Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2016

CHƯƠNG I (PHẦN III)_BÍ MẬT DẦU LỬA



PHẦN THỨ BA


CHƯƠNG I

CÓ MỘT THỜI NGƯỜI TA

CUỒNG NHIỆT ĐI ĐÃI VÀNG


Vài ngày sau đại tá rất lúng túng. Dầu cứ do miệng giếng phun lên hoài mà đã đầy cả ngàn thùng đủ thứ đủ cỡ, xếp chật cả nhà và chung quanh nhà, lại phải cất thêm một cái kho nữa để che những thùng không có nắp.

Ông đã có những dự định lạ lùng nhất, hy vọng xáo lộn thế giới. Có thể được lắm. Nhưng làm sao cho thiên hạ biết được sự phát minh của ông ích lợi ra sao?

Chế những cây đèn như dược sư Kier, rồi đề khởi với vạn quốc đốt đèn bằng dầu lửa ư? Như vậy cần nhiều vốn lắm. Mà đại tá không còn một xu ; chẳng những vậy, còn thiếu tiền công của Sam nữa mà chàng này thì đương mơ mộng những đống vàng.

Đã đành chàng không nghĩ tới số vài Mỹ kim mà đại tá còn thiếu chàng ; số ấy có thấm vào đâu, so với sản nghiệp vĩ đại mà đại tá đã hứa? Bây giờ chàng sắp có sản nghiệp ấy vì đại tá đã không lầm, kiếm ra được dầu lửa mà khắp thế giới đương cần dùng. Nhưng làm sao cho có nhiều người biết mà mua? Đại tá có cảm tưởng như mình tự lừa dối mình và lừa dối chàng, làm cho chàng thất vọng nữa, cho nên ông buồn rầu.

Các bạn ông thấy ngay sự thay đổi ấy. Ông Smith gạn hỏi, đại tá cảm động, cởi lòng với ông.

Ông Smith suy nghĩ suốt một ngày, không hở răng với Sam và cả Marjorie nữa về nỗi lo của đại tá, nhưng đến tối, đợi lúc vắng người, ông nói với ông Drake:

- Cách đây non mười năm, tôi đã được biết một cảnh thiên hạ cuồng nhiệt đi đãi vàng. Chắc ông còn nhớ và tôi khỏi phải nhắc lại cuộc mạo hiểm lạ lùng ấy chứ?

- Tôi còn nhớ, nhưng ông cứ chỉ bảo cho.

- Đó là tất cả đời của Johann Suter (1), vị Hoàng đế Californie.

- Tôi biết ông ta. Ông ta mới mất. Có hồi giàu nhất thế giới mà rồi khi gần chết, phải đi ăn mày trước cửa nhà thờ Cựu Kim Sơn (2).

- Tôi chỉ biết đoạn đầu và đoạn gần cuối câu chuyện của ông ấy. Ông ta gặp những người đi săn ở miền tây về. Hết thảy họ đều kể rằng ở bên kia dãy núi lấp lánh, có một cảnh Thiên đường : đất phì nhiêu ngoài sức tưởng tượng. Lúa không trồng cũng mọc, trái cây thì lớn dị thường. Ông bèn tìm đường tới miền ấy và kiếm được lối “Đại đạo”. Quả như lời thiên hạ đồn, không có miền nào ở địa cầu này mà phì nhiêu bằng. Ông trở về nhà, mướn hết thảy những kẻ vô nghề nghiệp và bọn Da đỏ rồi đưa họ qua Californie. Ông kiên nhẫn làm việc, cực nhọc trong vài năm, thành người giàu nhất thế giới. Mới đầu người ta gọi ông là đại úy Suter, sau gọi là đại tướng Suter. Chính phủ ký giấy cho phép ông khai phá miền ấy. Mọi việc tiến hành khả quan và ông tính đưa vợ ở tại quê hương ông, bên Thụy Sĩ, lại đó ở thì một hôm, một người ở của ông thấy dưới lòng sông Sacramento có một cục vàng thiên nhiên. Lúc ấy người ta mới hay sông có vàng. Thật như trong một chuyện thần tiên. Người ta bỏ hết cả ruộng nương, công việc để đãi cát mò vàng, mặc dầu Suter nghiêm cấm. Thế là cả Suter lẫn những người làm việc với ông đều sạt nghiệp vì họ kiếm được ít vàng quá, không đủ sống. Tụi khẩn hoang tới đốt trại của Suter để cướp những khu đất có vàng. Ông đành đưa đơn kiện, nhưng những vụ như vậy kéo dài hết năm này đến năm khác, sau ông phải đi ăn mày và chết trong cảnh cơ hàn.

Đại tá hỏi:

- Vậy ông muốn khuyên tôi điều chi?

- Tôi biết thêm rằng khi người ta thấy xứ Californie có vàng thì người ta đổ xô nhau lại. Vịnh Cựu Kim Sơn chật những tàu từ mọi xứ tới mà thủy thủ thì trốn hết. Tàu vừa ghé bến, khi một thủy thủ hay tin có mỏ vàng, loan báo cho bạn bè hay, tức thì họ trốn lên bờ hết. Không đầy sáu tháng có hai ngàn chiếc tàu vắng tanh đậu đầy trong vịnh. Tàu nào tới sau đành phải bỏ neo ở ngoài xa rồi người ta chuyền qua những tàu khác bỏ không để vô bờ. Sau này những tàu ấy dùng để cất châu thành Cựu Kim Sơn : phải, cất bằng ván, gỗ lấy ở dưới tàu. Vậy ta thấy hồi ấy đủ các hạng người, đủ các giống người đổ xô nhau về miền Californie ra sao. Người ta phải đặt vội nhiều đạo luật sơ sài và lập các tòa án vì có nhiều vụ giết người quá : họ xâm chiếm đất của người hàng xóm, hy vọng kiếm được nhiều vàng hơn trong khu đất của mình. Cho nên phải đặt lệ rằng kẻ nào chiếm đất và đi khai báo trước nhất thì sẽ được làm chủ miếng đất. (Vì vậy người ta mới gọi những đất ấy là “claim” do động từ reclaim là kêu nài, yêu cầu mà ra) Vậy, thưa đại tá, tôi nghĩ rằng sự phát minh của đại tá cũng sẽ làm cho một số cặn bã của xã hội ùa lại Titusville này như hồi trước đã ùa lại Californie. Cho nên việc thứ nhất mà ông phải làm, để sau này khỏi bị người ta cướp công khó nhọc của ông, là xin phép chính phủ khai phá khu đất trên bờ Suối Dầu này. Vì ông, ông kiếm ra được dầu lửa mặc dầu, sau này vẫn có kẻ bất lương hãm hại, lừa gạt ông để cướp giựt của ông. Ông đã biết rằng ở miền này, mạng con người rẻ lắm.

- Ông nói thật chí lý. Vậy tôi phải kíp đi Pittsburgh làm tờ khai mới được. Nhưng tôi còn ngại tụi Da đỏ, chúng sẽ nghĩ ra sao? Chúng có để yên cho tôi ở trên bờ Suối Dầu này không?

- Tại sao lại không?

Đại tá ngồi một hồi lâu, vẻ mơ màng, sau cùng ông nói:

- Tôi nhớ lời của Kaghamisham nói về cánh Đồng Lửa.

- Thì sao?

- Tôi đã tính lại nơi đó coi. Ngày mai tôi sẽ đi với anh Sam. Có điều gì khó hiểu trong chuyện ấy, ông thấy không?

- Chắc chắn vậy và thằng Sam sẽ vui lòng đi với ông.

*

Đại tá và Sam tới cánh Đồng Lửa vào giữa trưa. Họ có thể ngỡ là một ảo ảnh. Hàng trăm ngàn ma trơi chạy giỡn trên mặt đất, ánh sáng mờ mờ vì bị nhật quang át đi, không còn lấp lánh trên nền trời bằng nhung đen của ban đêm.

Những ánh sáng ấy, nói cho đúng, những ngọn lửa nhỏ ấy, chập chờn, tắt rồi bùng lại. Đại tá mới đầu cho là những ma trơi. Ông say mê ngắm cảnh có phần hùng vĩ ấy vì ông vốn yêu tất cả những cái lạ lùng của Hóa công. Hai người ngắm chán rồi đi về. Sắp tới khu rừng thì đại tá suy nghĩ:

- Ma trơi là cái gì?

Rồi ông ngừng bước.

Sam hỏi:

- Đại tá có điều chi vậy?

- Tôi là một thằng ngu.

Sam ngạc nhiên nhìn bạn đồng hành.

- Phải. Thật là già mà ngu. Anh biết ở đâu có ma trơi không?

- Dạ, tôi biết. Ở trên bãi tha ma và trên mặt ao tù.

- Và anh biết ma trơi do đâu mà có không?

- Không.

- Là do hơi. Thây ma thối nát ra, thành hơi bốc lên. Cỏ thối dưới ao tù cũng sinh ra những hơi bắt lửa được. Vậy ma trơi là một thứ hơi cháy trên mặt đất.

Sam nghi ngờ:

- Nhưng làm sao thây ma chôn dưới sâu mà lại bốc hơi lên mặt đất được?

- Có gì đâu, em. Hơi đó len lỏi qua những lớp đất, hóa ra trong sạch hơn, rồi tới mặt đất, gặp nhiệt độ cao hơn, cho nên cháy.

- Vậy Đại tá cho rằng cánh Đồng Lửa trước kia là một bãi tha ma Da đỏ? Có thể được. Nhưng tụi Cherakee sống ở đây từ lâu không có tục chôn người chết. Chúng lấy da thú bọc xác người rồi đặt trên một mỏm đá, cho mặt trời làm khô đét thây ma lại.

Đại tá cả cười:

- Để tôi giảng thêm cho, chịu khó nghe kỹ : tôi không tin cánh Đồng Lửa hồi xưa là một bãi tha ma Da đỏ, vì nhiều lẽ mà lẽ thứ nhất là cánh đồng mênh mông. Da đỏ chết đâu mà nhiều quá như vậy được, trừ phi họ dùng nơi đó làm bãi tha ma từ đời thượng cổ tới nay thì không kể. Nhưng dù vậy nữa thì cũng còn lẽ thứ nhì là những thây ấy chôn lâu quá, chỉ còn xương tất nhiên không còn bốc hơi lâu được nữa.

- Đúng thế.

- Vậy hơi đó tức là hơi dầu lửa. Không phải thì cứ chặt đầu tôi đi.

Sam la:

- Cũng dầu lửa nữa!

- Chính vậy mà lớp dầu lửa ở đây gần mặt đất hơn ở bờ Suối Dầu nhiều.

- Biết bao nhiêu của cải!

Đại tá phá lên cười.

- Của cải ấy về em đó. Kaghamisham đã biếu em rồi. Tôi sẽ đi Pittsburgh để xin phép cho em khai thác khu này và khi tôi trở về…

- Khi trở về?

- Khi tôi trở về thì em sẽ cưới Marjorie.



-------------------------
(1) Chuyện này cũng rất ly kỳ, Blaise Cendrars đã chép lại, nếu có dịp chúng tôi sẽ dịch.

(2) Tiếng Mỹ là San Francisco. Chính vì tại đó có mỏ vàng, sau không ai khai phá nữa, cho nên mới có tên Cựu Kim Sơn.


___________________________________________________________________