Cứ
theo sách vở thì tết Trung thu còn gọi là tết nhi đồng ở một sự phịa
của người Đường Minh Hoàng. Người phịa rằng: Vào một đêm trăng trong gió
mát, ao thu lạnh lẽo nước trong veo người được một vị tiên mời lên
Apollo cầu vồng đi thăm Trăng. Lúc trở về người còn thuổng được một vũ
khúc nhãn hiệu là Nghê Thường.
Cái
sự phịa không tiền khoáng hậu này đã được mọi người vờ vĩnh ra cái điều
có thực và chính cống bà lang trọc nên hàng năm có bầy ra đại lễ kỷ
niệm gọi là lễ Trông trăng. Thế là tết Trung thu ra đời. Cứ vào ngày
15-8 thiên hạ lại kéo nhau ra, ngửa mặt lên trời nhìn trăng cứ như đười
ươi giữ ống. Sự trông trăng này kéo dài cho tới khi trăng khuất non ngàn
là a lê vào giường nằm co chờ sáng, không có cái màn lỉnh kỉnh huê rạng
chư bi giờ. Ôi nếu con cháu cứ giữ cái sự trông trăng chay tịnh thật
lực như thế thì khỏe khoắn biết mấy, đằng này lại bầy vẽ ra nào là phải
có bánh dẻo, bánh nướng, đèn giấy, múa lân cơ. Nếu không có thì kể như
kém văn minh, lạc hậu! Nhiêu khê thật! Rắc rối thật.
Nguyên
cái khoản bánh Trung thu cũng đã đưa bàn dân thiên hạ đến chỗ điêu đứng
hấp hối về: Tiền tài và sinh mạng. Nhất là từ ngày các đấng nhi đồng
được người nhớn chiếu cố sang đứt cho cái tết Trung thu không đòi một
khoản bồi thường thiệt hại nào cả thì con số búp bê suýt tiêu điều miền
cực lạc quả có hơi cao. Bởi lẽ nền bánh Trung thu do các vị người giao
chỉ gốc Mã Viện sáng tác rất ư là kinh khủng, sau nữa là vì các búp bê
ăn uống kỹ quá nên fost jestum pestum diễn nôm là: "Sau ngày tết Trung
thu, Tào Tháo đuổi". Nếu có dịp làm một pha thanh tra các xưởng nhớn nhỏ
chế bánh Trung thu thì có lẽ các đấng bảo vệ nhi đồng phải hồn phách
ngất ngư con tầu đi.
Bánh Trung thu mà bàn dân thiên hạ được ẩm thực vào đêm rằm lúc bóng trăng đã xế tà sau khi đã nghe dăm bẩy bài diễn văn, rước đèn vài cây số và hoan hô vỗ tay sướt cò bợ ra là cái bánh đã được chế ra cách đó chừng 4 tháng trước. Bởi rằng thì là đại xưởng nào cũng muốn tung bánh ra thị trường trước để rước mối, hóa cho nên cái sự điều chế nó mới sớm sủa kỹ như vậy. Bánh chế ra rất là vệ sinh. Có cả viện Pasteur phân chất kia đấy ; nhãn hiệu cũng đã được cầu chứng tại tòa, kẻ nào mà giả mạo cầm nhầm là cứ vác chiếu ra ba tòa quan nhớn, cái gương bánh bao bác Cả Cần còn rành rành ra đấy, coi chừng! Nếu thầy Lang Pát-Tưa có gặp cái bánh Trung thu phân chất rồi cũng phải sống lại mà khóc thét rồi mới chết nữa được. Bởi lẽ vì cái bánh đem phân chất ấy chỉ có tính cách trình diễn, còn bao nhiêu thì làm bằng cái gì có thánh biết. Chỉ biết rằng: Bàn dân thiên hạ đừng có tin vào cái nền quảng cáo của cái xứ này mà có ngày đi tầu suốt. Bánh đậu xanh ngon lắm! Sức mấy, khoai lang đấy. Đậu xanh đào đâu ra mà làm, đừng tưởng bở. Thập cẩm hột gà? Ôi sao mà quí hóa thế? Nào mè, nào hạt dưa, nào lạp xưởng, nào hạt sen, nào quế, nào đủ thứ... thập cẩm. Ngon lắm, xơi vào là bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ. Bổ hơn cao hổ cốt, sâm nhung nữa đấy, nhưng bổ rồi thì lên luôn con tầu suốt không có ngày về thưởng trăng. Bởi lẽ cái chất ngọt và béo ngậy ấy được các nhà bào chế rút ra từ đường hóa học và bầy heo tịch đã được lệnh các vị thú y tức lang gia súc bắt chôn từ khuya, nay được moi lên. Mỡ heo tịch làm bánh ai biết. Thịt nạc làm lạp xưởng, xương nấu tàu vị yểu – da làm bóng phơi khô, bán dần. Vẽ vời chôn với cất mất công phí của! Thời buổi này mà phí phạm là có tội đấy! Nếu nhân dân được phép tham quan – xin lỗi các đấng thuổng nhờ tí nhé – các xưởng chế bánh Trung thu tất hồn phách phải mất thăng bằng, có khi còn tiêu diêu nơi cõi thọ là đằng khác. Bánh nướng nhân khoai tục gọi là bánh đậu xanh chế rất tinh vi hợp vệ sinh lắm. Khoai lang luộc tán nhỏ trộn đường hóa học thêm chút dầu chuối là thành bánh đậu xanh vốn liếng là mấy! Bánh thập cẩm lại càng rùng rợn hơn. Mỗi "cẩm" một chậu, tay đuổi ruồi tay trộn nhân. Ngứa đâu gãi đấy, khuất mắt ai coi! Ôi bàn tay năm ngón của miêu duệ Sầm Nghi Đống thì hết chỗ chê!
Quí
vị ăn chay niệm Phật hả? Được ngay, quí vị cũng có bánh chay trăm phần
trăm. Mô Phật sao mà phúc đức thế! Xin tam bảo phù trì nền bánh Trung
Thu đất nước này. Thế nhưng, kính thưa chư Phật tử, làm gì có dầu, có
đậu, quí vị đang được thưởng thức mỡ heo và đường hóa học đấy.
Đại
khái thì nền bánh Trung thu của ta là như vậy đấy, thế mà thiên hạ cứ
xếp hàng một mà mua như chờ phát chẩn không bằng, lại còn rủ nhau: một
hai ba chúng ta mua bánh cả làng!
Ngoài
khoản bánh, người ta phải kể đến vụ nhộn nhịp, cờ xí, trống phách, chũm
chọe ngậu xị họ lên đó là Múa Lân, có nơi còn gọi là múa sư tử chả biết
ai đúng. Nhưng có điều đã gọi là tết nhi đồng thì mọi chuyện cứ để cho
nhi đồng vui vẻ, đằng này người lớn bầy vẽ lập hội múa lân mục đích để
kiếm tí tiền còm. Cái mục đích này nó lâm ly và vất vả lắm. Trước hết
ông Chủ hội phải làm một màn đi trước, nghĩa là đi gạ xem gia chủ nào
bằng lòng rước lân để cầu an làm ăn khấm khá thì hội sẽ hẹn giờ vác đầu
lân và đoàn tùy tùng tới. Dĩ nhiên khoản tiền còm đã được định trước.
Khi
lân đến, gia chủ mở cửa, lân sẽ làm một pha vái chào rất ư là lễ phép.
Càng lễ phép gia chủ càng hả hê có thể thêm địa là đằng khác. Sau đó là
màn nhẩy múa, vờn địa, cắn đuôi, vờ tìm trái cầu v.v... nghĩa là mệt
lắm. Nhưng nếu mồ hôi cục đã chảy ra, lân có quyền vờ vĩnh nằm nghỉ
nhưng mắt vẫn chớp lia lịa. Hết một màn nhẩy, lộn lại bắt đầu chừng vài
ba pha là lân bắt đầu khều tiền. Mục này là mục vất vả nhất. Nếu hội nào
bị tổ trác có chầu gẫy xương, vỡ mặt. Gia chủ buộc tiền thưởng lên chỗ
cao hiểm hóc, lân phải công kênh nhau hết thang ngắn đến thang dài mới
hòng khều nổi. Ôi nghệ thuật kiếm tiền quả hốc hác thật.
Đệ
tam món Trung Thu là đèn giấy, nó cũng được xếp vào loại tối quan trọng
của ngày rằm. Thiếu đèn kể như bất thành Trung Thu, lời các đấng nhi
đồng đã dậy thế.
Ngày
xưa đèn Trung thu nó giản dị lắm, lơ thơ vài kiểu rất là hòa bình như
đèn mặt trăng, đèn củ ấu, đèn kéo quân tục gọi là đèn cù. Nhưng ngày nay
nền đèn đóm đã đến thời kỳ lạm phát đầy vẻ thời trang. Người nhớn nhà
buôn khôn lắm biết gãi đúng chỗ ngứa của búp bê, phục vụ búp bê hết mình
nhưng không phải để làm phước đâu nhé, họ khều tiền đấy. Phe kẹp tóc
thì có đèn bươm bướm, đèn bông huệ, bông hồng, con thỏ, bù câu. Phe húi
cua thì có đèn xe tăng, tầu lặn, trung liên, tàu bay, ngựa chiến, bét
men... Cũng có đấng nhi đồng khéo tay làm lấy, nghệ thuật rất tinh vi
lại còn có vẻ thời trang tân kỳ. Chỉ cần một lon cô-ca, một ống chỉ, một
cây que thế là một đèn Trung thu tự động ra đời, rọt rẹt cả đêm ngoài
đường không sợ bà hỏa hỏi thăm như nền đèn giấy.
Kể
ra thì mấy món ăn chơi Trung thu quả có tốn kém vung vít nhưng không ai
dám nhổ rễ nó lên bởi rằng thì là nó đã trở nên cái màu mè, hình thể
của ngày đó rồi. Nó ngồi chồm chỗm trong đầu mỗi người chỉ cần nghe
tiếng gọi Trung Thu là nó hiện ra một cách rất sốt sắng rõ mồn một: Bánh
dẻo bánh nướng đèn giấy đèn hoa, múa Lân chũm chọe. Như vậy thì làm sao
mà chia ly được! Có nên tìm một hình thức vui vẻ nào khác có tính cách
giáo dục, xã hội, văn nghệ không hay cứ phải ôm lấy nó sợ nó vuột mất là
hết Trung thu? Khó thật.
HUY YÊN
(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 106, ra ngày 7-9-1973)