc khăn kỳ diệu này là đúc kết của những tình cảm cao đẹp, là một đời tủi hờn và đói lạnh, nay tươi đẹp như thế chỉ một mình em mới xứng đáng được quàng vào người. Chị chúc em được hạnh phúc toàn vẹn để bù đắp những gì đau khổ mà em đã chịu từ tấm bé.

Vị tướng thúc ngựa lướt tới chỗ Yên Thu và Yến Vân đang chuyện trò hàn huyên, chàng nhìn hai chị em và nói:

- Tôi nguyện sẽ đem lại cho Yến Vân một đời hạnh phúc để đền bù những ngày lang thang cơ cực của nàng.

Đoàn người ngựa lên đường. Con ngỗng trắng vỗ cánh reo vui, gió thổi bay tung chiếc khăn quàng rực rỡ kỳ diệu theo nhịp chân ngựa vang vang trên đường.


HOÀNG HƯƠNG TRANG       

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 33 và 34, ra ngày 9 và 16-4-1972)