Chuyện
đời hay xảy ra bất ngờ. Một khi cây lá xinh tươi, xanh màu rực rỡ thì các cậu
bé loài người chú ý đến chúng tôi. Các cậu dùng dao nhỏ cắt gọn mớ rau lang về
cho thỏ, cho bọ ăn. Ngày nào lại thiếu được tiếng khóc than của chúng tôi hòa
với tiếng gió vô tư, tiếng mưa vô tình…
Lại
loi choi kéo đến thêm một tốp “du thủ, du thực” là tụi cào cào, châu chấu, bọ
ngựa. Chúng tự nhiên coi khu vực chúng tôi như sân thể thao để thi chạy, thi
nhảy cao. Hăng máu, chúng chơi xấu choảng cả nhau. Đói khát chúng cứ việc giải
lao, gậm nhấm bất cứ chúng tôi, loại nào mà chúng thích. Quần áo, thân thể
chúng tôi vì thế rách tả tơi, họ hàng héo chết dần dần. Ngày qua, tụi dế báo
động và la làng, không rõ cớ gì tụi bé con mất tích. Chúng nghi lũ cào cào,
châu chấu, bọ ngựa… hay là dế nhũi, hay mấy thằng nhái mồ côi? Các chú nhái
thật là “oan ôi ông địa”. Các chú chỉ xơi được ruồi, muỗi vì các chú còn bé quá
cơ mà. Còn hai chàng dế nhũi cứ lủi xuống đất hút nhựa của rễ cây me không thể
là thủ phạm được. Lũ “du thủ, du thực” bấm nhau cười khúc khích. Chúng chứng
kiến các nhãi dế ốc tiêu bị các chú bé con chộp vào hộp cả rồi. Còn tụi chúng
thân mình tiệp màu cỏ lá nên thoát nạn. Chúng bảo nhau không thèm làm chứng mặc
cho mọi loài nghi ngờ hiểu lầm nhau. Các mụ dế hằm hè đòi đi kiện cho ra lẽ.
Các cô kiến mới can, thôi đừng kiện cáo mất công tốn tiền bạc, mất ngày giờ và
chả ích lợi gì. Các cậu ấy còn trẻ dại, chắc hẳn nghe lời ai đi giang hồ… mai
mốt về lại chứ gì. Mọi người lại được rũ ra cười vì cái ngu của kiến và dế,
trong khi các mụ dế quay vào hang réo tên lũ con mà chửi với nỗi bực tức. Tai
họa chưa hết xảy ra, các chú nhái còn khờ dại lại bị tóm cổ, các cậu bé loài
người đem về móc mồi câu cá chắc? Thôi rồi, còn đâu những người bạn tốt vẫn
thường ao ước có được đôi mắt màu tím tròn vo như anh em mồng tơi chúng tôi. Lũ
dế hí hửng ra mặt. Chúng kháo nhau : “Trời có mắt”. Và những ngày kế tiếp đến
phiên chúng phải khóc, vừa lệ rơi vừa bồng bế dắt dìu nhau di cư. Những nhà
cửa, hang hốc của chúng dù khéo đào theo nguyên tắc bình thông nhau vẫn bị ngập
lụt, nhiều ngách cách mấy vẫn bị thọc cầy, móc phá của các cậu bé săn dế. Không
khí lo sợ cái chết bao trùm lấy các loài thảo mộc chúng tôi. Hai anh dế nhũi
trốn sâu kẹt rễ me thì thoát được, ban đêm mới dám chui lên. Hai anh dùng đôi
càng trước quắp chặt thân gốc me sù sì, run rẩy thoát xác cho lẹ. Mệt và khổ
nhưng mai ngày hai anh sẽ thực sự tự do. Hai chú ve non buồn bã nhìn quang cảnh
tiêu điều hơn cả những ngày chưa mưa. Các chú nhái đâu còn để hai chú ve làm
tròn lời hứa. Tuy trời chưa sáng rõ, cánh hãy còn ẩm, vỗ được chập chững, các
chú vội từ giã chúng tôi bay vút lên ngọn me già. Những lời từ giã đó chính
thật là lần cuối, làm sao đến trưa chúng tôi có thể nghe được cung buồn của các
chú ve khi đôi cánh các chú khô cứng lại. Vì lúc nắng lên anh em chúng tôi bị
các cậu bé hái đi rồi. Cha mẹ chúng tôi chịu đựng hết nổi cũng lịm chết dần
theo sự đau đớn của ngày qua từ giây phút đó. Tôi và ba đứa em được chừa lại.
Còn tất cả mấy chục đứa khác bị bóp nát, máu của chúng hòa với nước loang ra,
loang đậm một màu tím u buồn, để làm mực viết lên những giòng tâm tư bất hạnh…
Tôi
bị chôn cẩn thận, thật khó chịu, từ bé đến giờ tôi có khi nào sống trong tù
túng thế này đâu. Tôi khóc hết nước mắt, bực bội tung cái vỏ áo tím, tôi biến
thể và nhú mầm non xanh lên. Tôi khoan khoái khi tự giải thoát khỏi nhà tù đất
ẩm. Tôi cố vươn nhanh kiếp sống mới như kiếp sống của cha mẹ tôi xưa. Ngày hôm
sau tôi bắt gặp ba đứa em tôi từ ba góc của giàn tre ngượng nghịu ló đầu lên.
Bỡ ngỡ đã qua, chúng tôi mừng rỡ nhận nhau vì hình thức sợi dây lá mới mẻ này.
Nhưng chúng tôi chỉ đành đứng bốn góc giàn tre nhìn nhau, uốn éo hai mầm lá non
chào nhau thôi, làm sao “tay bắt mặt mừng” cho được một khi cái đuôi bị giữ
chặt với phần vỏ ngày trước. Muốn thoát đi cũng không được vì làm sao mọc rễ để
tự sinh sống lấy đây. Chúng tôi bất lực nhìn nhau. Tuy mỗi đứa cách nhau chừng
một thước hai mà sao xa tầm với của nhau quá vậy nhỉ. Nhưng chúng tôi cũng tự
an ủi là đã thoát được cái chết u buồn, lại còn hân hạnh tiếp sống cho nòi
giống mồng tơi. Chúng tôi hẹn nhau, thi nhau ăn nhiều, lớn nhanh, bò giỏi… để
lên giàn cao sẽ dễ dàng họp mặt. Ngày lại ngày chúng tôi kiên nhẫn đợi chờ giây
phút thật sự “Đoàn tụ một nhà”. Cậu
bé vẫn chăm sóc giàn mồng tơi của cậu. Cậu chịu khó xới đất cho xốp quanh rễ
chúng tôi. Cậu xới thật khéo sợ động đậy làm đứt rễ chúng tôi chăng. Giúp việc
đắc lực nhất cho chúng tôi phải kể bao nhiêu là bác trùn đất hùng hục, âm thầm
cày bừa dưới mặt đất. Chúng tôi rất thuận tiện trong việc rút chất bổ dưỡng,
nên vươn dài, mới có một tuần mà đã được nửa thước bề cao, còn một thước nữa
mới đến nóc giàn. Lá mọc ngang hông của chúng tôi vẫn còn xanh, chưa có lá nào
màu tím. Tụi lá cứ thích nhún nhẩy thì thôi. Chúng đòi tôi phải chiều ý chúng
bò ngoằn ngoèo theo kiểu xoáy trôn ốc quanh nửa vạt tre khẳng khiu này, để
chúng tôi có thể xoay mình tứ phía nhìn ngắm xung quanh vạn vật. Tôi cũng được
dịp quan sát khu vườn trú ngụ bấy lâu bởi bầy con hiếu kỳ này. Phải gọi đây là
một mảnh đất vá nho nhỏ đủ trồng rau trái vặt vãnh. Cậu bé phải kỳ kèo lắm mới
được mẹ cho một khoảng thước vuông làm giàn để chúng tôi leo. Trong vườn có vài
bụi hành, vài bụi sả, đủ các loại rau ăn sống trừ rau muống. Vài cây hoa mười
giờ, móng tay, một khóm dạ lan hương ban đêm tỏa mùi ngào ngạt. Hàng xóm của
chúng tôi đấy. Họ im lặng và thản nhiên chấp nhận sự có mặt của dân mới như bốn
anh em chúng tôi, như đã từng chấp nhận phải sống và sinh sôi nuôi dưỡng loài
người. À quên, còn một cụ xoài nghe nói đã ba tuổi trời rồi đấy nhưng vẫn không
hoa trái gì, có lẽ đất ở đây thiếu phân bón thích hợp. Thêm hai chàng đu đủ nữa
cao gần bằng cụ xoài dù mới hơn một tuổi thôi, sinh trái một lần rồi thì phải.
Nhướng mắt nhìn lên chúng tôi lại thoáng thấy có hoa đu đủ trăng trắng ở gần
đọt.
Một
hôm, có vài bé gà đi lạc. Chúng còn bé mà bươi móc cứ nhặng xị cả lên, mổ rau
càng cua này, mổ vài quả ớt rồi rùng mình chạy đến ria ria các bé lá con tôi.
Các bé lá khóc thét lên vì sợ hãi.
Thời
may cậu bé đi tìm gà con rượt các bé gà đem về trả cho mẹ chúng. Hú vía! Không
khéo thì đã mang vạ bởi cái lũ dại dột này rồi. Hai tuần hơn thì phải, tôi sắp
với tay đến mắt tra cuối cùng. Nhìn qua các em tôi, chúng cũng toát mồ hôi vì
gian lao nhưng trong lòng ai cũng vui vì mục đích sắp đạt được. Cậu bé hằng
ngày vẫn siêng năng tưới nước đều đặn cho vườn rau xinh xắn của mình. Cậu nưng niu các bé lá mồng tơi hỏi đùa
xem chừng nào có hoa có hột đây. Các bé lá vừa sợ vừa run rẩy không biết trốn
đâu. Xem chừng cậu thiên vị bốn anh em chúng tôi và cụ xoài già. Nhưng đã bảo “cụ xoài” chứ có
phải “bà xoài” đâu mà sinh con đẻ cái được, cụ xoài vẫn thường rầu rĩ than van
phận mình. Còn chúng tôi thì trái lại, “dễ ăn, dễ nuôi” nên lớn nhanh theo giàn
tre không thể tưởng được. Các hàng xóm rau càng cua, rau húng, lá quế, ngò gai,
dấp cá, rau dền, rau lang, cần tàu, cần ta, hành, sả… rất ganh ngầm với bốn anh
em chúng tôi vì không có tài leo trèo, quấn quít… mà vươn cao với đời.
Các
bé lá đã bắt đầu sinh sự với nhau, chúng ngạc nhiên với các nụ hoa mới, mấy đứa
con cưng của chúng tôi đấy.
Vì
chúng mải hí hửng mời gọi các thợ ong xuống chơi, các thợ ong vẫn thản nhiên
bay trên cao. Nay có các bé nụ, rồi hoa, các thợ ong lại xuống làm quen, chúng
không ghen tị sao được. Xấu xí như chúng chỉ có lũ bướm ngày ghé tạm, nhưng chỉ
để dùng chân nghỉ đôi cánh mỏi bởi đường xa. Tôi phải dùng bao lời khuyên ngọt
ngào mãi chúng mới tạm vừa lòng. Lại thêm một sự rắc rối khi các bé lá với cái
áo tím xinh đẹp lộ diện. Các lá lớn càu nhàu, vô duyên càng vô duyên hơn. Chứ
ngày xưa ai đã nuông chìu chúng? Cái tụi này sống ở đây xem chừng không xong,
chưa gì đã tiêm nhiễm tính tình ích kỷ sống cho riêng mình. Đâu có được như hoàn
cảnh sống của chúng tôi ngoài thiên nhiên thuở ấy, vì nơi đây “nhà ai nấy ở”
không ai giao thiệp với ai. Tất cả mọi người đều âu lo kiếm sống, hăng hái sinh
sôi nảy nở, càng tăng trưởng tốt tươi càng sớm vào nhà bếp của chủ nhà. Nhưng
đã vương mang kiếp đời như vậy, biết sao hơn, cứ cặm cụi hút chất đạm, hút thán
khí rồi cứ thầm cầu nguyện còn sống sót. Nếu bị cắt một phần thân thể vẫn phải
chấp nhận, không biết thâm tâm buồn hay vui để rồi lại sống đó chờ ngày bị cắt
bớt… dùng bữa dần cho các món rau đầy sinh tố.
Này
các con ơi! (Lá tử diệp xanh, tử diệp tím, nụ xanh, hoa trắng, hạt xanh, hạt
tím…) Các con đừng gây gổ với nhau nữa, các con cùng bố mẹ sinh ra cả mà, sao
lại không ý thức như vậy hỡi các bé thơ dại? Anh em một nhà mà ghét bỏ nhau như
bầu với bí sao đành? Làm cách nào các dây mồng tơi chúng tôi trở về nguyên quán
vui đời mộc mạc không nhiễm “xa hoa phù phiếm” của chốn “tù túng cám dỗ” làm hư
tính thiện muôn loài. Chẳng thà làm “hoa hèn cỏ dại” bò vơ vẩn dưới đất, chứ
vui chi cái đời “lầu cao, cửa rộng” mà chỉ có thể quanh quẩn trong một phạm vi
giới hạn bắt buộc này. Rồi thấm thía nỗi lòng đấng sinh thành, các bé con đã hết xa lạ với nhau. Chúng đã biết
tuần tự giúp đỡ lẫn nhau. Các lá lớn
nhường chất bổ cho các lá vừa vừa, các lá vừa vừa nhường cho các lá bé, các lá
bé nhường cho các lá non mới ở tận đầu dây cứ mãi phiêu lưu. Tôi sung sướng cảm
thấy chúng ríu rít chuyền lưu nhựa sống trên ống dây thân mình căng tràn và dài
gần hai thước rồi. Các lá lớn gần gốc rễ vui lòng ăn uống sau cùng, nhường cái
ngon cho các em còn yếu đuối và ở tận ngọn xa xôi. Nếu không vì quấn xoắn thân
tre chìu ý các con, một phần để tơ các rễ phụ ra bám cho chặt, bốn anh em chúng
tôi đã gặp gỡ nhau lâu rồi. Hơn hai tháng dài trôi mau như các đám mây chuyên
chở nước mưa trên trời chớ ít ỏi gì. Bốn anh em chúng tôi lại như trò chơi “năm
mười” ló mặt tận ngọn nhìn nhau khuyến khích. Bấy lâu nay chúng tôi chỉ thấy
phần thân, phần bụng dẫy đầy con cái đang cõng trên lưng mà thôi. Chúng tôi
quên bao nhọc mệt cố rút chất đạm đêm ngày, giá mà còn các bác trùn đất nhỉ.
Tiếc thay, cậu bé chủ nhà lại không hiểu công dụng của các bác trùn đất, cậu
đào xới lên bắt gặp là cho vào lon thiếc ngay. Trong đầu cậu nghĩ rằng, một
công mà hai việc : Một là trùn không thể “ăn phá rễ rau”, hai là móc trùn vào
lưỡi câu… thật tiện. Còn thán khí, các chàng đu đủ, cụ xoài với các tàn lá mạnh
mẽ che trên đầu chúng tôi đã hút chận mất nhiều rồi. Cuộc sống bây giờ lại đèo
bòng con cái nên khó khăn chật vật lắm thay. Bởi vậy ngày gặp mặt của anh em chúng
tôi còn phải chờ gần tháng nữa mới chạm tay nhau. Ôi! Nói sao cho hết nỗi vui
mừng. Anh em chúng tôi gặp nhau mừng mừng tủi tủi kể lể hàn huyên, có lúc lại
khóc vì sung sướng làm lũ con đông đúc ngơ ngác không rõ chuyện gì xảy ra cho
các đấng sinh thành. Có lẽ các em tôi cũng đã giải quyết các vấn đề xích mích
giữa các bé bên ấy. Bây giờ nom bọn trẻ vui vẻ và hòa thuận nhau lắm. Chúng đã
hiểu biết mối liên hệ bà con với nhau rồi và thân ái chơi cùng nhau, giỡn cùng
nhau. Mối liên quan mật thiết của bà con nơi xứ lạ quê người bây giờ càng trở
nên chặt chẽ và bền vững hơn theo mạch sống của bốn dây mồng tơi chính yếu càng
ngày càng quấn quít vươn xa, vươn dài ra… Mà không chặt chẽ sao được, rối nùi
nữa là khác, bởi các bé con rượt bắt nhau qua các ô, luồn lỏi thật hóc hiểm
khiến chúng tôi càng gần gũi và dễ an ủi nhau hơn. Kệ, vậy càng vui chứ sao!
Chúng tôi thảnh thơi và an lòng với cuộc sắp đặt của tạo hóa. Đại gia đình
chúng tôi bây giờ rậm rạp và đầy dẫy cả hai mươi bốn ô giàn tre mỏng bắc ngang
giàn chính. Hằng ngày chúng tôi đón nhận bao buồn vui, bao chuyện lạ xảy ra mãi.
Chúng tôi rất hoan nghênh các cánh bướm, cánh ong vừa ghé trò chuyện vừa đem
phấn nụ này bôi vào núm nhị cái của hoa khác làm cho các con chúng tôi mau lớn.
Và trái lại rất ghét bọn cào cào, châu chấu, bọ ngựa… May thay mấy tên vô trật
tự này chỉ thỉnh thoảng đi lạc vài tên, chúng thích võ trường gập ghềnh dưới
đất hơn trên sàn tre. Cái bọn bất tài làm gì dám choảng nhau trên võ đài cao
này, có mà sơ ý rơi gãy cẳng, lọi cổ ra. Lâu lâu lại có mấy trự bọ hung, bọ rầy
hôi hám đến thăm dò, đôi mắt lộ ra ngầu vẻ bất lương. Đại gia đình chúng tôi
chịu lép xuống nước “mời các bạn làm ơn đi chỗ khác, các bé nó sợ…” Mấy trự ậm
ừ rồi vù ngay xuống các đống phân (khủng khiếp). À, lại còn mấy ranh vịt con
nữa chứ, các ranh vịt này háu ăn và rỉa rói thật hỗn tạp, thứ gì cũng đưa mỏ
táp sòng sọc. Cậu bé chủ nhà lại bị mẹ cậu mắng cho một trận, bạ thứ gì cũng
trồng, bạ thứ gì cũng nuôi, trồng và nuôi đều không coi chừng, gà vịt thì đi
bậy, phá hết rau cải… Cậu bé tức mình vác chổi rượt mấy con ranh vịt ngu si,
bắt nhốt kỹ vào chuồng. Nếu cậu không chăm vạch lá bắt sâu cho thì thiệt hại
cho gia đình chúng tôi không nhỏ. Số là các chị bướm quá nặng bụng đã để lại vô
số trứng sâu với chất nhựa thật dính trên thân hình các bé lá. Các bé lá thật
vô tư không một cảm giác nặng nề mà còn thích thú với các đốm trăng trắng. Cho
đến khi cậu bé phát giác thì chúng đã phát triển thành sâu con. Vì môi trường
của chúng là ở các lá cải, nên ở đây chúng miễn cưỡng gậm lưng uể oải, sức tàn
phá không nhanh tí nào. Cậu bé hốt hoảng tận diệt các sâu phá hoại này, bóp
chết và cho vịt ăn ngay. Nhưng xui xẻo cho chú nhện vườn đang giăng lưới rộng
bên dưới giàn, cậu bực tức quét sạch luôn. Cậu dọn sạch chỗ chơi nhà chòi, dạy các
em học i… tờ. Cũng nhờ ý định đó mà cậu đã ngăn mẹ cậu không để bà cắt các lá
mồng tơi ngon đem nấu canh. Bà chiều con luộc tạm rau lang, rau dền vậy.
Tai
họa chưa chịu buông tha đại gia đình chúng tôi. Ngày hôm sau chưa có trận mưa
nào vừa có gió to vừa có hạt lớn đến như vậy. Từ bốn tháng nay chúng tôi mong
những giọt mưa rơi nhẹ mát và ướt rượt bao nhiêu, thì nay chúng tôi kinh hoàng
bấy nhiêu. Nếu để chúng tôi “kém văn minh” như xưa, nghĩa là bò ngông nghênh
dưới đất không giàn chống thì đỡ cho chúng tôi biết mấy. Chúng tôi sẽ xuôi theo
gió cho dù gió có thổi mọi chiều vẫn sẽ không làm gì được cái “nhu” mềm, mà oặt
oại của chúng tôi. Cả đến các hàng xóm của tôi dù um tùm và cứng cáp cách mấy
cũng phải rên la trước nguy cơ bất ngờ. Họ không sao tránh khỏi những lằn nước
phũ phàng như những ngọn roi quật xuống lá cành đau điếng. Cụ xoài ốm nhách gân
guốc lắm mà còn run cầm cập. Mấy hoa đu đủ, hoa dạ lý, hoa móng tay, hoa mồng
tơi… ngơ ngẩn rụng lả tả. cành lá nào bám thiếu sức đều rơi tàn nhẫn. Số phận của
đại gia đình chúng tôi là bi đát hơn hết. Giàn tre xinh xắn nhưng mỏng manh của
cậu bé thực hiện cũng yếu ớt nốt, chống không nổi gió bão. Cậu bé thì không ra
khỏi nhà được lúc ấy, chúng tôi phải đoàn kết lại để tự cứu chúng tôi. Chúng
tôi nắm chặt tay nhau, can đảm quyết không sờn với gió thét trời gầm, dẻo dai
và đan chặt như một màng lưới, đại gia đình chúng tôi nguyện bền vững, “sống
chết có nhau”. Nhưng sức trời đã thắng, một luồng gió xoáy thổi thốc nhanh giựt
phăng bốn cái chân giàn tre. Chỉ có làm hại được chừng ấy, chúng tôi đau đớn
ngã rạp xuống bãi rau lang, rau dền với nụ cười khô héo, bốn anh em chúng tôi
đã sắp lìa khỏi cuộc đời, với mớ rễ còn chằng chịt ăn sâu vào lòng đất lạ. Lũ
con cháu lặng người trước tóc tang, hàng xóm rau cải ngậm ngùi sụt sùi, không
rõ họ khóc than vờ hay đau đớn trước sự đè bẹp bất đắc dĩ của đại gia đình
chúng tôi làm họ gãy rạp cả đi…
“Sau
cơn mưa trời lại sáng”. Câu đó không đúng với chuyện buồn của chúng tôi chút
nào. Tưởng mong chết về “nơi chôn nhau cắt rún” dè đâu sắp gửi thân “nơi đất
khách quê người” mà chưa giúp ích gì cho ai cả, thật tủi hổ lắm thay! Sáng qua
chính cậu bé là người khổ tâm hơn tất cả, thêm phiền não khi mẹ trách : “Phải
hôm qua để mẹ hái nấu canh cho xong, bây giờ dập nát hết có nước cho vịt ăn”.
Thôi rồi số phận chúng tôi đành kết thúc vô lý vậy sao? Lũ ranh vịt ngày xưa
chắc đã lớn và ăn khỏe, chúng không tha đại gia đình chúng tôi một cái rễ con,
một cái hạt bé nào… Than ôi! Cậu bé vừa dọn dẹp vừa khóc tỉ tê nghe buồn thêm.
Mẹ cậu phải an ủi : “Có nín không? Để ba mày về tao nói ổng đóng giùm cái giàn
khác thiệt chắc chắn, bày chuyện quá xá…” Cậu bé đã ngưng sầu, nhặt thật kỹ
những hạt tím, hạt xanh. Cậu tiêng tiếc khi phải vất chúng tôi vào chuồng vịt,
bao công lao gây dựng chăm sóc gần nửa năm trời lo âu theo từng thời tiết, biết
lúc nào mới có được tình trạng như xưa : xanh tươi, đẹp đẽ, mát mắt, ưa nhìn…
(?)
Chúng
tôi lịm dần dần trong bao nỗi niềm phức tạp. Dây và lá như chúng tôi vào miệng
người hay vật cũng vậy mà thôi. Đó là luật trường tồn, hòa hợp, thích nghi cho
mọi loài trên quả đất này mà. Chỉ xót thương lũ con cháu từ đây sẽ ra đời một
mình, chịu bao gian lao khó nhọc, nối tiếp hoài cái chu trình luẩn quẩn của
loại mồng tơi. Trước phút lâm chung, chúng tôi mong sao con cháu sẽ thích ứng
với đời mới (chúng quen sống tù túng rồi). Chúng tôi làm tròn phận sự, bò
nhanh, giỡn vui quanh giàn chống bằng cây tràm cứng chắc, và chiều cao cái giàn
sẽ thấp hơn cho chúng bớt phí sức. Chúng sẽ sinh sôi nảy nở nhanh chóng hơn
chúng tôi để mau làm vòm chòi mát rượi bóng râm cho các em bé nhỏ loài người
chơi trò dạy học, lấy mực làm bằng chính máu tím các hạt mồng tơi chúng tôi… Đó
là một phần nào ý niệm nhỏ nhoi và nên thơ mà chúng tôi đã tìm tòi mãi mới nghĩ
ra chúng tôi có phần nào ích lợi, ngoài việc bị dùng để nấu nồi canh ngọt lịm…
Vĩnh biệt tất cả…
Đó
là chấm dứt một quãng đời ngắn ngủi, tuy giới hạn nhưng vẫn âm thầm hoạt động
của một giàn mồng tơi. Đó là khi qua cơn bão cậu bé vâng lời mẹ, do dự ném giàn
mồng tơi đã rút hết các sườn tre gãy vào chuồng vịt. Đó là khi một giàn mồng
tơi khác sắp sửa đi vào chu kỳ tuần hoàn của cha mẹ chúng… Và còn khi nào chúng
ta sẽ nhìn các cậu bé viết trên tập những hàng chữ vụng về bằng mực tím mồng
tơi, trong khung cảnh mộc mạc quê nghèo ấy??? Thời gian sẽ trả lời câu hỏi đó…
PHAN
KHƯƠNG THÁI
(Thương
về xứ Mỹ)
(Trích
tuần báo Thiếu Nhi số 60, ra ngày 15-10-1972)