CHƯƠNG IX
MỒI THƠM VÀ THÚ
DỮ
Như những người ham mê thú
vui săn bắn, Đoàn Phong cùng bọn sáu người thân tín ruổi ngựa ra ngoài ải khi
họ vừa đến Nam Quan.
Gió thổi hun hút từ cửa ải
lên mạn bắc.
Thận trọng, viên chủ tướng
mở rộng tấm bản đồ mà ông đã nghiên cứu mỗi đêm đến độ gần như thuộc lòng từng
nét.
Bản đồ xưa đến hơn một trăm
năm, giấy vàng khè, nếu không được bồi lại, phất thêm một nước cậy và thếp ở
ngoài bìa một nước sơn thì đã rách nát từ lâu.
Những nét vẽ, những chữ ghi
chú còn rõ ràng. Trên thực tế, những cánh rừng, những hẻm núi vẫn không thay
đổi.
Vậy là những lời chỉ dẫn
của ông đồ làng Nhị Khê có thể được vâng theo đầy đủ.
Đây là chỗ đóng quân, đó là
nơi dành cho đối phương hạ trại. Và dọc theo những cánh rừng này là đường chạy
dài của giặc.
Đoàn Phong kết luận sau khi
giải thích từng điểm cho bốn vị “chuyên viên”:
- Đó! Thú dữ sắp đến nơi
rồi, anh trông cậy hoàn toàn vào tài đặt mồi thơm của các chú. Thắng hay bại,
sống hay chết, vinh hay nhục đều ở một trận này. Đừng để sơ xẩy nhé!
Hai anh em họ Đặng và hai
chú cháu họ Đào rủ nhau đi xem xét lại từng thế đất và bàn bạc vào chi tiết.
Những gì người xưa dặn dò trên giấy, họ đều thấy có thể làm được dưới mặt đất.
Đặng Chấn Khởi lên tiếng
trước tiên:
- Bác yên trí đi. Anh em
tôi, ai có phận nấy, sẽ lo cho bác chu đáo. Không lộ được và cũng không hư hỏng
được. Người ngoài tinh mắt đến đâu cũng không trông thấy. Và điều quan trọng là
sẽ không có chuyện cháy nửa vời như ở Thượng Phương cốc (1) ngày xưa đâu.
Em cam đoan với bác quân ta
cứ việc đi lại tự nhiên trong hầm, giặc không thể nào biết được. Trời có mưa
to, hầm cũng không ngập nước…
Đoàn Huy và Tường Vân sóng
cương cùng đi thăm thú trước hai con đường ven núi mà họ có nhiệm vụ, mỗi người
một bên, săn đuổi giặc.
Đường vắng tanh, không một
bóng người. Không cả một tiếng chim, tưởng chừng như loài này có linh tính biết
trước nơi đây không phải là chỗ an toàn trong những ngày sắp tới.
Nhưng cây rừng vẫn reo vui,
ánh nắng vẫn đổ xuống dịu dàng. Và lòng hai người trẻ tuổi tràn ngập một niềm
hạnh phúc họ chưa từng được hưởng cũng như chưa bao giờ tưởng tượng đến.
Huy rụt rè hỏi bạn đồng
hành một câu gần như vô nghĩa:
- Sau trận này, Tường Vân
có định đi đâu không?
- Em…
Buột miệng xưng em, nàng
ửng đôi má chữa thẹn:
- Tôi phải về Nhị Khê ngay.
Còn anh?
- Tôi hả? Tôi cũng về Nhị
Khê luôn, được không?
- Ai mà biết!
- Tôi sẽ xin phép thầy tôi
về thăm hai bác ít ngày.
- Phải đấy! Chúng ta sẽ…
tha hồ vui. Tha hồ chơi những trò con nít.
Mặt trời chênh chếch chiếu
hai bóng người ngựa song song. Bất giác họ cùng nhớ đến ván đáo ở đầu làng bữa
nọ. Vô tình hay hữu ý, Tường Vân đã khiến cho hai đồng tiền đứng song song sát
vào nhau ở giữa nửa hình cầu khoét trên mặt đất.
Họ cùng thích thú, cùng say
sưa trong một không khí hơi ngượng ngập.
Tường Vân nghiêng đầu hỏi
khi hai người lỏng dây cương cho ngựa đi bước bên nhau một lúc khá lâu:
- Thế bao giờ anh đinh trở
về Hồng Thị?
- À, tôi ở Nhị Khê… hầu hai
bác bao lâu cũng được. Còn chờ thầy tôi mà. Xong việc quân, thầy tôi sẽ cáo lão
về vườn y như lời chỉ dậy của bác trai. Rồi thầy tôi về Nhị Khê thăm bác. Hôm
nào thầy tôi về Hồng Thị, tôi sẽ theo về.
Đến một chỗ hơi khó đi,
đường mấp mô, dây leo chằng chịt, Huy ân cần dặn bạn:
- Hôm đánh nhau, mình đuổi
giặc về đêm Tường Vân phải cẩn thận cho lắm nhé.
- Anh đừng lo. Con ngựa của
tôi hay vô cùng. Nó khôn như người. Ban đêm, dù không có trăng, nó cũng thấy
đường. Và đường nào đã đi qua một lần là nó nhớ.
- Nhưng Tường Vân cũng đừng
theo giặc quá xa đấy.
- Vâng. Nhưng thế nào tôi
cũng tóm mấy thằng tướng Tầu cho chúng nó biết tay mới được.
Cuộc rong chơi kỳ thú của
đôi bạn trẻ kéo dài trong mấy ngày mà họ được coi là vô sự. Trong thời gian ấy,
những người còn lại trong đoàn quân phạt Bắc trần lực ra mà làm việc.
Một hệ thống đường hầm được
tạo ra dưới sự chỉ dẫn mới lạ của họ Đào. Đây là một dịp nghìn năm mới có một
lần để cho Trọng Tường cảm thấy cái nghề bậy bạ của mình thế mà cũng giúp được
cho nước nhà không ít.
Ngắm nghía công trình vén
khéo, y xoa tay đắc chí nói với cả Hoành:
- Ngày xưa, tao định truyền
nghề cho thầy mày mà ông ấy nhất định không nghe. Trong lúc say, tao có nói mấy
câu hằn học, cứ tưởng là lời nói sằng, nay ngẫm ra thấy cũng có lý.
- Chú nói sao hả chú?
- Tao cáu quá nên bảo ông
ấy thế này: Anh đừng tưởng nghề của tôi là một nghề hèn. Chả có nghề nào hèn
cả, chỉ có người mới hèn mà thôi. Ngay cả đến nghề… làm quan cũng chẳng phải là
một nghề bẩn thỉu!
Cả Hoành cười ha hả:
- Lúc bấy giờ, chắc chú say
lắm rồi phải không?
- Ừ say! Nhưng cũng còn
tỉnh chán. Tao nói thêm: Làm quan mà biết lo đến nơi đến chốn cho dân thì cũng
được người ta trọng mà gọi là cha mẹ dân, chứ đâu có xấu xa gì. Như tôi, đào
tường khoét ngạch mà không lấy của phi nghĩa thì đâu có phải là một tên ăn trộm
nhơ bẩn!
Phía kia, anh em họ Đặng
chạy đi chạy lại chỉ bảo hoặc nhúng tay vào làm cho đến khi công việc được thật
vừa ý.
Chấn Khởi cười bảo em:
- Đúng như ông cụ già xứ
Lạng đã nói, chơi cái trò này không thể nói bao nhiêu là đủ. Thực ra, bao nhiêu
cũng vừa, và giá có thêm thật nhiều nữa cũng chẳng thừa, phải không chú?
- Vâng. Em thấy như thế
này, đốt mới sướng tay. À, anh nhỉ…
- Sao?
- Tưởng tượng đến đám cháy
nay mai, em bỗng liên tưởng đến làng Cháy ở huyện mình. Em nghĩ lẩn thẩn, dễ
thường ngày xưa các cụ mình cũng phá giặc Ân bằng địa lôi cũng chưa biết chừng.
Chỗ con ngựa sắt của Đức Phù Đổng Thiên Vương thét ra lửa đến nỗi cháy hết cả
một làng biết đâu không phải là chỗ các cụ cho nổ địa lôi phục!
Đoàn Phong đã hết lo quân
Minh bất thần kéo đến khi cạm bẫy chưa giăng xong. Bây giờ lại lo chúng không
chịu tới. Miễn sao chúng đừng nấn ná đến mùa đông!
Quân do thám chạy ngựa ngày
đêm về báo:
- Chúng đã truyền hịch đi
mọi nơi, rao hễ ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung thì được thưởng cho quan tước
và hai vạn lạng bạc.
Chúng hẹn trước trong vòng
năm hôm nữa chúng sẽ vào cửa Nam Quan.
Mọi người xoa tay, khoan
khoái:
- Muốn tới à? Cứ việc!
Chúng ông đã sẵn sàng nghênh tiếp rồi đây!
__________________________
(1) Đời
Tam Quốc, Gia Cát Khổng Minh dùng mẹo đốt cha con Tư Mã ý ở Thượng Phương cốc.
Địa lôi đang nổ thì tắt vì trời đổ mưa.
CHƯƠNG X
PHÁO RỀN XỨ LẠNG
Cừu Loan nguyên là một tên
tướng vô danh bỗng dưng được phong làm Đô đốc cầm một toán quân mười vạn nên
lấy làm đắc chí.
Hiu hiu tự đắc, y tưởng đại
quân của y kéo tới đâu, người ta chỉ có việc ra hàng. Và y ngạc nhiên hết sức
khi thám tử phi báo rằng quân Nam
đang sẵn sàng chờ y ở cửa ải Nam
quan.
Xế chiều, y lẻn đi cùng với
Mao Bá Ôn và mấy tên tùy tùng, leo lên một ngọn núi xem xét địa thế.
Tên Tán lý họ Mao trỏ roi
xuống bảo tên chủ tướng:
- Bọn này cũng là những tay
khá đây. Chúng thông hiểu binh pháp nên chúng chọn được chỗ đóng trại có địa
thế tốt nhất. Trại chúng đóng cũng nghiêm chỉnh lắm.
Họ Cừu cười khẩy đáp:
- Nhưng chúng quên rằng
quân của chúng chỉ có hai nghìn. Còn quân ta thì những mười vạn. Chúng ta quơ
tay không cũng túm được chúng nó không sót một mống.
- Dù sao chúng ta cũng chớ
nên khinh địch.
- Hà hà! Để ngày mai ông
xem quân ta lập kỳ công.
Hôm sau, chúng đem quân đến
trước trại quân Nam
thách đánh.
Cửa trại đóng im lìm. Cờ xí
vẫn phất phơ bay, nhưng tuyệt nhiên trống trận không được gióng lên một tiếng.
Cừu Loan cười bảo những kẻ
đứng hầu bên:
- Ta đoán có sai đâu. Chúng
nó sợ rồi. Chậm lắm là sáng mai chúng nó phải bỏ trại mà chạy tháo lấy thân.
Ngay buổi chiều hôm ấy đã
có tin do thám về báo cáo:
- Họ đã đi rồi. Không biết
đi từ bao giờ và đi bằng cách nào mà bây giờ chỉ còn trơ một cái trại không.
Cừu Loan vỗ tay cười:
- Thì ra chúng không dám
đợi đến ngày mai! Biết mà! Chỉ nghe gió quân ta đi, chúng đã phải chạy dài. Thế
là không tốn một mũi tên, ta đã thắng được một trận. Thôi, hãy vào trại nghỉ
ngơi, khao quân một bữa cái đã! Ngày mai, sẽ tính đến ải Nam quan.
Bá Ôn rụt rè đưa ý kiến:
- Xin Đô đốc đề phòng. Tôi
sợ có mẹo lừa chăng?
Họ Cừu trấn an thuộc hạ:
- Không có đâu. Tôi biết có
lẽ chúng không hèn. Nhưng chúng yếu thế quá. Có muốn đánh cũng không lấy gì mà
đánh được nên buộc lòng chúng phải chạy.
*
Giữa giờ tuất, tướng tá
cũng như binh sĩ, quân nhà Minh đang chén chú chén anh vui say túy lúy.
Bỗng có tiếng nổ liên hồi ở
bốn phương, tám hướng. Rồi lửa cháy rần rần khắp trại, khói tỏa mù trời. Đâu
đâu cũng có lửa.
Chúng hoảng hốt tìm đường
chạy, chen lấn dầy xéo lẫn nhau chết như ngã rạ.
Như gần, như xa, trống thúc
liên hồi lẫn với tiếng quân reo, ngựa hí làm cho những tên bình tĩnh nhất cũng
phải bối rối.
Chúng đành hè nhau chạy về
trại cũ.
Chết cha! Trại cũ cũng bị
đốt rồi. Con đường cái lớn uốn mình chạy về phương Bắc đang quằn quại trong một
biển lửa. Xa xa, qua ánh sáng bập bùng, chúng thấy thấp thoáng như còn có thiên
binh vạn mã đang đón chờ những tên liều mạng nhất.
Không còn đường sống nào
khác hơn là hai con đường nhỏ lượn dọc theo hai cánh rừng bát ngát chạy dài
theo hai bên con đường cái.
Chúng đâu đã được buông
tha. Hai toán chạy tẽ ra hai ngả được nửa chừng đều được tiếp đón bằng những
tiếng địa lôi nổ long trời cắt mỗi toán ra làm nhiều khúc.
Giặc kinh hãi như phải đối
phó với một đạo quân nhà trời chỉ có lửa cháy, tiếng nổ, tiếng reo mà, ô hay!
Không thấy người ngựa sấn ra chẹn đường.
Đạo quân nhân từ của họ
Đoàn chả phải đâm chém ai cho tổn đức hiếu sinh. Hai nghìn người chia nhau đi
thu thập những xe lương và trói gô những tên giặc bị thương cũng đủ mệt.
Tù binh cháy người phỏng
mặt được lôi vào trong ải như những xâu ếch thật dài.
Đoàn Phong điểm binh thấy
thiếu mất một người: cậu Út!
- Chết rồi!
Huy hoảng hốt la lên, rồi
không đợi lệnh cha, thót lên yên bay về phía ven rừng mé tả.
- Cẩn thận nhé, con!
Đoàn Phong cũng nóng lòng
không kém cậu con trai, hét lên dặn vói theo. Trong thâm tâm, ông tiếc vì thân
làm chủ tướng không thể tự mình đi tìm con của bạn được.
Ông lo. Nếu con bé sơ xẩy
chuyện gì thì mình còn mặt mũi nào trông thấy hai bác đồ nữa.
Con trai ông còn lo hơn.
Nếu chẳng may Tường Vân có mệnh hệ nào thì đời sống của mình còn chi là sinh
thú!
Con ô truy thuộc lối cứ
chạy bừa trong khi chủ nó hú và la lên từng chập:
- Tường Vân!... Tường
Vân!...
Cô gái hiếu thắng và quá
thông minh này đã ước lượng kết quả trận hỏa công từ khi quân Tầu chưa lấy
trại. Tù binh ta sẽ có rất nhiều, nhưng chỉ toàn binh lính. Là vì khi ngọn lửa
bốc lên, lũ tướng tá có ngựa sẽ xông ra chạy trước tháo thân, mặc cho những tên
quân lết bộ tụt lại sau, những đứa khỏe đạp lên mình những đứa yếu hơn mà tìm
đường sống.
Nàng nổi hứng, thích bắt
mấy tên tướng càng có tên tuổi càng hay để cho đoàn tù binh có đủ bộ cả quân
lẫn tướng.
Tường Vân phóng ngựa đi sâu
vào đất địch và thấy ở đàng trước mặt ba tên tướng giặc cưỡi ngựa đi lạc lõng
sau đám quân thua.
Nàng tế ngựa đuổi theo.
Khi gần kịp, nàng tra gươm
vào vỏ, lấy cung ra và, trước khi buông tên, cất tiếng gọi cho chúng quay mặt
lại.
Ba tên kia hết hồn toan
phóng chạy.
Đúng lúc đó, con ngựa nàng
cưỡi khuỵu hai chân trước, hất tung nàng xuống đất. Tuy hoảng kinh quá sức,
nàng vẫn còn đủ bình tĩnh để lăn mình đi mấy vòng đến một gốc cây lớn làm điểm
tựa. Sờ đến bao tên thì ôi thôi, bao nhiêu tên ở trong bao đã rơi hết nhẵn. Cả
đến mũi tên cầm sẵn nơi tay cũng văng đâu mất.
Mặc kệ! Nàng huýt gió gọi
con vật thân yêu đang khệnh khạng đứng dậy và tiến sang bên kia đường gặm cỏ.
Nàng định chạy nhanh ra nhặt vội mấy mũi tên trước khi nhẩy phóc lên yên. Ối
chao! Một chân đã sai khớp mất rồi. Không chạy được, không đi được. Tính sao
đây?
Lục trong túi còn độc có
hai đồng tiền, nàng lấy ra hờm sẵn trong tay.
Ba tên tướng giặc mừng rơn
khi thấy đối phương thất thế. Chúng líu lo bảo nhau quay ngựa lại.
Chắc mẩm phen này lập được
chút công trong khi toàn quân thua sát ván, chúng hè nhau xông tới.
Dưới ánh trăng bàng bạc,
một vật tròn lấp lánh bay vút tới, lẹ như một vì sao đổi ngôi. Tên giặc đi đầu
đã hứng gọn đồng tiền Hồng Đức ngay giữa trán. Y la lên một tiếng thảm thiết
trước khi ngã quay xuống dưới chân ngựa.
Nghe tiếng la của đồng bọn,
tên giặc tới sau hoảng hốt nằm rạp trên mình ngựa, vừa may tránh được đồng tiền
thứ hai bay tới đánh văng chiếc mũ đâu mâu của y xuống đất.
Sợ ám khí còn bay tới nữa,
hai tên sống sót bảo nhau lùi ra xa và tìm cách hạ đối phương hiện vẫn chưa đứng
lên được.
Ngay lúc ấy, từ xa có tiếng
vó ngựa phi nhanh vọng lại. Rồi có tiếng hú. Có tiếng kêu văng vẳng: Tường Vân!
Tường Vân…
Đúng là tiếng gọi của Đoàn
Huy.
Nấp sau gốc cây, Tường Vân,
lòng mừng khấp khởi, hú lên đáp lại.
Chột dạ, hai tên giặc chia
việc thật nhanh: Mỗi tên chỉ rình nhắm bắn một bên gốc cây thôi.
Tường Vân, chân hãy còn
đau, chưa nghĩ ra cách nào lượm được một mũi tên làm vốn.
Xa xa, bóng ngựa ô sải dưới
ánh trăng gấp rút.
Nguy cơ đã tới với hai tên
tướng nhà Minh. Chúng phân công lại. Xuất kỳ bất ý, mỗi tên phải bắn hạ một
người.
Con ngựa ô tế đến mỗi lúc
một gần. Tường Vân đã trông thấy hình dáng bạn mình rạp đầu trên bờm ngựa, tay
trái hờm sẵn một cây cung.
Khi hai bên vừa thấy rõ mặt
nhau thì “tách” một tiếng, ba cây cung cùng bật.
Một tiếng rú vang lên, một
tên giặc ngã quay xuống đất với một mũi tên cắm ngay giữa mặt. Đoàn Huy bắn
nhanh và mạnh hơn y.
Và cũng nhanh hơn y, Huy đã
nghiêng đầu tránh được mũi tên của địch.
Nhanh trí và nhanh tay
không kém, Tường Vân nghiêng mình bắt gọn mũi tên bắn sát mặt nàng và, trong
chớp mắt, nàng bắn trả về cho chủ nó.
Khi gã này gục xuống với
mũi tên cắm ngập nơi vai, y không ngờ bị hạ bởi mũi tên của chính mình.
Thấy bạn vẫn ngồi bệt dưới
gốc cây, Huy hoảng hốt:
- Tường Vân có sao không?
- Không sao cả. Chỉ trật
khớp xương tí tẹo thôi.
Quỳ xuống đất, Huy nâng niu
bàn chân ngọc trước khi thình lình nắn lại khớp xương.
- Rồi!
- Cảm ơn anh!
Nàng đứng dậy, ửng hồng đôi
má. Nhưng nàng vẫn không quên nhắc:
- Bắt sống được có mỗi một
tên. Chả biết thằng này làm đến chức gì mà bắn quá dở. A, còn ba con ngựa nữa,
bỏ uổng! Anh Huy lo thu thập tên tù binh giùm tôi nhé.
*
Đoàn quân rầm rộ trở về
xuôi với số tù binh đông hơn số người chiến thắng. Đâu đâu họ cũng được tiếp
đón như những vị anh hùng.
Cụ già xứ Lạng cười khoái
trá, nhe hai hàng lợi đỏ hồng:
- Lão thức suốt đêm, lắng
nghe tiếng nổ ran ngoài quan ải. Y như tiếng pháo Tết âm vang rền xứ Lạng. Tảng
sáng hôm sau lão đã mạn phép uống mấy chén rượu mừng với mấy ông bạn già trong
xóm.
Huy nhắc cha khi đoàn quân
về đến địa phận Bắc Giang:
- Bác đồ dặn thầy thành
công rồi thì phải rút lui ngay.
- Thầy nhớ rồi. Giao trả
quân xong, thầy sẽ cáo lão về vườn lập tức.
- Thưa thầy, Tường Vân xin
về trước kẻo hai bác mong. Thầy cho con về thăm hai bác luôn thể.
- Ừ. Rồi thầy cũng về thăm
hai bác. Ở chơi mấy hôm, cha con mình cùng về quê luôn thể.
Trên đường về, đôi bạn trẻ
buông lỏng tay cương giữa những phong cảnh họ thấy đẹp như gấm vóc.
Tường Vân cắc cớ hỏi bạn:
- Về quê tôi, anh thích làm
gì trước nhất?
- Việc thứ nhất ấy à? Tôi
xin bái yết đền thờ Đức Khai Quốc và chiêm ngưỡng thần tượng của Ngài. À, Tường
Vân nhỉ, không phải ngày giỗ của Ngài, vào lễ có được không?
- Được chứ. Ông từ giữ đền
là ông chú của tôi mà. Vào lễ lúc nào cũng được.
- Nghe nói tại chính điện,
có tượng mấy tên tướng Tầu quỳ ở ngay thềm. Giống như tượng Tần Cối quỳ trong
đền thờ Nhạc Phi. Có phải vậy không?
- Đúng đấy. Nhưng khác có
một điều là người ta chỉ lấy tay đập khẽ vào đầu mấy pho tượng đá ấy mà cười
chơi, chứ chả ai thèm đánh bằng dùi sắt như người Tầu đánh vào đầu tên Tần Cối.
Huy thích chí cười vang:
- Thú nhỉ!
Tường Vân hỏi tiếp:
- Còn việc thứ hai?
- Việc thứ hai là tôi sẽ
xin làm học trò Tường Vân về môn thổi sáo.
Cô gái cười chúm chím, đôi
má hây hây.
- Chi vậy?
- Để sau này về quê, khi
nào Hồng Thị nhớ Nhị Khê, tôi sẽ gửi lòng theo tiếng sáo.
Bữa nọ được nghe Tường Vân
thổi sáo, tôi say mê tiếng trúc tuyệt vời của Tường Vân.
Trên trời, mấy cụm mây
trắng bay lơ lửng. Vi vu, có tiếng sáo diều.
Thoắt gần, thoắt xa, tiếng
sáo có lúc như vương vấn trong mây, có lúc lâng lâng, thanh thoát.
CHÂN
PHƯƠNG
22-9-1973