Tuần
trước, một buổi chiều đẹp trời, tôi thuê một chiếc taxi. Coi vẻ mặt và
thái độ hung hăng khi nhấn ga, tôi hiểu ngay rằng người lái xe không
được bình tĩnh. Tôi hỏi chú ta bực mình vì chuyện gì vậy.
Chú ta càu nhàu:
-
Không bực mình làm sao được! Sáng nay một khách hàng bỏ quên trong xe
tôi một cái ví, trong có gần 50.000 quan. Tôi bỏ ra trên một giờ tìm
hắn, sau cùng tìm được trong khách sạn hắn trọ. Ông tưởng hắn đã cảm ơn
tôi vài lời ư? Hắn đỡ lấy cái ví và ngó tôi như thể tôi đã ăn cắp của
hắn.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Người đó không thưởng cho chú một đồng nào ư?
-
Một xu cũng không. Công tôi đi tìm cả giờ, lại thêm tiền xăng nhớt nữa,
mất toi! Tiền nong, tôi không cần. Nhưng nếu thằng cha đó cảm ơn tôi
một tiếng thôi...
Thế
là cả ngày hôm đó chú ta hết vui vì lỗi của một kẻ không biết nhận đúng
cử chỉ lương thiện và lòng hảo tâm của chú ; và tôi tin chắc rằng từ
bữa đó chú sẽ suy đi tính lại trước khi muốn giúp ai một việc như vậy.
Hết thảy chúng ta, khi làm một việc thiện, đều muốn tỏ lòng biết ơn mình
; không có gì diệt lòng nhân từ, đoàn kết bằng thói vong ân.
Trong
thế chiến vừa rồi, bà mẹ của một người lính nhảy dù Mỹ nhận được một
bức thư của con hay rằng trong lúc bị thương và đói khát, đã được một
người đàn bà ở Avranches cứu giúp, giấu không cho tụi Đức bắt. Chẳng may
ít tháng sau chính người lính đó tử trận trong khi tấn công Ardennes.
Nhưng bà mẹ anh ta vẫn tiếp tục thực hiện một ước nguyện không thể nào
quên được. Bà dành dụm tiền trong hai năm để vượt Đại Tây Dương, lại
thành phố ghi trong bức thư của con trai. Phải dò hỏi lâu bà mới kiếm
được người đàn bà đã cho con trai bà trú ngụ – vợ một tá điền nghèo –
và rụt rè đưa biếu người đó một gói nhỏ. Trong gói có một chiếc đồng hồ
vàng, mà con trai bà được thưởng khi đâu một bằng cấp tốt nghiệp ;
chàng chỉ có mỗi vật đó là đáng giá.
Cử
chỉ biết ơn của người mẹ đó làm cho toàn dân miền Normandie rất đỗi cảm
động. Ở Arvanches và khắp cả vùng chung quanh ai cũng nhắc tới, gần như
một truyền kỳ.
Lòng
biết ơn là nghệ thuật nhận ơn huệ một cách vui vẻ, nhã nhặn, tỏ rằng
mình cảm động trước mọi dấu hiệu nhân từ của người khác, dù lớn dù nhỏ.
Phần đông chúng ta đều biết tỏ nỗi vui mừng khi được ai vui vẻ tiếp đãi,
hoặc tặng một món quà, cho hưởng một cái lợi rõ rệt nào đó. Nhưng phải
tìm cách biểu lộ lòng biết ơn một cách thành thực, không có gì xã giao
thì nghệ thuật mới hoàn toàn.
Mới
đây, trong khi vợ chồng tôi đi du lịch ở miền Nam nước Ý, tôi gởi về
tặng một ông bạn thân vài chai rượu vang thổ sản mà chúng tôi cho là rất
ngon. Món quà chẳng đáng gì, vậy mà ông bạn tôi đã viết thư cảm ơn lại
còn gởi cho một dĩa hát nữa. Dĩa đó ghi giọng nói của bạn tôi, sau bữa
ăn tối, tả nỗi vui của khách khứa và chỉ ông ta khi được nếm rượu, và
cảm ơn chúng tôi đã nghĩ tới họ. Lối cảm ơn đó thật độc đáo ; và chúng
tôi rất sung sướng khi biết rằng món quà đã làm cho họ thật thích.
Không
gì làm phật ý người ta bằng lối cám ơn ngoài miệng. Ông bạn gì của tôi,
James Barrie mà các vở hát và các tác phẩm tỏ rằng đã hiểu rõ tâm lý
thanh niên, thường kể câu chuyện này:
-
Một buổi chiều nọ, một ông bạn tôi gốc gác ở Ecosse và tôi đương bàn
bạc về công việc làm ăn. Đứa con gái ông chín tuổi, bước vô để dâng ông
những chiếc bánh kẹp em mới làm xong vì biết ông thích thứ bánh đó. Ông
bực mình vì câu chuyện bị ngắt, làm bộ nhấm nháp một chút, vội vàng khen
em một lời nho nhỏ nhưng vẻ mặt vẫn nhăn nhó, rồi tiếp tục ngay câu
chuyện bỏ dở. Em đó lúng túng, rất rầu rĩ, lặng lẽ bước ra. Vài tuần lễ
sau má em hỏi em tại sao không làm bánh nữa. Em òa lên khóc, la lờn:
"Không khi nào con làm bánh kẹp nữa" Em tuyệt vọng.
Ông Barrie nói tiếp:
- Và từ đó, em tuyệt nhiên không làm bánh nữa.
Lòng
biết ơn đôi khi không phải chỉ là một việc riêng tư. Con trai tôi học y
khoa ở trường đại học McGill kể chuyện rằng một bệnh nhân được chở lại
dưỡng đường Montréal, nhờ sang huyết mà được cứu sống. Khi khỏi bệnh ông
ta hỏi:
- Có cách nào biết được tên người cho máu để tôi cảm ơn người đó không?
Người
ta đáp rằng dưỡng đường luôn luôn giấu tên những người cho máu. Về nhà
được ít tuần, ông ta trở lại dưỡng đường để cho máu. Và từ đó đến nay,
đã mấy lần như vậy rồi. Một bác sĩ giải phẫu khen ông ta đã giúp đời một
cách ẩn danh, ông ta chỉ đáp:
- Có một người ẩn danh đã giúp tôi. Tôi làm như vậy để đáp lại.
Thật
là một điều phấn khởi khi ta nghĩ rằng lòng biết ơn có khi không phải
chỉ là một tình cảm thoảng qua đâu mà có thể như một nguồn nước suốt đời
không cạn. Một người chồng nhớ hoài một lần nào đó vợ đã tận tình hy
sinh cho mình, một người vợ nhớ hoài một món quà chồng tặng mình, nhờ
vậy sự hòa hợp trong gia đình sẽ tăng lên vô cùng. Nhà tự nhiên học W.
Hudson kể câu chuyện dưới đây:
-
Một buổi tối nọ, tôi dắt một ông bạn thân về nhà, gặp bữa, mời ông ăn.
Ăn xong ông ta bảo "Anh thật có phước, chị nhà yếu đuối, phải săn sóc
các cháu mà còn nấu cho anh được những món ngon như vậy." Lời khen đó đã
mở mắt tôi ra: nhờ ông bạn đó mà tôi mới thấy sự can đảm hằng ngày của
nhà tôi mà trước kia tôi cứ cho là tự nhiên, và từ đó tôi tỏ lòng mang
ơn nhà tôi.
Thái
độ nhã nhặn khi nhận ơn đó, phải được biểu lộ trong cả những tiểu tiết,
những việc lặt vặt. Người đưa thư, người giao sữa, người hớt tóc, chị
hầu bàn ở khách sạn, (1) người khiển thang máy, đều là những người giúp
việc cho quanh năm. Ta biết cảm ơn họ thì những giao tế đó không có tính
cách máy móc nữa mà có đượm thêm cái tình người, nhờ đó mà những công
việc đơn điệu hằng ngày đỡ buồn tẻ, hóa dễ chịu hơn. Mấy năm trước, có
lần tới Cannes, tôi ở chung một khách sạn với huân tước Grey, một chính
khách Anh. Tôi nhận thấy ông cảm ơn người giữ cửa mỗi khi người này mở
cửa cho ông. Một hôm tôi đánh bạo hỏi ông tại sao ông lại mất công như
vậy. Ông ngó thẳng vào mặt tôi đáp:
- Tại chú ấy đã mất công giúp tôi.
Một bệnh nhân của tôi, bán vè ô tô buýt ở Londres, một hôm tâm sự với tôi rằng:
-
Có nhiều lúc tôi ngán công việc của tôi quá. Thiên hạ kêu nài, làm tôi
chịu không nổi, họ không bao giờ đem theo tiền lẻ cả. Nhưng có một bà
sáng nào chiều nào cũng nhã nhặn cảm ơn khi tôi phát vé cho bà. Tôi cứ
tưởng tượng rằng bà thay mặt tất cả các hành khách mà cảm ơn tôi, có vậy
tinh thần tôi mới phấn khởi lên được.
Có
khi phải cho tiền thưởng ; những lúc đó chúng ta nên nhớ rằng một nụ
cười, một lời không sáo còn quí hơn món tiền thưởng nữa. Một ông bạn
thân của thi hào Paul Valéry có thói quen ăn bữa trưa ở một quán nọ tai
Paris ; ông ta làm thinh khi người hầu bàn dọn ăn cho. Không khen chê gì
cả và lần nào cũng thưởng một số tiền hậu hĩ. Valéry một hôm lại cùng
ăn với ông và khi đi, mỉm cười cảm ơn người hầu bàn, khen rằng nhờ cách
tiếp đãi niềm nở, khéo léo mà bữa ăn ngon hơn nhiều. Người hầu bàn đó
nhớ hoài Valéry và cứ thỉnh thoảng lại hỏi thăm ông.
Ông
giám đốc một nhà xuất bản nọ thường khen tài năng của cô thư ký. Một
hôm, nhà văn Arnold Bennett lại thăm ông ta, nói với cô thư ký:
- Ông chủ của cô khen cô là một thư ký tuyệt luân.
Cô ta đáp:
- Đâu phải là bí quyết của tôi, chính là bí quyết của ông chủ tôi đấy chứ.
Mỗi
lần cô làm xong một việc gì dù là nhỏ nhặt tới đâu đi nữa, ông giám đốc
cũng không quên cảm ơn cô. Nhờ được khuyến khích như vậy, cô tận tụy
làm cho đến nơi đến chốn.
Không có gì làm cho đời sống – của chúng ta và của người khác –
vui tươi rực rỡ hơn là lòng biết ơn. Tôi biết một y sĩ cho một số bệnh
nhân thần kinh suy nhược cái toa nầy: "đa tạ". Khi một bệnh nhân tới nhờ
ông chẩn mạch, có vẻ thất vọng, chán đời, óc chỉ nghĩ tới những đau khổ
của mình thôi, mà cơ thể không có triệu chứng gì đau nặng cả thì ông ta
khuyên:
-
Liên tiếp sáu tuần lễ, hễ có ai giúp ông một việc gì thì ông nói: "đa
tạ", và để tỏ rằng trong thâm tâm thực tình ông mang ơn người đó thì ông
nên vừa nói vừa mỉm cười nhé.
Có vài bệnh nhân bảo:
- Nhưng thưa bác sĩ, có ai giúp tôi được việc nào bao giờ đâu.
Vị y sĩ già đó, nhắc lại câu này trong Thánh kinh:
- Cứ tìm đi thì sẽ thấy.
Sáu
tuần lễ sau, đa số bệnh nhân đó trở lại, thay đổi hẳn, không oán trách
người khác nữa, tin rằng thiên hạ sao mà tự nhiên hóa ra tốt hơn, nhân
từ hơn.
Có
vài người không tỏ lời cảm ơn vì ngại quấy rầy người ta. Một bệnh nhân
của tôi hết bệnh, rời dưỡng đường rồi, vài tuần sau trở lại để cảm ơn nữ
y tá đã săn sóc cho mình.
Ông ta bảo:
- Tôi không dám tới sớm vì tôi nghĩ rằng có nhiều người lại cảm ơn cô quá, làm rầy cô.
Nữ y tá đó đáp:
-
Trái lại. Ông lại thăm tôi, tôi mừng lắm chứ. Rất ít người hiểu rằng
chúng tôi cần được khuyến khích, và những lời bệnh nhân khuyến khích
chúng tôi làm cho chúng tôi phấn khởi nhiều lắm.
Vậy
chúng ta đừng bao giờ nên ngại tỏ lời mang ơn người khác. Vì chúng ta
đừng quên rằng nụ cười, lời cảm ơn, những hành động biểu lộ lòng mang ơn
của ta giúp cho người chung quanh ta có một thái độ lạc quan về đời
sống.
A. J. Cronin
(Trong Ý CAO TÌNH ĐẸP)
do NGUYỄN HIẾN LÊ tuyển dịch
______________
(1) Người phương Tây bữa trưa thường ăn ở tiệm, tối mới về nhà.