Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017

NGÀY QUA (II) - Minh Quân


Bảy giờ tối, cái xe cà tàng chở trầu mới về đến Phan Thiết. Tuy đói meo, nhưng xuống xe xong hai người về nhà trọ rửa mặt qua loa, thay quần áo rồi hộc tốc lên xích lô đến nhà thầy. Thông cảm cho sự nóng lòng của Tâm, Hà không phàn nàn gì cả, vẫn giữ vẻ tươi tỉnh để bạn vui lòng. Phần Tâm, rất cảm ơn Hà, nhưng không thốt được một lời vì tâm trí vẫn bị chi phối vẩn vơ. Trống ngực Tâm đập liên hồi khi bước xuống xe.

Và rồi, trời ơi! Tâm nhận ra ngay thầy mình đang ngồi trên cái phản gỗ kê ở góc nhà. Vẫn khuôn mặt phúc hậu ấy, vầng trán phẳng và cao ấy, đôi tai hơi to khác thường ấy, chỉ có đôi mắt thầy không được tinh anh như trước. Thầy mặc bộ bà ba trắng, chớ không phải áo dài xuyến đen mông mốc, dưới chân thầy là đôi dép nhựa chớ không phải đôi guốc gỗ mòn vẹt như lúc đó đến nỗi có người vẫn giễu là có thể dùng đánh vẩy cá.

Ngần ấy năm xa cách, Tâm vẫn nhận ra thầy trong phút đầu tiên gặp lại. Thầy lên tiếng trước:

- Hai cô hỏi nhà ai?

Cô bạn thấy Tâm lúng túng, đứng lặng, liền đỡ lời:

- Thưa thầy, chúng con tìm nhà thầy. Thưa, thầy có phải là thầy Th.?

- Đúng, tôi là thầy Th. Đây. Mà hai cô là ai?

Cô bạn đẩy Tâm đến trước và giục nho nhỏ : “Nói lên đi chớ, hay chưa!”. Tâm vẫn bàng hoàng, đứng lặng, nghẹn cả thở, cả lời. Cô bạn phải nói thay:

- Thưa thầy, bạn con là học trò cũ của thầy, đến thăm thầy!

- Học trò cũ, tội chưa! Còn nhớ thầy à? Thầy đã về hưu mấy chục năm mà còn nhớ! Học năm nào?

Đã lấy lại bình tĩnh, Tâm trả lời:

- Thưa thầy, con học thầy năm 1936, ở trường Khánh Thiện… Mũi Né!

- Thiệt thầy không nhớ… Lâu quá rồi… Tên con là…? Học trò đông…

- Dạ, con là L. (thấy thầy vẫn chưa nhớ ra, Tâm tiếp) Dạ, con là Công Tằng Tôn Nữ thị…

Thầy “a!” lên một tiếng rồi một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt già nua của thầy và đôi mắt thầy chợt lóe sáng lên:

- Thôi! Khỏi nhắc! Thầy đã nhớ ra rồi! Con là đứa bị trêu chọc vì cái họ dài ngoằng và cũng là đứa kiêu ngạo nhất, thông minh nhưng nhác học. Đúng chưa nào?

Tâm cúi đầu, không nói nên lời. Mắt Tâm nhòe đi nhưng tai vẫn vọng lại tiếng nói thầy:

- Sao con biết thầy ở đây mà tìm đến, ai chỉ cho con?

- Dạ, chị Kính đó, thưa thầy – cô bạn Tâm lại nói thay:

- À, đó cũng là một học trò giỏi, giỏi toán. Vậy ra con đã cất công ra tận Mũi Né tìm thầy?

- Dạ, đúng vậy đó, thưa thầy! Và chị ấy sốt ruột, không chịu đợi đến mai nên trở về ngay trưa nay. Dạ, xe vừa mới đến là chúng con…

Như được bạn tiếp sức, Tâm trở nên hoạt bát hẳn:

- Thưa thầy, con nghe thầy Hiệu trưởng về Huế, thầy Đ. cũng đã mất, còn thầy… nhưng con lo quá, chỉ sợ… vì Kính gặp thầy cũng đã lâu…

Bây giờ thì Tâm lại nghẹn nữa. Tâm lặng im. Không còn nhớ hai người ngồi xuống từ lúc nào. Tâm chếnh choáng, nhẹ hẫng, đắm mình trong một cảm xúc phơi phới, lâng lâng, rất diệu kỳ, khó tả. Cô cũng vừa từ nhà trong bước ra, ngồi cạnh chồng. Cô thay chồng lần lượt hỏi  đến gia đình, con cái, chức nghiệp… nhất nhất đều được Hà thay Tâm trả lời tỉ mỉ.

Còn Tâm cứ im lặng để tận hưởng cái cảm giác tuyệt vời hiếm có trong đời mình. Tâm như mê đi, như sống lại thời thơ ấu cũ, thời ao ước sẽ trở nên vị tướng như tướng Carnot, sống lại cái mộng trẻ con của thời lên bảy! Không có ngựa lông trắng tuyết, không binh phục đỏ ráng pha, không có đoàn tùy tùng… Tâm đã đi những chiếc xe đò xộc xệch, xóc nẩy tung người lên, nhưng may thay : có cô bạn trẻ rất tế nhị, rất cảm thông tấm lòng của đứa học trò về thăm thầy cũ. Cô luôn luôn bên cạnh giúp Tâm đủ kiên nhẫn, vững lòng. Chợt Tâm sực nhớ mình đã đến với hai tay không thì cũng đúng lúc Hà cho tay vào giỏ xách, lôi ra một gói bọc ni lông có hai hộp trái vải trong đó, đặt lên bàn. Tâm chỉ biết đưa mắt thầm cảm ơn Hà.

- Các con đến thăm thầy cô mừng lắm, quý lắm rồi, mua sắm làm chi tốn kém? – Cô nói.

Tâm tự hỏi thầm, phải chăng thầy cũng xúc động như Tâm nên không nói được thành lời ý nghĩ của mình?

Thầy không nói, nhưng thầy ghi lại tất cả những lời của bạn Tâm và của cô trò chuyện.

Một giờ trôi qua, mà sao Tâm thấy nó như tia chớp. Bạn Tâm nhìn đồng hồ sau khi nó ngân lên tám tiếng. Tâm đứng lên chào thầy cô. Thầy cô đưa hai người ra tận cửa. Với giọng trầm trầm của người già thầy nói với Tâm:

- Thầy rất mừng là học trò của thầy không đến nỗi nào! Hãy giữ vững thiên lương! Thầy rất sung sướng được gặp con. Có lẽ đây là lần cuối thầy gặp một học sinh cũ làm thầy vui… Vì thầy đã già quá rồi, thầy suýt soát tuổi ba con đó chứ ít đâu.

Cô thì nhắc lại “Cảm ơn con” và chúc hai đứa lên đường bình an. Mắt Tâm nhòe đi qua màn nước. Ngoài trời mưa rơi nhẹ và lòng tâm cũng nhẹ lâng. Tâm thấy đi dưới mưa sao mà thú vị vô tả. Tâm nắm chặt tay bạn, chưa kịp nói gì thì Hà nói trước:

- Đừng có cảm ơn em! Hãy đưa em đi ăn cháo vịt, và bảo họ dọn rất nhiều gan như đã hứa.

- Một trăm cái gan vịt tôi cũng đãi cô.

Hai người cùng cười to, sảng khoái. Chính Tâm cũng ngạc nhiên vì tiếng cười của mình sao trong trẻo, hồn nhiên, đã lâu mình chưa hề được vui như vậy.

Về sài Gòn Tâm thấy mạnh khỏe lên như được tiếp sức, mạnh khỏe hơn bất cứ chuyến đi nào từ trước tới nay. Tâm kể đi kể lại chuyến đi thăm thầy cũ cho chồng, cho các con, cho bạn bè thân sơ, kể cả tuần liền không chán. Và Tâm hát vang lên. Giọng hát và tiếng nói của Tâm y như của vị tướng hành quân vừa thắng trận. Đến nỗi các con Tâm phải kêu lên : “Mẹ bữa nay trẻ lại cỡ mới ba chục tuổi Xuân!”.


Dĩ nhiên là Tâm hiểu. Tình bạn của họ hồn nhiên, bình dị, không kiểu cách, không chút đãi bôi, khỏi cần khách sáo. Vì vậy, khi Tâm ra lần này không có Kính ở nhà, Tâm cứ ung dung cùng con gái của Kính khóa cửa lại, đi ra biển, tắm. Con gái Kính cùng tuổi với con gái đầu của Tâm, nhưng đã có chồng, vừa sinh con đầu lòng hơn một năm thì chồng chết. Nó còn quá trẻ để buồn rầu, để có vẻ góa phụ. Nó đưa con cho Tâm, cười khì khì:

- Dì bồng nó cho con, coi!

Ra đến biển, thằng bé nằng nằng giữ mẹ trên bờ, không cho mẹ tắm, sợ mẹ chết đuối. Tâm đành xuống biển với một cô bạn của mẹ nó.

Trong lúc Tâm và cô bạn của con gái Kính nô giỡn trên sóng thì trên bờ nó hét dựng lên:

- Dì ơi! Con khổ ghê không? Con không được tắm dì ơi!

Tối lại, trăng sáng rỡ. Tâm, con gái Kính, cháu ngoại Kính và hai cô bạn nữa kéo nhau ra Hội trường xem lễ Trung Thu do các trường tại quận hợp lại tổ chức. Đèn lồng con cá, đèn xếp, đèn quả bí, tấp nập, tưng bừng. Nhưng khi xướng ngôn viên tuyên bố kết quả thì Tâm, con gái Kính và các bạn cùng bất mãn : làng Khánh Thiện bết quá, không thu được kết quả đáng nể nào cả. Mọi giải thưởng đều bị học trò trường làng Thạch Long thâu tóm. Ông hiệu trưởng Thạch Long coi bộ hơi kênh, còn ông hiệu trưởng trường Khánh Thiện thì ủ rũ trông thấy rõ. Mọi người làng Khánh Thiện kết tội ông hiệu trưởng Khánh Thiện không tiếc lời, còn con gái Kính thì giận trường làng Thạch Long cạnh tranh bất chính, chuyên môn độc diễn.

- Đó dì thấy không? Trình diễn văn nghệ : học trò Thạch Long! Đem thi đèn : Thạch Long! Cái gì cũng Thạch Long, Thạch Long…

Một cô bạn cãi:

- Thôi, cũng tại trường mình làm biếng, không chịu tập luyện gì hết, đi đứng hát hỏng so le…

- Tao nghe nói điện văn ở trung ương đánh khẩn về mà quá trễ cho nên… với lại tao nghi cha hiệu trưởng Thạch Long giấu, không cho trường Khánh Thiện mình hay sớm…

- Dám lắm à, cạnh tranh bất chính.

Mấy cô gái bênh vực màu cờ trường Khánh Thiện quá hăng say làm cho người học trò của gần bốn mươi năm cũ cũng nóng mắt, nhảy vào vòng chiến, cũng tức tối, tưởng có thể đón đường kẻ đã làm nhục trường Khánh Thiện ăn thua một trận.

Trăng lên cao, mọi người cùng lần lượt ra về. Bốn tiếng Thạch Long – Khánh Thiện cứ dội vào tai Tâm từng chập. Tâm chợt nhớ những kỷ niệm về Thạch Long : gò mả, đồi cát đầy cỏ dại, cây bồn bồn, hoa cườm thảo và sân bóng tròn – một kỳ quan đối với Tâm, thuở đó. Rồi lan man Tâm nhớ đến quả bóng đầu tiên của Tâm và các bạn : bằng giẻ rách quấn với lá chuối khô. Tâm nhớ đến những người đàn bà đi chợ ngang trường thường liếc mắt vào, nhìn quả banh tròn bằng những con mắt không thiện cảm. Một bà la lên:

- Coi! Trời ơi! Đời thuở nhà ai con gái mà đá banh không?

- Ừ! Đồ quỷ sứ! Mà còn giữ gôn nữa chứ. Cái đồ rắn mắt, con không ai dạy.

Tâm ngừng chơi trong lúc Cúc chống nạnh, trừng mắt trả đũa tức thì:

- Ừ! Con gái đá banh đó, có sao không? Mắc gì mấy người không? Ai mượn thò mỏ vô?

Một mụ đàn bà đanh đá:

- Thầy mày không biết dạy hả? Muốn tao chửi cha thầy mày không?

Tâm càng hốt hoảng, kéo Cúc lùi vào, nhưng nó đâu chịu, nó…

- Dì ơi! Mình đi ăn bánh căn đi, đi!

Tiếng con gái Kính làm Tâm giật mình. Lập tức, tấm màn dĩ vãng được buông kín mít. Tâm trở lại thực tế theo chân mấy cô gái thuộc lớp tuổi con mình.

Ngày hôm sau, Kính từ Phan Thiết trở về. Con gái Kính định gởi con cho mẹ để rảnh tay đi tắm với dì Tâm, nhưng thằng bé không chịu. Tâm rủ bạn đi, Kính trả lời lửng lơ:

- Mắc lo vài công chuyện. Dì cháu mấy người đi trước, trưa nay hễ rảnh tao ra, tao biết chỗ dì cháu mày tắm mà! Chỗ bóng mát có cái nhà bát giác đó chớ gì? Coi ra chợ mua bánh hỏi, thịt quay đem theo ăn. Hai, con làm cho dì cháu nó cối nước mắm me, nghe!

Dì cháu Tâm lơn tơn ra chợ. Mua sắm xong xuôi, kêu bạn, kêu bè đông đủ, chín giờ sáng họ mới khởi hành. Người thì đi bộ, người thì xe đạp. người được chở bằng Honda.

Sắp xếp các món ăn vào nhà mát xong, cả bọn lao mình xuống nước, sau khi nô giỡn, rượt đuổi cả giờ. Đồng hồ chết từ lâu, nhưng họ cũng đoán được là gần đứng bóng rồi. Hòa nhìn chăm chăm vào mặt dì Tâm:

- Chà, mặt dì đỏ quạch y như mặt trời. Nữa dì về Sài Gòn, người ta cười chết.

- Dì tao cóc sợ ai cười – con gái Kính vui vẻ nói – dì tao ngon lành lắm, Hòa ơi!

Thình lình Chúc chen vô:

- Tao vẫn còn tức quá, tao nhớ chuyện lễ Trung Thu hôm qua, trường mình ê mặt…

- Thôi, đừng tức, người đáng tức là dì Tâm kìa, mà dì còn không tức thay.

Chúc tò mò:

- Ủa, dì cũng học trường mình hồi nhỏ hả?

- Chớ sao?

Hiệp vênh mặt lên xác nhận, vẻ mặt như vẻ mặt của vị danh tướng vừa được một quan văn công nhận mình có thực tài.

Mây trắng lốp, trời cao và xanh hơn lên. Cách bọn họ cỡ bốn chục thước, đoàn người kéo lưới vẫn kiên trì làm việc. Tâm hỏi lũ con gái:

- Sao họ kéo lâu dữ vậy, tụi bay? Từ nãy đến giờ mà chưa kéo được vô bờ?

- Dám có nhiều cá lắm dì ơi! Nhiều cá nên nặng lưới…

- Tao không tin. Năm nay mất mùa cá, làm gì mà nặng lưới. Ủa, họ làm gì mà đập thình thình ngoài đó vậy?

- Con này ngu quá sức, họ lùa dồn cá đó chớ làm gì. Ở biển như mày thà lên rừng còn hơn.

- Ai biết đâu…

- Cái gì cũng ai biết đâu, tao chán mày hết sức.

- Thôi bơi! Cãi lộn hoài.

Họ quên tức khắc chuyện lưới kéo chậm. Tâm vừa bơi vừa lơ đãng ngắm cảnh. Đỉnh đồi màu gạch cua, rặng dừa xanh, con đường chạy dọc theo bờ biển trườn mình theo rặng dừa, có khi cả hàng tiếng đồng hồ không thấy bóng của một cái xe vậy mà loang lổ nhũng ổ gà. Trên bãi cát, một con thuyền như mắc cạn, nom nghèo nàn, xơ xác, giương đôi mắt lơ láo, ngờ nghệch nhìn chăm chăm xuống nước trông mới ngộ nghĩnh làm sao. Nó không có vẻ “nghe chất muối thấm lần trong thớ vỏ” như một câu thơ mà Tâm ưa thích lúc nhỏ, thớ gỗ nó có vẻ nhạt vì gội mưa tắm nắng quá lâu ở trên bờ. Chắc nó tủi thân ghê lắm?

Đột nhiên tiếng la oai oái như thể cháy nhà đâu đó, rồi tiếng chân rầm rập từ bờ, tiếng léo xéo từ mấy xóm dừa và người ta tuôn ra như kiến bị động trong tổ. Quang gánh trên vai, thúng rổ, vợt lưới ở tay, người lớn, trẻ con, người già kéo xuống bãi tụm lại chỗ lưới đang được khó nhọc, chậm rãi kéo vô bờ.

Chúc nheo mắt nhìn về hướng đó rồi bất ngờ, nó hét dựng lên:

- Nhiều cá quá, tụi bây ơi!

Và rồi không đợi bạn, đợi Tâm, Chúc lội lẹ vô bờ, lao đến chỗ đông làm cho mấy người còn lại sửng sốt. Thoạt đầu, Thành, Hiệp, Hòa cũng như Tâm đứng tại chỗ nhìn theo, song chỉ hai phút sau Hiệp, Hòa cũng theo bạn, bỏ Thành và Tâm lại. Hai dì cháu nhìn nhau, nửa muốn tắm thêm, nửa bị khung cảnh kỳ lạ trước mắt lôi cuồn.

Tiếng la càng lúc càng cấp bách, thôi thúc. Trên mười người từ hai khoảng cách của đầu lưới đã gần ráp lại nhau. Con thuyền máy suốt mấy giờ qua cứ đảo quanh ngoài biển gây tiếng động để lùa cá cũng lập lờ cách bờ cỡ trên mười thước, không hơn. Trên bờ, khoảng hai chục người lớn nhỏ chực sẵn để hôi cá. Từ đáy nước tấm lưới chầm chậm nhô lên cho người ta thấy rõ là cá nhiều, quá nhiều, hơn cả lời Chúc đoán.

Tâm và Thành cũng bị hoạt cảnh đó thu hút, không ai bảo ai, lặng lẽ lên bờ. Đúng lúc đó, thằng bé con Thành thức giấc trong cái võng treo giữa hai cái cột trong gian lều mát hình bát giác làm mẹ nó phải chạy lên dỗ con nên còn mình Tâm thong thả tiến lại chỗ đám người đứng đợi trên bờ.

Bấy giờ, một phần lưới đã được kéo lên bãi, tấm lưới dài, rộng lùng bùng nhốt trong đó vô số cá bạc lóng lánh đang giãy giụa liên hồi. Một số khác luồn khỏi lưới đang tìm lối thoát, chúng bị những lượn sóng lớn xô đẩy lại giạt lui vào bờ. Tức thì bọn hôi cá ào xuống, bắt chúng bằng mọi cách. Tiếng quát tháo càng dữ dội hơn bao giờ, chát cả tai. Tâm đứng xa, nhìn đống cá của vài kẻ đi hôi vun cao dần dưới một góc dừa rồi nhìn đống cá lớn hơm thập bội do bọn người kéo lưới tháo ra khỏi lưới, dùng ky, rổ lớn xúc từng mẻ vun đổ ập lên cát trắng. Tấm lưới lần lượt được kéo lên thêm, cá đầy vung, tung cả lưới, lọt ra ngoài. Những người hôi cá sà tới như một bầy ruồi sà vào tổ mật. Thoạt đầu Tâm hơi ngạc nhiên vì thấy họ để cá ra nhiều phần nhỏ. Hiệp giải thích những phần nhỏ là cá hôi, chính đống cá đang nằm giãy giụa chồng chất lên nhau cả một khoảng rộng kia mới chính là của chủ lưới. Tâm liếc nhìn mấy đống cá hôi, thấy đống nhiều nhất cỡ đong đầy vào thùng dầu hỏa cũng được bảy, tám thùng. Tâm nghĩ đến công khó của đám ngư dân từ lúc sáng mà đâm xót ruột hộ. Tâm lại gần, cúi xuống, nhặt từng con cá rơi vãi ngoài lưới bỏ vào lưới giùm họ, nhưng Hiệp ngăn lại:

- Trời ơi! Bỏ vô lưới làm chi dì? Lượm đi dì! Lượm về ăn!

- Kỳ quá, tội nghiệp người ta!

Tâm nói và lại cúi xuống, nhặt không kịp thở, nhưng khi Tâm giở lưới toan thả vào thì có tiếng đàn bà nói to:

- Lấy đi! Đừng bỏ vô chi.

Tiếng la đó làm Tâm sửng sốt, suýt buông rơi mấy con cá đang nắm chặt ở tay. Hay đó là lời của một người trong đám hôi cá, không muốn người khác tỏ ra lương thiện? Nhưng không, người đàn bà ngẩng nhìn Tâm, giọng nói thản nhiên:

- Cứ lượm đi, tụi nó lượm thiếu gì!

Nói xong bà ta bưng một rổ cá vun chạy lúp xúp mang đổ chồng lên đống cá lớn phía trên xa.

Giữa đám người nhặt, bưng, đổ, gỡ đó, tâm thấy Hiệp, Hòa, Chúc không còn vẻ gì là những nữ sinh đệ nhất đệ nhị nữa. Chúng cũng a đại tới, bắt, chụp, bưng, đổ, tháo, gỡ, lăng xăng, hăng hái. Chỉ khác với bọn kia là chúng không đứng hẳn ở hàng ngũ người hôi hay người chủ lưới, khi thì chúng nhặt những con cá rơi ngoài lưới để riêng cho bọn mình, khi thì hào hiệp bưng giúp những ky cá nặng trĩu lên bờ. Cũng khác với bọn hôi cá : chúng đóng vai người hôi rất chân chính – không bao giờ bắt cá trong lưới của người ta, chúng rất phơ-răng-jơ! Lời Chúc pha trò, mà thật vậy, Tâm cũng làm y như chúng kể từ phút đó.

Một lát, Tâm thấy mỏi nên dừng lại đứng nhìn. Hàng triệu triệu con cá cùng một lứa với nhau, mỗi con to gần bằng bàn tay dài từ tấc hai đến hai tấc, nằm chồng lên nhau tung tóe giữa cát trắng, những cái đuôi và vảy bạc lấp lánh dưới nắng chói lòa, giẫy giụa liên hồi, nhìn xa xa như ta nhìn vào cái xanh khổng lồ đựng đầy bạc trắng đang sôi sục, sủi tăm lên.

Tâm lại gần tấm lưới đang còn nhiều cá, cúi bắt một con cầm trên tay. Nó uốn cong thân hình trắng bạc và kêu lên “oằng oặc” nho nhỏ. Tiếng kêu đó rập ràng hơn, đều một loạt ở những thúng cá mới vớt khỏi mặt nước, rồi vài phút sau tiếng “oằng oặc” nhỏ dần và tắt luôn. Cùng một lúc, chúng thôi giãy giụa, nằm im, chỉ còn thoi thóp thở.

Tiếng la oai oái vẫn tiếp tục mỗi lần tấm lưới được kéo lên một chút nữa. Cả một khoảng mặt nước chu vi ba mười thước chiều rộng đục lờ, thoáng gợn mùi tanh.

Tâm đưa mắt nhìn lũ trẻ. Chúc thì mặc chiếc áo mưa của Thành, Hòa thì cuỗm chiếc áo khoác bằng khăn lông của Tâm từ lúc nào không biết, Hiệp thì vốn nhanh nhẹn nhất bọn nên đã mặc quần dài và áo cánh. Chúng còn say sưa hăm hở hôi cá, giúp chủ cá và luôn canh chừng đống cá của cả bọn giờ đã được ít nhất cũng sáu thùng dầu hỏa đong đầy. Tâm nhìn lại mình, Tâm đang quấn ngang mình tấm khăn lông khá rộng ngoài áo tắm nhưng chốc chốc ngấm nước và vì Tâm cử động, nó lại tuột ra, phải ngừng bắt cá, quấn lên.

Thình lình, Thành xuất hiện, nó la chói lói:

- Đứa nào lên coi con cho tao, tao bắt cá với đi! Ma… au coi!

Không đứa nào nhúc nhích. Thành ào xuống nhập bọn. Hiệp lại hét dựng lên:

- Coi chừng mất đồ trên đó sao? Con khỉ!

Mặc bạn la lối và Tâm cũng la nữa, Thành làm như không nghe trách cứ gì, cắm cúi nhặt cá, nét mặt thích thú, nó không có vẻ gì là người mẹ của đứa trẻ hai tuổi đang nằn trên võng, đằng xa kia.

Có một lần Tâm hơi tức mình vì cái khăn lông cứ tuột hoài, lại gần Hòa toan đòi áo khoác, nhưng Tâm ngao ngán khi thấy hai túi áo đầy nhóc cá.

- Hết nước rồi, cho cá vô túi áo, tanh chết đi…

Hòa nhìn Tâm cười dài, phô hai hàm răng trắng ra:

- Dạ, không sao đâu dì, con sẽ giặt kỹ cho dì, nhà con bán xà phòng. Xà phòng Việt Nam giặt trắng phau, mau sạch đó, dì ơi!

Hiệp liếc mắt nhìn hai túi áo khoác đầy nhóc cá, thò cả đầu, đuôi lên miệng túi của bạn, giễu:

- Coi, ăn cắp cá bỏ đầy túi áo mà nói chơi phơ-răng-jơ!

- Thì phơ-răng-jơ! Chớ gì nữa, cá này là cá rơi ngoài lưới mà, mày!

- Tao rất lạ, không hiểu con Chúc nó mặc áo quần đàng hoàng chớ phải chi mặc áo tắm như tao với dì Tâm đâu mà nó lại khoác thêm cái áo mưa làm chi chớ?

Thành thắc mắc hỏi.

- Biết tại sao không? Lúc nãy con Hiệp ham bắt cá quá, nó chạy sao mà rách cả quần dài, nên nó quơ đại quần con Chúc…

- Tao bắt cá một lát, mới nhớ mình mặc đồ tắm nên chạy lại nhà bát giác, tìm hoài không ra quần mình, tao biết liền, tao phải bận quần rách của nó và phải bận thêm áo mưa nữa chớ sao. Con quỷ, con chó! Tao sẽ trừng phạt mày cho coi! – Chúc nói.

Tâm nhìn đống cá của cả bọn, kêu lên:

- Thôi, đừng bắt nữa, nhiều quá, bắt làm gì? Làm sao đem về? Lấy gì chở?

- Thuê xe, dì!

Bọn hôi cá lần lượt đem quang gánh lại, chuyển cá đi dần. Tiếng ơi ới lúc đầu dịu bớt. Có cả một quân nhân – hay một thường dân mặc binh phục? – cũng hôi cá, anh ta đứng nhìn đống cá một cách kiêu hãnh như nhìn chiến lợi phẩm sau khi thắng trận.

Bấy giờ, Tâm nhận ra đám ngư dân chủ lưới gồm đủ lứa tuổi : có một bà lão mặt nhăn nheo như quả táo khô, có một ông cụ quắc thước với nước da màu đồng và đôi cánh tay rắn chắc, có một đứa nhỏ đen chũi, vài thanh niêm quần áo rách bươm và hai thiếu nữ thân hình tròn lẳn, bộ ngực nở nang, cái đẹp khỏe mạnh, hồn nhiên, đơn giản. Họ gồm trên dưới mười hai người. Họ đã khó nhọc giăng lưới, gò lưng kéo, dầm mình dưới nước để dồn đuổi cá, phơi nắng từ khi nắng còn dịu cho đến khi nắng cháy đốt da, họ đã la khản cổ – điều này Tâm cho là vô ích nhất – vì không phải họ la để đuổi bọn hôi cá, mà la khan, la khống vậy thôi. Vì Tâm lắng nghe, không tiếng gì rõ rệt, cứ “ới, cá, cá… ơi!”, “mau, mau… ma… au” khi thì “Trời ơi! Tr… ơi”, “ô, ô… ô!” khi thì họ la vì giẫm nhầm chân nhau. Cũng có khi họ la vì bọn hôi cá quá lộng hành : không chỉ bắt cá rơi ngoài lưới mà còn thò bắt cá trong lưới của họ, nhưng rất ít. Họ không có nhiều con mắt tinh tường để nhìn khắp nơi. Nhưng đã có Tâm, Tâm không ngừng tỏ ra mình là một trọng tài đáng nể trong cuộc chơi. Tâm quát bọn hôi cá như chính mình là chủ:

- Ê, bỏ xuống coi! Đừng ăn cắp chớ. Người ta làm khó nhọc!

Có người riu ríu vâng lời, nhưng vài đứa trẻ rắn mắt, làm như không nghe, cứ tiếp tục. Tâm xông tới, giơ nắm tay lên cao, dọa dẫm:

- Bỏ cá ra, coi chừng! Biết tao là ai không, hở? Trả lại, mau!

Và Tâm đã thành công.

Gần hai tiếng đồng hồ, mẻ lưới mới được tháo gỡ xong. Ông cụ già, mấy cô gái nhìn Tâm và lũ trẻ bằng con mắt cảm tình, một người lên tiếng:

- Lụm thêm dìa ăn, đi!

Và họ lập đi lập lại hoài câu đó, khiến cho mấy đứa trẻ không thể từ chối – thật ra chúng cũng thích lấy thêm – dù không phải chúng tham lam. Sau cùng hơn tám thùng cá được khuân lên, để dưới bóng mát của gốc dừa cạnh ngôi nhà bát giác. Nhưng cái việc đem về nhà mới thật là cả một vấn đề và mệt quá. Tuy nhiên, mệt nhọc trong hả hê, thích thú. Đứa nào cũng sáng ngời mắt.

Bọn trẻ cãi cọ nhắng lên một hồi mới đi đến quyết định : dùng cái Honda chở một người và một giỏ cá. Phải đi đi về về nhiều bận như vậy mới xong. Hiệp tỏ ý lo ngại sẽ bị rầy về tội đi chơi lúc buổi trưa, thâm qua buổi chiều của mình, nhưng Hòa thì tỏ ra vững lòng:

- Bộ đi chơi bậy bạ gì sao? Tụi mình đi tắm với dì Tâm, với lại… ờ, với lại dì hôi cá nữa chớ bộ.

- Phải, coi điệu này, mỗi đứa được cả giỏ đầy, chắc khỏi bị la.

- Còn dì nữa, dì sẽ đem về Sài Gòn mấy giỏ?

- Dì hả? Khỏi! Dì ăn bằng mắt và ăn tại đây thôi.

- Đó, giờ dì tin lời con chưa? Hả dì?

- Tin cái gì chớ?

- Coi, dì quên sao? Tin chuyện gánh hát ra đây, hát ế thì đi xuống biển xin cá hay hôi cá ăn thay gạo chớ tin gì. Hôm kia con nói mà dì cười kêu là con nói dóc.

- À, tin! Tin chớ, nhưng dì ngạc nhiên ở chỗ họ hát hỏng làm sao mà bị dân ở đây chê?

- À, có gì đâu dì, cháu biết gánh hát này. Tụi nó hát dở, chỉ hay có cái tài bay thôi.

- Tài bay?

Tâm lạ lùng, hỏi gặng. Thành cười khì:

- Dạ, tài bay, tụi nó bay hay lắm, tên kép chánh bay hay lắm, bay khi diễn tuồng kiếm hiệp đó mà.

- Chà, chắc mày coi đều mỗi đêm?

- Đâu có coi mà nghe tụi nói lại thì biết chớ gì. Bữa họ diễn tuồng “Người về từ đỉnh núi” dở ẹc…

Tâm trầm ngâm, nhớ đêm Trung Thu, ban tổ chức quận chọn ngay địa điểm trước rạp hát làm Hội trường, thành ra ban hát “Bình Minh” hết chỗ làm ăn.

Sáng hôm sau, Tâm đi ngang, thấy đào kép chính cũng như phụ bơ phờ, thảm não, người thì đang chổng mông thổi lửa, người thì vo gạo, một chị đàn bà vạch vú cho con bú, nhưng hình như không mút ra sữa, nó nhả vú mẹ ra, hét toáng lên. Người mẹ vội vàng gài nút áo khi thấy người lạ đi ngang, nhưng Tâm cũng kịp nhìn rõ bộ ngực lép xẹp của chị ta. Đôi mắt thâm quầng, lờ đờ, dáng bộ mệt nhọc, chị đưa tay che miệng ngáp dài, nước mắt chảy ròng ròng. Những que củi quơ trên động còn xanh nên khói tỏa mù mịt một góc bên hông rạp hát, làm một anh kép răng vàng, tóc dài, giắt theo kẽ tai, cao giọng chửi thề ỏm tỏi.

Đang vui vẻ Tâm chợt nghẹn ngang và cay cay ở mắt.

Ngày kế tiếp, Tâm còn thấy cái xe xộc xệch của họ với tấm bảng “Đại ban Bình Minh” và bảng nhỏ hơn với mấy chữ “Tối nay chúng tôi sẽ công diễn tuồng Phạm Công, Cúc Hoa đặc sắc” ì à ì ạch chạy quanh làng quảng cáo, có tiếng trống “tùm tùm” phụ họa và một lũ con nít trong làng ở trần trùng trục, có đứa chỉ bận áo, áo của cha hay của mẹ, dài tận đùi, lóc nhóc theo sau như đám rước đình. Có đứa cười, đứa khóc, có đứa reo hò tở mở, mấy đứa nhỏ xíu đứng một chỗ đưa mắt nhìn theo, mũi chảy dài và khi anh chị chúng – hoặc một người lớn đi ngang trông thấy – la lên : “mũi chảy kìa!”, lập tức chúng hít mạnh một cái làm hai dòng nước mũi đặc xanh lại rút lên rồi từ từ, thong thả bò dài xuống vị trí cũ, không suy suyển.

- Bữa nay họ hát tuồng gì đây? – Hòa hỏi.

- Không biết! – Thành đáp cộc lốc.

Hiệp tỏ ra thành thạo:

- Hôm đầu tuồng “Người về đỉnh núi”. Hôm qua Phạm Công Cúc Hoa, còn bữa nay chắc công diễn “Người về đêm tân hôn”, nghe nói tuồng này là tuồng ruột à!

- Lạ quá, gánh hát này sao ưa người về quá, tụi bay hả? Đặt tên thì hay mà hát thì… dở hết chỗ chê. Cứ mỗi lần ra đây là ngày sau xách giỏ đi xin cá.

- Ờ, coi như Út Bạch Lan, Thành Được, Bạch Tuyết người ta ngon lành không?

- Bì sao được với mấy người đó! Nói ngu chưa!

- Sao kêu là ngu? Thì cũng nghệ sĩ, mà người thì đi xe hơi Huê Kỳ, người thì đói dài dài, tội chớ, hả dì?

Luôn luôn tụi nhỏ kéo Tâm vào các cuộc tranh luận, đòi Tâm góp ý.

- Ờ, tội thiệt. Dì cũng thấy thương…

- Vậy chứ có người ưng theo đó, dì ơi!

- Ai ưng theo? Mày cứ đặt chuyện. Tao chịu hết nổi. Dì ơi, dì đừng tin nó.

- Tao thèm nói láo với mày sao? Mày biết ai đòi theo không?

- Ai?

- Ông thầy H., ông thầy mới đổi tới trường trung học quận đó. Ổng kêu là ổng ưa nếp sống nghệ sĩ, ổng nói với thằng em tao đây nè. Ổng nói phải chi mùa hè…

Thành bĩu môi:

- Tưởng ai chớ ông thầy H. thì khỏi bàn, ổng nghệ sĩ quá rồi, cần gì đi theo gánh hát.

Câu chuyện càng lúc càng lôi cuốn đây. Tâm nghĩ thầm và hỏi lớn:

- Ông ấy ra sao mà tụi bay kêu là ổng nghệ sĩ quá rồi?

- Dạ, ổng hết sức dơ dáy, tóc để dài, áo quần không giặt, đứng gần nghe mùi hôi, đụng tới là bụi bay ra liền.

Cả bọn cười khùng khục. Tâm hỏi:

- Có thật vậy không?

- Dạ, thưa dì, bảo đảm cỡ năm mươi phần trăm.

- Còn ổng dạy dỗ ra làm sao?

- Tụi con đâu có học ổng mà biết. Trong tụi con có mình con Chúc là có học ổng, dì thử hỏi nó coi.

- Sao, Chúc, thầy H. dạy dỗ ra sao?

- Dạ, con học lâu rồi, ổng nghiêm lắm, dì ơi! Bây giờ con còn sợ ổng, sợ nhất là khi đụng đầu ổng, ổng ngó chăm chăm vô mặt con, hỏi: “Chúc, sao không đi học nữa?”. Cái tiếng của ổng nghe muốn run lận, dì ơi!

- Ê, đồ ngu! Hết học rồi còn sợ nỗi gì?

- Vậy mới nói, mới kỳ, tao đã nói ổng dữ mà. Hết học thì hết học chớ, cứ sợ như thường.

Tâm kết luận, giọng nghiêm trang:

- Vậy thì ông ấy có tác phong nhà giáo đó, tốt lắm! Tụi bay đừng chê. Có lẽ vì xa nhà buồn, có thể không ai giặt giùm quần áo…

- Còn tóc?

- Ờ, khoản này thì chắc dì không binh nổi ổng đâu.

- Trong Sài Gòn, trường Pétrus Ký đó nghe, tóc học trò ngắn hơn cây kim găm bạc, cho tụi bay hay.

Thành lại lên giọng người biết nhiều, hiểu rộng.

Chợt, câu chuyện bị đứt ngang vì một đứa con trai hớt hải chạy qua báo cho mọi người biết:

- Ra coi mau! – Nó vừa nói vừa thở hào hển – anh kép hát chuyên môn bay của gánh hát “Bình Minh” ra biển xin cá sáng nay, bị đẻn cắn, họ đang chở vô nhà thương kìa. Mau ra coi!

- Thiệt không?

- Đứa nào nói láo ông bà dật nó đi! Họ khiêng gần tới kìa, tui thấy rõ ràng.

Trong nháy mắt, bốn cô gái vụt chạy theo thằng bé, bỏ mình Tâm đứng lặng, nhìn theo. Một lần nữa niềm vui, sự vô tư vụt mất. Tâm nghe cay cay ở mắt, nghẹn ở cổ, bước chân nặng như chì.


Mấy ngày liền Tâm luôn bị hình ảnh người kép hát và cô đào quấy rối : hai mắt nhắm nghiền, mặt trắng bệch méo mó, nước dãi sùi ra hai bên mép, mái tóc dài lốm đốm muối tiêu phủ gáy, lấp tai phất phơ theo gió. Anh ta nằm cong queo bất động trên chiếc võng gai do hai người dân chài lực lưỡng khiêng chạy băng băng trên động cát lún. Thỉnh thoảng, một trong hai người la to : “Dang ra, dang ra” để xua lũ trẻ và cả người lớn tò mò chạy theo sau tạo thành một đám diễu hành rồng rắn, họ la cốt để khỏi vướng chân, nếu không đám đông dám chận lại để nhìn tận mặt nạn nhân. Chợt trong đám người hiếu kỳ theo sau có một giọng đàn ông trầm bổng cất lên : “Bớ chư khanh! Trẫm bị lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc… Hãy mau mau mời quan ngự y! Mà thôi, đem trẫm tới nhà thương thí, mau lên!”

Hàng loạt tiếng cười vô tư của đám người tò mò đủ lứa tuổi phía sau, tiếng khàn đục, tiếng trong trẻo, tiếng the thé, tiếng ồm ồm như đuổi theo người xấu số khiến Tâm choáng váng.

Kế đó là người đào hát với tiếng khóc thét ngằn ngặt của đứa con thiếu sữa và rõ nhất là chiếc vú lép kẹp như cái bao da rỗng của chị ta, thái độ bối rối, ngượng nghịu khi bị Tâm bất ngờ chứng kiến. Mặc dù đau xót và bất bình, trí tưởng tượng của Tâm vẫn không ngừng làm việc : Anh kép hát này chắc hay đóng vai vua với triều phục uy nghi rực rỡ! Anh ta có biết bay không? Nếu biết thì sau tai nạn này, dù được thoát chết chắc anh cũng không bay được nữa. Còn người phụ nữ, cô ta sắm vai gì? Hoàng hậu, cung phi hay chỉ là một nữ tì vô danh? Cô ta có thể là vợ anh kép cũng nên? Ồ, không đâu, nếu đúng là vợ chắc cô ta đã chạy theo sau võng mà khóc lóc. Như để tự trấn an mình, Tâm nghĩ tiếp : Không! Không phải, hai người không có liên hệ gì với nhau cả, giờ này chị ta đang đi kiếm cháo thay sữa cho con, dù có xót thương đồng nghiệp, chị cũng không có thì giờ, tâm trí đâu mà quan tâm đến.

Lan man Tâm nhớ đến những nghệ sĩ có giá đã đôi lần Tâm gặp họ ở chợ Bến Thành hay ở các đường phố Sài Gòn, họ vênh váo, chễm chệ trên xe “Huê Kỳ”, có khi bị bao vây bởi đám đông ngưỡng mộ – họ, những tài tử ấy – đàn bà thì lóng lánh đã cam, đàn ông cũng sửa sang sắc đẹp : họ xẻ cằm, bơm mũi, nâng môi. Họ là khách hàng quen thân của các mỹ viện hiện đang đua nhau mọc lên như nấm mùa mưa. Họ quá kệch cỡm, những quái thai của thời đại mới!

Tâm không chịu nổi. Cái gì ở đây cũng gợi nhớ, nhắc nhở về những điều chứng kiến vừa qua. Từ cái võng của cháu ngoại Kính, bóng dáng vài người dân chài đi ngang trước ngõ, tiếng cười vô tư của con gái Kính, một giọng cải lương rền rĩ vượt hàng rao râm bụt bay sang… đều khiến Tâm khó chịu.

Thấy bạn chuẩn bị ra về trước dự tính, Kính ân cần hỏi lý do, Tâm chỉ ậm ừ qua loa, vì Tâm biết tính bạn, nói ra e chừng lại bị chê là mua việc.

Hành lý lần này của Tâm nhẹ hẫng vì Kính chưa kịp chiết cho Tâm vài chai, thứ nước mắm hảo hạng nhà Kính làm để dành ăn, không có hải sản cũng không có những trái mãng cầu ngon lành như lần trước. Nhưng Tâm cảm thấy mình mang nặng, rất nặng một thứ hành trang vô hình trở lại Sài Gòn mà trừ Tâm ra không một ai hay biết.

Người đầu tiên nhận ra tâm trạng Tâm là chồng tâm – Anh nói, vào bữa ăn trưa, lời lẽ có vẻ khôi hài nhưng giọng thì rất trang nghiêm khiến Tâm chột dạ, có cảm tưởng như mình là kẻ bị bắt quả tang đang có mưu đồ đen tối:

- Coi mẹ bay kìa, ủ dột trông thấy! Đi chơi lần này về sao không vui vẻ, phấn chấn như lần đầu gặp thầy, gặp bạn!

Tâm làm như không nghe, cắm cúi và cơm. Người chồng quay sang các con:

- Sao, tụi bay có ý kiến gì không? Ba nhận xét đúng không? – Không đợi các con góp ý, anh tiếp, giọng lần này trầm bổng như kép cải lương:

- Phu nhân! Nàng có điều chi bận lòng hãy thổ lộ cùng ta, đừng có ôm sầu chuốc thảm một mình, không tốt! – lại quay sang lũ con – Sao các con cũng không nói gì cả vậy? Hay là ba đã nói sai chăng?

Một đứa rụt rè lên tiếng:

- Dạ không! Ba đâu có nói sai. Con cũng thấy như ba mà… không dám nói ra sợ mẹ la.

- Dạ, thưa ba, con cũng vậy đó, ba! – Đứa thứ hai phụ họa.

- Chắc là ngoài đó biển có sóng lớn, mẹ tắm không được nên mẹ buồn mẹ bỏ về sớm đó ba.

Thấy các em phát biểu khí thế quá, chị cả góp ý luôn:

- Không phải đâu, chị nghĩ… à con nghĩ là… là dì Kính đau ốm chi đây?

- Không! Em đoán chắc là thầy của mẹ bị…

Người mẹ quay phắt lại, trừng mắt, hỏi:

- Thầy của mẹ bị… gì? Nói mau!

Trước tia nhìn giận dữ của mẹ, cậu con trai lớn – vốn ít lời – càng thêm lúng túng. Mẹ cậu lại hỏi dồn:

- Thầy của mẹ bị gì? Sao không chịu nói trắng ra?

Cậu con im bặt, cậu vừa nhớ ra mẹ cậu rất kiêng nói điều không lành, nhất là điều không lành về người thầy đầu tiên của mẹ. Người mẹ buông một câu với giọng hằn học, ít thấy:

- Cha con các người rất độc ác, lúc nào cũng tìm cách chế giễu người khác để mua vui.

Dứt lời người mẹ buông đũa đứng lên. Chồng con Tâm đều ngạc nhiên, riêng người đàn ông không chỉ ngạc nhiên mà còn tức giận, anh nói với các con : “Mẹ tụi bay càng già càng rắc rối”.

Con gái lớn chống chế:

- Chắc mẹ con mệt, ba đừng để ý!

Không ai biết chỉ vì hai tiếng “phu nhân”. Vì hai tiếng ấy nhắc Tâm…


MINH QUÂN


Trích từ tạp chí Tuổi Hoa số 234, ra ngày 1-5-1975 (chưa phát hành)