CHƯƠNG I
Tôi không thể nào quên được buổi nói chuyện với cô
tôi chiều hôm ấy. Buổi chiều quận lỵ vẫn buồn, nhất là vào lúc mặt trời
lịm tắt. Chiều tím dâng lên, quạnh hiu len lén theo về thường gợi nên
những cảm xúc bâng khuâng man mác.
Cô cháu tôi vẫn có thói quen, cứ mỗi chiều ra ngoài hàng hiên nhìn ra thửa vườn trải rộng trước nhà, vừa hóng mát vừa chuyện trò thủ thỉ với nhau. Đó là những chiều hạnh phúc, những giây phút êm đềm trong suốt quãng đời thơ ấu của tôi.
Cô tôi là một góa phụ. Duyên phận của cô tôi thực hẩm hiu. Chú tôi sớm lìa trần giữa lúc cô tôi còn xuân sắc, và không để lại cho cô đứa con nào. Cô là em ruột của cha tôi, và vì cha mẹ tôi gặp nạn chết cả hai trong một vụ đắm tàu, nên cô tôi nuôi dưỡng tôi từ nhỏ tới nay. Cô không thể nào quên được đêm hãi hùng đó, một đêm giông bão đã chôn vùi người anh thân yêu của cô vào lòng biển cả. Cô là người sống sót và may thay cứu thoát được tôi.
Từ đó cô ấp ủ tôi trong tình thương yêu ruột thịt, quãng đời thơ ấu của tôi trôi qua êm đềm ở quận Phong Điền này, nơi cô tôi được bổ đến dạy học và lập nên sản nghiệp gồm mấy mẫu vườn với một ngôi nhà khá khang trang.
Chiều chiều cô cháu tôi ngồi trước hiên nhà. Tôi lơ đãng nhìn những tia vàng thoi thóp ngoài vườn, thả hồn theo những cánh chim bay về tổ, tâm trí thanh thản, yên vui bên cạnh cô tôi. Cô tôi thường đem chuyện đắm tàu ra kể, hình như tai nạn đau buồn xảy ra cách đây trên mười năm vẫn còn là một kỷ niệm chưa phai. Chuyện đã xa rồi, cái đêm hãi hùng đó. Nhưng qua lời cô tôi kể lại, tôi vẫn thấy xúc động. Tuổi khôn hiểu biết, tôi ý thức được mặc dù cô tôi rất mực thương yêu tôi nhưng tôi vẫn là một đứa con côi.
Tôi ray rứt muốn biết hai đấng sinh thành của tôi ra sao, thuộc hạng người nào? Tôi thường hỏi cô tôi có còn nhớ gương mặt của Ba tôi không? Ba tôi hiền hay dữ? Còn Má tôi đẹp xấu thế nào? Tôi giống Ba tôi hay Má tôi?
Những câu hỏi tương tự, liên quan ít nhiều đến hai người quá cố, làm cô tôi bùi ngùi. Cô rưng rưng nước mắt vuốt ve tôi, mô tả đại khái: Tôi có cặp mắt giống cha, cặp mắt to đen biểu lộ tính ôn hòa ngay thẳng, có cái miệng giống mẹ, lúc cười tươi như... cái hoa rau muống! Dễ thương vô cùng!
Bao nhiêu câu hỏi với bao nhiêu chi tiết được trả lời tôi vẫn không hình dung nổi cha mẹ tôi ra sao. Điều bất hạnh là cô tôi không giữ được tấm ảnh nào của cha mẹ tôi cả.
Tôi cũng biết thêm rằng cha tôi là một nhà giáo, gốc người miền Bắc. Hồi tôi mới sinh ra, cha tôi đang dạy học ở một trường Trung học thuộc tỉnh Nghệ An. Cô tôi lúc ấy theo chồng vào Nam lập nghiệp rồi trở thành góa phụ. Được tin anh chị mới sinh cháu, cô ra thăm. Rồi sẵn dịp bãi trường cô đón cha mẹ tôi vào nghỉ hè với cô luôn.
Con tàu chúng tôi đi là con tàu định mệnh. Đáng lý chúng tôi có thể đi bằng đường hỏa xa, nhưng cha tôi lại muốn du hành bằng đường thủy. Ông muốn nhân dịp nhàn rỗi lênh đênh ít ngày với trời cao biển rộng. Chúng tôi xuống tàu Bạch Phượng của hãng Ba Sao đang cất hàng tại Bến Thủy. Tàu rời bến yên ổn. Qua đêm hôm sau khi vào hải phận Nha Trang thì giông bão nổi lên. Bị lạc hướng, chiếc Bạch Phượng va vào đá ngầm, chìm lỉm... Chỉ một số ít người sống sót, trong số đó có cô cháu tôi.
Cuộc đời đầu tiên của tôi thực bi đát. Nhưng bù lại tôi được cô tôi cưng chiều và coi như con ruột. Mái nhà này, khu vườn cây trái này, quận lỵ nhỏ bé này bây giờ là quê hương của tôi. Tôi đang hưởng trọn hạnh phúc bên cạnh cô tôi, sống thanh thản với các bạn bè trong lớp học thì... Bỗng nhiên cô tôi cho tôi biết một sự thực phũ phàng!
Cô cháu tôi vẫn có thói quen, cứ mỗi chiều ra ngoài hàng hiên nhìn ra thửa vườn trải rộng trước nhà, vừa hóng mát vừa chuyện trò thủ thỉ với nhau. Đó là những chiều hạnh phúc, những giây phút êm đềm trong suốt quãng đời thơ ấu của tôi.
Cô tôi là một góa phụ. Duyên phận của cô tôi thực hẩm hiu. Chú tôi sớm lìa trần giữa lúc cô tôi còn xuân sắc, và không để lại cho cô đứa con nào. Cô là em ruột của cha tôi, và vì cha mẹ tôi gặp nạn chết cả hai trong một vụ đắm tàu, nên cô tôi nuôi dưỡng tôi từ nhỏ tới nay. Cô không thể nào quên được đêm hãi hùng đó, một đêm giông bão đã chôn vùi người anh thân yêu của cô vào lòng biển cả. Cô là người sống sót và may thay cứu thoát được tôi.
Từ đó cô ấp ủ tôi trong tình thương yêu ruột thịt, quãng đời thơ ấu của tôi trôi qua êm đềm ở quận Phong Điền này, nơi cô tôi được bổ đến dạy học và lập nên sản nghiệp gồm mấy mẫu vườn với một ngôi nhà khá khang trang.
Chiều chiều cô cháu tôi ngồi trước hiên nhà. Tôi lơ đãng nhìn những tia vàng thoi thóp ngoài vườn, thả hồn theo những cánh chim bay về tổ, tâm trí thanh thản, yên vui bên cạnh cô tôi. Cô tôi thường đem chuyện đắm tàu ra kể, hình như tai nạn đau buồn xảy ra cách đây trên mười năm vẫn còn là một kỷ niệm chưa phai. Chuyện đã xa rồi, cái đêm hãi hùng đó. Nhưng qua lời cô tôi kể lại, tôi vẫn thấy xúc động. Tuổi khôn hiểu biết, tôi ý thức được mặc dù cô tôi rất mực thương yêu tôi nhưng tôi vẫn là một đứa con côi.
Tôi ray rứt muốn biết hai đấng sinh thành của tôi ra sao, thuộc hạng người nào? Tôi thường hỏi cô tôi có còn nhớ gương mặt của Ba tôi không? Ba tôi hiền hay dữ? Còn Má tôi đẹp xấu thế nào? Tôi giống Ba tôi hay Má tôi?
Những câu hỏi tương tự, liên quan ít nhiều đến hai người quá cố, làm cô tôi bùi ngùi. Cô rưng rưng nước mắt vuốt ve tôi, mô tả đại khái: Tôi có cặp mắt giống cha, cặp mắt to đen biểu lộ tính ôn hòa ngay thẳng, có cái miệng giống mẹ, lúc cười tươi như... cái hoa rau muống! Dễ thương vô cùng!
Bao nhiêu câu hỏi với bao nhiêu chi tiết được trả lời tôi vẫn không hình dung nổi cha mẹ tôi ra sao. Điều bất hạnh là cô tôi không giữ được tấm ảnh nào của cha mẹ tôi cả.
Tôi cũng biết thêm rằng cha tôi là một nhà giáo, gốc người miền Bắc. Hồi tôi mới sinh ra, cha tôi đang dạy học ở một trường Trung học thuộc tỉnh Nghệ An. Cô tôi lúc ấy theo chồng vào Nam lập nghiệp rồi trở thành góa phụ. Được tin anh chị mới sinh cháu, cô ra thăm. Rồi sẵn dịp bãi trường cô đón cha mẹ tôi vào nghỉ hè với cô luôn.
Con tàu chúng tôi đi là con tàu định mệnh. Đáng lý chúng tôi có thể đi bằng đường hỏa xa, nhưng cha tôi lại muốn du hành bằng đường thủy. Ông muốn nhân dịp nhàn rỗi lênh đênh ít ngày với trời cao biển rộng. Chúng tôi xuống tàu Bạch Phượng của hãng Ba Sao đang cất hàng tại Bến Thủy. Tàu rời bến yên ổn. Qua đêm hôm sau khi vào hải phận Nha Trang thì giông bão nổi lên. Bị lạc hướng, chiếc Bạch Phượng va vào đá ngầm, chìm lỉm... Chỉ một số ít người sống sót, trong số đó có cô cháu tôi.
Cuộc đời đầu tiên của tôi thực bi đát. Nhưng bù lại tôi được cô tôi cưng chiều và coi như con ruột. Mái nhà này, khu vườn cây trái này, quận lỵ nhỏ bé này bây giờ là quê hương của tôi. Tôi đang hưởng trọn hạnh phúc bên cạnh cô tôi, sống thanh thản với các bạn bè trong lớp học thì... Bỗng nhiên cô tôi cho tôi biết một sự thực phũ phàng!
*
Cô tôi đặt tách nước trà xuống mặt bàn. Tách nước
được nhắc lên nhắc xuống nhiều lần nhưng vẫn còn đầy. Hình như cô tôi
chỉ nhấm nháp cho khỏi khô miệng chứ không uống. Tôi để ý nhìn cô.
Gương mặt cô xanh tái. Cách đây vài tuần cô tôi gặp một tai nạn bất
ngờ. Hôm ấy nhằm ngày chủ nhật, cô tôi lấy xe, đạp lên chợ quận mua ít
thức cần dùng. (Tuy đã ngoài bốn mươi, cô tôi vẫn còn khỏe mạnh tháo
vát lắm). Đang đi bỗng một con nghé bỏ bờ cỏ ven đường chạy ngang sang
bên kia tìm mẹ. Vội tránh con vật, cô tôi lạng tay lái, phóng ngã xuống
ruộng. Cô tôi ngất đi vì đau. May thay, có người trông thấy vội
khiêng vào nhà thương. Ông cán sự y tế tận tâm băng bó, chạy chữa và
rất hài lòng về kết quả điều trị của ông. Chỉ sau một tuần nằm bệnh xá
cô tôi đã bình phục. Nhưng sau tai nạn bất ngờ ấy, cô tôi có vẻ băn
khoăn, trầm lặng trái với tính vui vẻ, cởi mở của cô thường ngày.
Thấy vẻ khác lạ nơi cô, tôi lo lắng hỏi:
- Cô sao thế? Cô có mệt không?
Cô tôi lắc đầu:
- Cô không sao cả con ạ!
Tôi chưa tin, khẩn khoản:
- Hay cô vô trong nhà nằm nghỉ chút đi. Con đỡ cô vào nhé?
- Con cứ để cô ngồi ngoài nầy, Khánh ạ, (Khánh là tên tôi). Con cũng ngồi yên đó đi.
Tôi ngồi yên nhìn sững cô tôi. Cô tiếp:
- Cô định nói với con một chuyện... song... khó nói quá! Cô muốn thú thật với con một điều mà chẳng biết có nên không?
Tôi nắm lấy tay cô tôi:
- Có chuyện gì mà khó nói? Có chuyện gì mà cô phải thú thật với con? Con là con của cô mà!
Bàn tay cô tôi ẩm mồ hôi. Cô thẫn thờ nói:
- Ừ, Khánh là con của cô. Cô vẫn cám ơn Trời Phật đã ban cho cô có con ở bên cạnh. Tại cô thương con nên cô mới lưỡng lự như cô đã lưỡng lự từ trước đến nay. Có một sự thật mà cô nghĩ... không thể che giấu mãi được... Con có biết năm nay con bao nhiêu tuổi rồi không?
Trời! Tôi bao nhiêu tuổi? Không chừng cô tôi lẩn thẩn mất rồi!
Tôi đáp:
- Năm nay con 15 tuổi.
- Phải, mười lăm năm trời trôi qua! Con đã lớn khôn, khỏe mạnh... Cô tin rằng điều cô sắp nói không làm con kinh sợ...
Tôi lo ngại thầm nghĩ: Có lẽ tai nạn vừa qua đã làm thần kinh của cô xáo trộn? Người ta thường bảo: Những người lớn tuổi bị ngã, đầu va mạnh xuống đất, có thể bị lãng trí. Liệu cô tôi có ở trong trường hợp này không?
Tôi lắc tay cô:
- Cô nói gì vậy, cô? Cô làm con sợ quá hà!
Trầm ngâm giây lát, cô tôi thở dài, nói:
- Con nên hiểu cho tình cảnh của cô lúc ấy...
- Lúc ấy là lúc nào?
- Lúc xảy ra vụ đắm tàu...
Tôi thở ra:
- Lại chuyện đó nữa! Thì cô đã kể hết con nghe rồi. Con biết cha mẹ con đã chết cả. Con chỉ còn lại có mình cô. Con được cô thương yêu chăm sóc như con ruột, thế là đủ rồi.
- Đúng thế, nhưng còn một chi tiết cô chưa nói cho con biết... về một đứa trẻ...
Giọng cô tôi trở nên khó khăn. Cô nói như mê sảng:
- ... Một đứa con trai... bụ bẫm, kháu khỉnh... Lúc nước ùa vào tàu, mọi người hoảng hốt, tán loạn... Trời, cháu không thể nào tưởng tượng nổi đêm kinh hoàng đó đâu.
- Ủa... Cô nói đứa con trai nào?
- Đứa nhỏ lạc vào tay một người đàn bà lạ... Tàu nặng, sóng lớn... ai cũng cuống lên, lo cứu lấy mạng mình, nhất là các bà mẹ có con còn kêu gào thê thảm. Phần đông gia đình bị lạc nhau. Mạnh ai người ấy nhảy xuống xuồng cấp cứu, hoặc vớ lấy những chiếc phao, được thả xuống nước. Một chiếc xuồng đầy người bị ngọn sóng nhận chìm trước mắt cô. Người đàn bà bồng đứa nhỏ ở trên chiếc xuống đó. Cô thấy rõ ràng nhờ ánh đèn pha trên tàu chiếu xuống. Đứa nhỏ còn mặc chiếc áo len màu đỏ chính tay cô đan cho nó...
Cô tôi bưng mặt khóc. Tôi quàng tay ôm trọn vai cô:
- Cô bình tĩnh lại đi, cô...
Nhưng một cảm giác giá lạnh xâm nhập vào cơ thể tôi. Tôi không thể nào không hỏi:
- Đứa bé mặc chiếc áo len đỏ đó là ai vậy cô?
- Nó là thằng Cường, cháu của cô, con đẻ của người anh cùng đi với cô một chuyến tàu.
- Ồ!... Như vậy Cường là anh em với con hả cô?
- Không, Khánh ơi! Cô chỉ có mình nó là cháu ruột... chỉ mình nó mà thôi.
Tôi lặng người, run giọng:
- Không, không phải! Chính con mới là cháu ruột của cô.
Tuy nhiên tôi hiểu ngay rằng cô tôi đã nói thật, và tôi không thể nào ngăn nổi nước mắt. Tôi ngồi khóc với cô tôi, nghẹn ngào, nức nở.
Bản tính tôi không yếu đuối, nhưng sự thật cô tôi vừa nói đã gây xúc động mãnh liệt trong lòng tôi. Cô tôi nói:
- Cô tính nói thật khéo cho con hiểu, mà cô vụng về quá. Con đừng buồn nghe Khánh!
Tôi nuốt nước mắt:
- Sự thật đã như vậy, cô hãy cho con biết con là ai?
- Cô cũng không rõ nữa. Hồi đó con là một hài nhi bị lạc. Một thủy thủ trên tàu bồng con, bối rối, không biết trao trả cho ai, luôn miệng hỏi:
"Đứa trẻ này của ai đây?"
Cô liền nói: "Của tôi". Và cô đón lấy con... nuôi cho tới bây giờ.
- Còn cha mẹ con đâu?
Cô tôi buồn bã lắc đầu:
- Chẳng biết sống chết ra sao nữa! Sau tai nạn, cô có dọ hỏi, tìm kiếm... Đất nước ta hồi ấy xảy ra nhiều biến cố quan trọng. Cuộc di cư của một triệu dân miền bắc vĩ tuyến vào Nam đã làm xáo trộn tất cả. Không ai nhớ đến vụ đắm tàu và số ít người mất tích ở ngoài khơi xảy ra trước đó nữa. Sự dò hỏi của cô qua các cơ quan liên hệ không đem lại kết quả nào. Hãng tàu còn lo chuyên chở những người di cư, vấn đề cấp bách và quan trọng hơn việc tìm kiếm thân nhân một đứa trẻ bị thất lạc. Điều làm lương tâm cô áy náy không yên là cô đã không mấy sốt sắng, kiên trì trong việc tìm kiếm cha mẹ của cháu.
Cô muốn giữ con, để mọi người lầm tưởng con đích thật là cháu ruột của cô. Hồi chị dâu của cô, má thằng Cường, sinh ra nó, cô có khoe với mọi người, nhưng không ai biết đứa cháu ấy là trai hay gái...
Tôi thở dài:
- Con hiểu rồi! Cô muốn con thay thế cho... Cường! Thế từ dạo ấy đến nay có ai tìm kiếm con không?
- Không!
Tai tôi ù đi, đầu óc choáng váng. Mới trước đây một tiếng đồng hồ, tôi còn có gia đình, có quê hương, có tên gọi. Tôi đang sống hạnh phúc, yên trí rằng tôi là Nguyễn Bảo Khánh, cháu gái bà Nguyễn Thục Trinh... Rồi bỗng nhiên tất cả đảo lộn. Tôi là ai đây, hở trời! Tôi là một con người không có tông tích. Nguyễn Bảo Khánh đâu phải tên thật của tôi!
Cô tôi vẫn ôm mặt khóc, âm thầm nức nở. Tôi thấy cô thật tội nghiệp. Tôi nghẹn ngào nói:
- Cô đừng khóc. Con không oán trách gì cô đâu. Cô chẳng đã là mẹ của con sao?
Cô ôm chầm lấy tôi:
- Cô biết con thương cô, và cô cũng thương con lắm. Con đừng nghĩ ngợi làm gì cho khổ tâm nghe con!
- Làm sao con không nghĩ ngợi cho được! Nhưng tại sao cô không giữ kín sự thật ấy luôn, lại nói ra cho khổ cả cô lẫn cháu?
- Tại cô sợ. Tai nạn vừa qua tuy là một cái nạn nhỏ, rất tầm thường cũng làm cô suýt chết. Bởi vậy, cô cứ băn khoăn về hành động của cô đã làm, dù chỉ để tạo hạnh phúc chung của chúng ta. Bây giờ cô đã cho Khánh biết tất cả sự thật, cô thấy lương tâm cũng đỡ bị ray rứt. Gợi lại những kỷ niệm đau thương bao giờ cũng buồn. Nhưng nỗi buồn rồi sẽ khuây, và mọi sự sẽ lại như trước Khánh ạ!...
Tôi không nói gì. Nhưng tôi thầm nghĩ: Không thể nào còn như trước được nữa.
Thấy vẻ khác lạ nơi cô, tôi lo lắng hỏi:
- Cô sao thế? Cô có mệt không?
Cô tôi lắc đầu:
- Cô không sao cả con ạ!
Tôi chưa tin, khẩn khoản:
- Hay cô vô trong nhà nằm nghỉ chút đi. Con đỡ cô vào nhé?
- Con cứ để cô ngồi ngoài nầy, Khánh ạ, (Khánh là tên tôi). Con cũng ngồi yên đó đi.
Tôi ngồi yên nhìn sững cô tôi. Cô tiếp:
- Cô định nói với con một chuyện... song... khó nói quá! Cô muốn thú thật với con một điều mà chẳng biết có nên không?
Tôi nắm lấy tay cô tôi:
- Có chuyện gì mà khó nói? Có chuyện gì mà cô phải thú thật với con? Con là con của cô mà!
Bàn tay cô tôi ẩm mồ hôi. Cô thẫn thờ nói:
- Ừ, Khánh là con của cô. Cô vẫn cám ơn Trời Phật đã ban cho cô có con ở bên cạnh. Tại cô thương con nên cô mới lưỡng lự như cô đã lưỡng lự từ trước đến nay. Có một sự thật mà cô nghĩ... không thể che giấu mãi được... Con có biết năm nay con bao nhiêu tuổi rồi không?
Trời! Tôi bao nhiêu tuổi? Không chừng cô tôi lẩn thẩn mất rồi!
Tôi đáp:
- Năm nay con 15 tuổi.
- Phải, mười lăm năm trời trôi qua! Con đã lớn khôn, khỏe mạnh... Cô tin rằng điều cô sắp nói không làm con kinh sợ...
Tôi lo ngại thầm nghĩ: Có lẽ tai nạn vừa qua đã làm thần kinh của cô xáo trộn? Người ta thường bảo: Những người lớn tuổi bị ngã, đầu va mạnh xuống đất, có thể bị lãng trí. Liệu cô tôi có ở trong trường hợp này không?
Tôi lắc tay cô:
- Cô nói gì vậy, cô? Cô làm con sợ quá hà!
Trầm ngâm giây lát, cô tôi thở dài, nói:
- Con nên hiểu cho tình cảnh của cô lúc ấy...
- Lúc ấy là lúc nào?
- Lúc xảy ra vụ đắm tàu...
Tôi thở ra:
- Lại chuyện đó nữa! Thì cô đã kể hết con nghe rồi. Con biết cha mẹ con đã chết cả. Con chỉ còn lại có mình cô. Con được cô thương yêu chăm sóc như con ruột, thế là đủ rồi.
- Đúng thế, nhưng còn một chi tiết cô chưa nói cho con biết... về một đứa trẻ...
Giọng cô tôi trở nên khó khăn. Cô nói như mê sảng:
- ... Một đứa con trai... bụ bẫm, kháu khỉnh... Lúc nước ùa vào tàu, mọi người hoảng hốt, tán loạn... Trời, cháu không thể nào tưởng tượng nổi đêm kinh hoàng đó đâu.
- Ủa... Cô nói đứa con trai nào?
- Đứa nhỏ lạc vào tay một người đàn bà lạ... Tàu nặng, sóng lớn... ai cũng cuống lên, lo cứu lấy mạng mình, nhất là các bà mẹ có con còn kêu gào thê thảm. Phần đông gia đình bị lạc nhau. Mạnh ai người ấy nhảy xuống xuồng cấp cứu, hoặc vớ lấy những chiếc phao, được thả xuống nước. Một chiếc xuồng đầy người bị ngọn sóng nhận chìm trước mắt cô. Người đàn bà bồng đứa nhỏ ở trên chiếc xuống đó. Cô thấy rõ ràng nhờ ánh đèn pha trên tàu chiếu xuống. Đứa nhỏ còn mặc chiếc áo len màu đỏ chính tay cô đan cho nó...
Cô tôi bưng mặt khóc. Tôi quàng tay ôm trọn vai cô:
- Cô bình tĩnh lại đi, cô...
Nhưng một cảm giác giá lạnh xâm nhập vào cơ thể tôi. Tôi không thể nào không hỏi:
- Đứa bé mặc chiếc áo len đỏ đó là ai vậy cô?
- Nó là thằng Cường, cháu của cô, con đẻ của người anh cùng đi với cô một chuyến tàu.
- Ồ!... Như vậy Cường là anh em với con hả cô?
- Không, Khánh ơi! Cô chỉ có mình nó là cháu ruột... chỉ mình nó mà thôi.
Tôi lặng người, run giọng:
- Không, không phải! Chính con mới là cháu ruột của cô.
Tuy nhiên tôi hiểu ngay rằng cô tôi đã nói thật, và tôi không thể nào ngăn nổi nước mắt. Tôi ngồi khóc với cô tôi, nghẹn ngào, nức nở.
Bản tính tôi không yếu đuối, nhưng sự thật cô tôi vừa nói đã gây xúc động mãnh liệt trong lòng tôi. Cô tôi nói:
- Cô tính nói thật khéo cho con hiểu, mà cô vụng về quá. Con đừng buồn nghe Khánh!
Tôi nuốt nước mắt:
- Sự thật đã như vậy, cô hãy cho con biết con là ai?
- Cô cũng không rõ nữa. Hồi đó con là một hài nhi bị lạc. Một thủy thủ trên tàu bồng con, bối rối, không biết trao trả cho ai, luôn miệng hỏi:
"Đứa trẻ này của ai đây?"
Cô liền nói: "Của tôi". Và cô đón lấy con... nuôi cho tới bây giờ.
- Còn cha mẹ con đâu?
Cô tôi buồn bã lắc đầu:
- Chẳng biết sống chết ra sao nữa! Sau tai nạn, cô có dọ hỏi, tìm kiếm... Đất nước ta hồi ấy xảy ra nhiều biến cố quan trọng. Cuộc di cư của một triệu dân miền bắc vĩ tuyến vào Nam đã làm xáo trộn tất cả. Không ai nhớ đến vụ đắm tàu và số ít người mất tích ở ngoài khơi xảy ra trước đó nữa. Sự dò hỏi của cô qua các cơ quan liên hệ không đem lại kết quả nào. Hãng tàu còn lo chuyên chở những người di cư, vấn đề cấp bách và quan trọng hơn việc tìm kiếm thân nhân một đứa trẻ bị thất lạc. Điều làm lương tâm cô áy náy không yên là cô đã không mấy sốt sắng, kiên trì trong việc tìm kiếm cha mẹ của cháu.
Cô muốn giữ con, để mọi người lầm tưởng con đích thật là cháu ruột của cô. Hồi chị dâu của cô, má thằng Cường, sinh ra nó, cô có khoe với mọi người, nhưng không ai biết đứa cháu ấy là trai hay gái...
Tôi thở dài:
- Con hiểu rồi! Cô muốn con thay thế cho... Cường! Thế từ dạo ấy đến nay có ai tìm kiếm con không?
- Không!
Tai tôi ù đi, đầu óc choáng váng. Mới trước đây một tiếng đồng hồ, tôi còn có gia đình, có quê hương, có tên gọi. Tôi đang sống hạnh phúc, yên trí rằng tôi là Nguyễn Bảo Khánh, cháu gái bà Nguyễn Thục Trinh... Rồi bỗng nhiên tất cả đảo lộn. Tôi là ai đây, hở trời! Tôi là một con người không có tông tích. Nguyễn Bảo Khánh đâu phải tên thật của tôi!
Cô tôi vẫn ôm mặt khóc, âm thầm nức nở. Tôi thấy cô thật tội nghiệp. Tôi nghẹn ngào nói:
- Cô đừng khóc. Con không oán trách gì cô đâu. Cô chẳng đã là mẹ của con sao?
Cô ôm chầm lấy tôi:
- Cô biết con thương cô, và cô cũng thương con lắm. Con đừng nghĩ ngợi làm gì cho khổ tâm nghe con!
- Làm sao con không nghĩ ngợi cho được! Nhưng tại sao cô không giữ kín sự thật ấy luôn, lại nói ra cho khổ cả cô lẫn cháu?
- Tại cô sợ. Tai nạn vừa qua tuy là một cái nạn nhỏ, rất tầm thường cũng làm cô suýt chết. Bởi vậy, cô cứ băn khoăn về hành động của cô đã làm, dù chỉ để tạo hạnh phúc chung của chúng ta. Bây giờ cô đã cho Khánh biết tất cả sự thật, cô thấy lương tâm cũng đỡ bị ray rứt. Gợi lại những kỷ niệm đau thương bao giờ cũng buồn. Nhưng nỗi buồn rồi sẽ khuây, và mọi sự sẽ lại như trước Khánh ạ!...
Tôi không nói gì. Nhưng tôi thầm nghĩ: Không thể nào còn như trước được nữa.
*
Tuy nhiên cuộc sống vẫn cứ tiếp tục. Cô tôi được
phép nghỉ dưỡng bệnh ở nhà và vì sắp tới kỳ hè nên mãi niên khóa sau cô
mới phải đi dạy lại. Tôi quanh quẩn suốt ngày bên cô, quanh quẩn trong
ngôi nhà rộng lớn mà từ lâu nay tôi vẫn nhận là "nhà" của tôi. Trong
nhà có hai người giúp việc: già Lãm chăm sóc ngoài vườn; thím Năm lo
việc nhà cửa bếp nước. Cả hai ở với cô tôi từ ngày tôi còn thơ dại. Họ
thuộc hàng thân thích trong nhà, những cũng như các gia nhân tín cẩn,
họ chỉ mải lo công việc được giao phó mà rất ít nói. Sự kín đáo của họ
không an ủi được tôi trong lúc này.
Tôi đâm ra mơ mộng, buồn rầu. Tất cả, từ những đồ đạc trong nhà, cây cối ngoài vườn, ngay cả chính căn phòng riêng của tôi cũng đều trở thành xa lạ.
Ôi, cô thương yêu, cô đã chiếm hữu một hài nhi thất lạc như một đứa trẻ thiếu đồ chơi vớ được con búp bê... vô chủ.
Nhưng tôi đâu phải là con búp bê... hay con chó nhỏ!
Tôi là một con người và đến tuổi trưởng thành phải hướng vào tương lai, phải đối diện với cuộc đời. Tôi rất cảm kích, biết ơn bà "mẹ nuôi" của tôi, nhưng giá bà cho tôi biết sự thật này sớm hơn, từ ngày tôi bắt đầu hiểu biết thì có lẽ hạnh phúc của chúng tôi không đến nỗi bị lung lay một cách đột ngột. Bây giờ thì đã quá muộn. Tôi không tài nào lấy lại được sự thơ thới của tâm hồn. Tuy chúng tôi đều tránh không nhắc đến chuyện đắm tàu nữa, nhưng tôi vẫn cứ băn khoăn nghĩ tới, và một hôm tôi hỏi cô tôi:
- Cô nhỉ, biết đâu con chẳng phải là người Tàu, người Mên, hay thuộc một dòng giống nào khác?
Cô tôi cười nhẹ:
- Con là người Việt, người Việt chính cống như cô vậy! Có điều... con là người Việt miền Nam...
Như tôi đã nói: Cô tôi gốc người miền Bắc. Nhưng cô xuất giá theo chồng vào Nam từ năm 18 tuổi – Chú tôi gốc người miền Nam – nên cô tôi am hiểu tập quán và nói rành giọng nói của cả hai miền.
Cô nâng cằm tôi lên, vuốt ve mái tóc đen mướt của tôi nói:
- Cháu hỏi kỳ cục quá. Cái mặt cháu như thế này mà bảo là người Tàu hay Mên sao được.
Tôi gặng thêm:
- Nhưng làm sao cô biết chắc cháu là người miền Nam?
- Thì... hồi tàu đắm, người thủy thủ bồng cháu có trao cho cô một bức ảnh thánh loại nhỏ, in hình Đức Mẹ ban ơn, ghim ở mép chăn đắp trên mình cháu. Phía sau tấm ảnh có chép bài kinh cầu theo giọng miền Nam. Cô phân biệt được ở các chữ "ơn phúc" và "ơn phước" "nhân lành" và "nhơn lành", v.v... Cha mẹ con hẳn là những tín đồ Công giáo ngoan đạo.
- Trên tàu hôm đó có người Nam nào không cô?
- Có đủ mọi hạng người: Tây, Tàu, và Việt, cả ba miền Bắc Trung Nam...
Tôi trách:
- Đã biết cha mẹ cháu là người Nam, lại có đạo Công giáo sao khi thoát nạn cô không tìm ngay?
- Cô cũng có tìm... sơ sơ, vì hồi đó tuy chiến tranh đã chấm dứt nhưng tình thế chưa yên hẳn vẫn còn hỗn loạn, việc giao thông thật khó khăn...
Tôi nói, giọng uất nghẹn:
- Con hiểu.
Rồi bỗng nhiên tôi bật thẳng người lên:
- Cô! Con phải đi một chuyến mới được!
Cô tôi hoảng hốt:
- Đi đâu... con?
- Đi Saigon! Con xin phép cô cho con đi tìm cha mẹ thật của con. Bắt đầu từ Saigon, con hy vọng sẽ tìm ra tông tích của gia đình con.
Tôi đâm ra mơ mộng, buồn rầu. Tất cả, từ những đồ đạc trong nhà, cây cối ngoài vườn, ngay cả chính căn phòng riêng của tôi cũng đều trở thành xa lạ.
Ôi, cô thương yêu, cô đã chiếm hữu một hài nhi thất lạc như một đứa trẻ thiếu đồ chơi vớ được con búp bê... vô chủ.
Nhưng tôi đâu phải là con búp bê... hay con chó nhỏ!
Tôi là một con người và đến tuổi trưởng thành phải hướng vào tương lai, phải đối diện với cuộc đời. Tôi rất cảm kích, biết ơn bà "mẹ nuôi" của tôi, nhưng giá bà cho tôi biết sự thật này sớm hơn, từ ngày tôi bắt đầu hiểu biết thì có lẽ hạnh phúc của chúng tôi không đến nỗi bị lung lay một cách đột ngột. Bây giờ thì đã quá muộn. Tôi không tài nào lấy lại được sự thơ thới của tâm hồn. Tuy chúng tôi đều tránh không nhắc đến chuyện đắm tàu nữa, nhưng tôi vẫn cứ băn khoăn nghĩ tới, và một hôm tôi hỏi cô tôi:
- Cô nhỉ, biết đâu con chẳng phải là người Tàu, người Mên, hay thuộc một dòng giống nào khác?
Cô tôi cười nhẹ:
- Con là người Việt, người Việt chính cống như cô vậy! Có điều... con là người Việt miền Nam...
Như tôi đã nói: Cô tôi gốc người miền Bắc. Nhưng cô xuất giá theo chồng vào Nam từ năm 18 tuổi – Chú tôi gốc người miền Nam – nên cô tôi am hiểu tập quán và nói rành giọng nói của cả hai miền.
Cô nâng cằm tôi lên, vuốt ve mái tóc đen mướt của tôi nói:
- Cháu hỏi kỳ cục quá. Cái mặt cháu như thế này mà bảo là người Tàu hay Mên sao được.
Tôi gặng thêm:
- Nhưng làm sao cô biết chắc cháu là người miền Nam?
- Thì... hồi tàu đắm, người thủy thủ bồng cháu có trao cho cô một bức ảnh thánh loại nhỏ, in hình Đức Mẹ ban ơn, ghim ở mép chăn đắp trên mình cháu. Phía sau tấm ảnh có chép bài kinh cầu theo giọng miền Nam. Cô phân biệt được ở các chữ "ơn phúc" và "ơn phước" "nhân lành" và "nhơn lành", v.v... Cha mẹ con hẳn là những tín đồ Công giáo ngoan đạo.
- Trên tàu hôm đó có người Nam nào không cô?
- Có đủ mọi hạng người: Tây, Tàu, và Việt, cả ba miền Bắc Trung Nam...
Tôi trách:
- Đã biết cha mẹ cháu là người Nam, lại có đạo Công giáo sao khi thoát nạn cô không tìm ngay?
- Cô cũng có tìm... sơ sơ, vì hồi đó tuy chiến tranh đã chấm dứt nhưng tình thế chưa yên hẳn vẫn còn hỗn loạn, việc giao thông thật khó khăn...
Tôi nói, giọng uất nghẹn:
- Con hiểu.
Rồi bỗng nhiên tôi bật thẳng người lên:
- Cô! Con phải đi một chuyến mới được!
Cô tôi hoảng hốt:
- Đi đâu... con?
- Đi Saigon! Con xin phép cô cho con đi tìm cha mẹ thật của con. Bắt đầu từ Saigon, con hy vọng sẽ tìm ra tông tích của gia đình con.
CHƯƠNG II
Tôi chỉ sợ cô tôi buồn, cho tôi là một đứa bội bạc. Nhưng không, cô tôi
tỏ ra rất hiểu biết và độ lượng. Cô thông cảm tâm trạng của tôi. Cô
đã từng băn khoăn khi giấu kín sự thật và cô hiểu nỗi băn khoăn của tôi
khi được cô cho biết sự thật ấy.
Hôm ông cán sự y tế tới thăm – ông là bạn thân của gia đình từ ngày chú tôi còn sống – cô tôi tâm sự với ông ta về trường hợp của tôi, và hỏi ý kiến ông về việc tôi đòi đi tìm cha mẹ ruột.
Tôi nhận rõ vẻ bối rối qua giọng nói của cô:
- Anh Sáu, anh nghĩ sao về ý định của cháu Khánh?
Tôi nghe ông Sáu trả lời:
- Chị nên chiều theo ý cháu. Nó vừa bị xúc động mạnh... khi được biết nó không phải là ruột thịt của chị. Nếu không có gì ngăn trở chị nên thỏa mãn lời yêu cầu của cháu.
- Tôi muốn lắm, kỳ hè này, tôi đã tính đưa cháu về Saigon chơi một chuyến, nhân dịp tìm thăm người bà con, mà rủi gặp tai nạn đành hoãn lại. Bây giờ cháu Khánh đòi đi, tôi ngại quá. Nó mới 15 tuổi đầu, tuy không đến nỗi khờ khạo gì lắm, nhưng một mình bơ vơ giữa chốn đô thị xa lạ, tôi không yên tâm chút nào.
- Chị vừa nói có người bà con ở Saigon?
- Phải, người đó là chị em chú bác với nhà tôi. Chị ấy tốt lắm nhưng đã lâu không gặp, chẳng hiểu bây giờ chị ấy ra sao.
- Nếu vậy, tôi đề nghị với chị như thế này: Thằng con rể của tôi, thằng chồng con Hương đó, nó tính hè này đưa vợ nó lên chơi trên Đalat. Trên đường đi Đalat tụi nó phải ghé Saigon. Để tôi bảo hai đứa đưa cháu Khánh đến nhà người bà con của chị ở Saigon cho.
Cô tôi ưng thuận liền.
Mấy ngày sau tôi theo vợ chồng chị Hương đi Saigon. Ở bến xe đầu chợ quận, cô tôi bịn rịn như muốn níu kéo tôi trở lại. Hình như cô hối tiếc đã để cho tôi đi. Cô căn dặn tôi đủ thứ, giọng nghẹn ngào và nước mắt rưng rưng. Tôi cũng không thể nào ngăn nổi cảm xúc. Mắt tôi nhòa lệ. Hình ảnh cô tôi nhòa theo, tưởng chừng như sắp tan biến đi mất. Tôi thảng thốt ôm chầm lấy cô:
- Cô! Con đi ít bữa rồi con về! Có tin gì con sẽ báo ngay cho cô biết.
Cô tôi lặng lẽ siết chặt lấy tôi. Tôi luyến tiếc hơi hướng quen thuộc trong vòng tay từ mẫu của cô. Tiếng "cô" tôi quen dùng để gọi người quả phụ này đồng nghĩa với tiếng "mẹ" kính yêu. Ôi, mẹ đã nuôi con từ ngày con còn ấu trĩ, còn nằm ngửa trong lòng mẹ. Mười lăm năm trời trôi qua, mười lăm năm con được ấp ủ trong tình thương yêu của mẹ. Bây giờ con lại được biết mẹ chẳng phải là mẹ của con, cũng chẳng phải cô ruột của con nữa! Cay đắng biết bao!
Tuy thâm tâm tôi nói lên những lời chân thành ấy, dùng dằng chưa muốn rời khỏi cô tôi – suốt mười lăm năm tôi chưa xa cô tôi lấy một ngày – tôi vẫn nghe nỗi náo nức âm thầm nhưng mãnh liệt thúc đẩy tôi. Có tiếng gọi mơ hồ hầu như huyền bí kêu tôi ở phương trời nào đó. Phải chăng đó là tiếng gọi bi thiết của tình cốt nhục?
Tôi chợt nhớ đến tiếng kêu thảm thương của đôi chim sẻ ngụ trong vườn nhà tôi.
Một chiều giông bão đôi chim ấy vội bay về tổ thì thấy mất đàn con, vì cái ổ đã bị gió lùa rơi xuống đất.
Già Lãm đã nhặt ổ chim ấy vào cho tôi, như đem một món đồ chơi cho trẻ.
Tôi thích ổ chim non ấy lắm. Nhưng tiếng kêu bi thương của đôi chim mất con đang vật vờ tìm kiếm trong cơn mưa gió, ám ảnh tôi suốt đêm hôm ấy và cả những ngày sau nữa. Không thể cầm lòng được tôi đành xin già Lãm để trả ổ chim ấy vào chỗ cũ.
Tiếng chim kêu ấy bây giờ như đang văng vẳng trong tâm thức tôi.
Tôi buông cô tôi ra, vội vã leo lên chiếc xe hàng đang rồ máy chờ đợi.
Xe chạy. Cô tôi lủi thủi ra về. Tôi mang theo hình ảnh cô tôi suốt cuộc hành trình. Vợ chồng chị Hương ngồi thủ thỉ với nhau bên cửa xe. Họ là đôi vợ chồng trẻ. Tình yêu của họ đang độ nồng nàn. Đối với họ mỗi cuộc du hành dù ngắn hay dài cũng đều là những kỷ niệm thơ mộng. Hai người luôn chỉ trỏ cho nhau xem những phong cảnh bên đường. Tôi ngồi im lặng cạnh họ, bâng khuâng, háo hức về cuộc ra đi đầu tiên trong đời tôi. Trong sự háo hức có thêm sự tò mò nôn nóng. Tôi muốn tìm gặp cha mẹ tôi mà cho tới giờ phút này tôi vẫn chưa hề biết rõ tông tích.
Tới Saigon chúng tôi trọ tạm tại một khách sạn nhỏ gần bến xe. Vợ chồng chị Hương rủ tôi đi chơi phố. Tôi từ chối, lấy cớ muốn nằm nghỉ cho đỡ mệt. Nhưng khi họ đi rồi, tôi vùng trở dậy. Tôi có ý định riêng của tôi, và muốn thi hành ngay ý định ấy. Tôi ra đường, tìm tắc xi, xin họ chở tôi đến hãng Ba Sao. Người tài xế tắc xi đưa tôi sang Khánh Hội, đậu lại trước một tòa nhà khá đồ sộ, theo lối kiến trúc cổ từ trước thời tiền chiến.
Tôi bước vào một hành lang rộng lớn, hai bên có những phòng làm việc. Các nhân viên ở đây, nhìn tác người lớn phổng của tôi và cử chỉ mà tôi cố làm ra vẻ đứng đắn đã lầm tưởng tôi là một thiếu nữ cỡ 17, 18 tuổi nên không coi tôi là một đứa trẻ đến làm phiền họ. Tôi được họ ân cần tiếp đón, chỉ cho tôi từ bàn giấy này qua bàn giấy khác. Tôi có cảm tưởng như mình là một trái banh nẩy từ bàn này qua bàn nọ. Sau cùng tôi rơi đúng vào bàn giấy một ông lớn tuổi. Ông mời tôi ngồi xuống chiếc ghế đặt trước bàn ông, ngước mắt qua cặp kính lão xệ trên sống mũi, nhìn tôi. Rồi ông mỉm cười, hỏi tôi muốn gì. Tôi bắt đầu kể lể, giải thích cho ông rõ, nguyên nhân tôi tìm đến đây.
Nghe hết đầu đuôi, ông cau trán nói:
- Chiếc tàu Bạch Phượng! Lâu quá rồi! Hồi đó tôi chưa vào làm cho hãng này.
- Nhưng chắc còn có người biết chiếc Bạch Phượng chứ, thưa ông?
- Không chắc, vì các nhân viên cũ hiện giờ không còn ai. Hãng đã đổi chủ lâu rồi. Và chủ mới đã dọn cơ sở về đây. Bao nhiêu hồ sơ cũ của thời chủ trước không ai lục đến nữa. Hơn nữa phần lớn cũng đã bị thất lạc, hoặc tiêu hủy vì chiến tranh.
Tôi run giọng, lẩm bẩm:
- Nếu vậy, không còn hy vọng tìm ra tông tích những hành khách trên chiếc tàu ngộ nạn sao? Tôi tưởng mỗi chuyến tàu đều có danh sách...
- Dĩ nhiên. Danh sách hành khách của mỗi chuyến tàu đều được lập cẩn thận làm hai bản. Một lưu tại hãng và một ở dưới tàu. Nhưng cô cũng nên hiểu cho tình thế lúc ấy. Bản lưu ở hãng chưa chắc đã còn, mà bản yết dưới tàu...
- Thì sao?
- Thì đã chìm theo tàu xuống lòng biển!
Tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi bưng mặt ngồi khóc. Nhân viên tiếp tôi hiền từ nói:
- Chắc quan hệ cho cô lắm phải không?
- Dạ.
- Tôi vừa thoáng nhớ ra một chi tiết, chẳng hiểu có giúp ích gì cho cô được không?
Tôi khẩn khoản:
- Xin ông cứ cho biết.
- Đó là người bếp dưới tầu. Hắn thoát nạn trong chuyến ấy cùng với mấy hành khách sống sót. Sau đó, hắn làm thêm ít năm nữa rồi thôi bỏ nghề đi biển về mở tiệm ăn. Nhân chứng này may ra có thể soi sáng cho cô được.
- Ông ta hiện ở đâu?
- Chợ lớn. Thỉnh thoảng tôi vẫn vào ăn trong tiệm của hắn: Tiệm Long Hải đường Đồng Khánh.
- Thưa, tên ông ta là gì?
-Tên Lủ. Hắn là người Tàu.
Hôm ông cán sự y tế tới thăm – ông là bạn thân của gia đình từ ngày chú tôi còn sống – cô tôi tâm sự với ông ta về trường hợp của tôi, và hỏi ý kiến ông về việc tôi đòi đi tìm cha mẹ ruột.
Tôi nhận rõ vẻ bối rối qua giọng nói của cô:
- Anh Sáu, anh nghĩ sao về ý định của cháu Khánh?
Tôi nghe ông Sáu trả lời:
- Chị nên chiều theo ý cháu. Nó vừa bị xúc động mạnh... khi được biết nó không phải là ruột thịt của chị. Nếu không có gì ngăn trở chị nên thỏa mãn lời yêu cầu của cháu.
- Tôi muốn lắm, kỳ hè này, tôi đã tính đưa cháu về Saigon chơi một chuyến, nhân dịp tìm thăm người bà con, mà rủi gặp tai nạn đành hoãn lại. Bây giờ cháu Khánh đòi đi, tôi ngại quá. Nó mới 15 tuổi đầu, tuy không đến nỗi khờ khạo gì lắm, nhưng một mình bơ vơ giữa chốn đô thị xa lạ, tôi không yên tâm chút nào.
- Chị vừa nói có người bà con ở Saigon?
- Phải, người đó là chị em chú bác với nhà tôi. Chị ấy tốt lắm nhưng đã lâu không gặp, chẳng hiểu bây giờ chị ấy ra sao.
- Nếu vậy, tôi đề nghị với chị như thế này: Thằng con rể của tôi, thằng chồng con Hương đó, nó tính hè này đưa vợ nó lên chơi trên Đalat. Trên đường đi Đalat tụi nó phải ghé Saigon. Để tôi bảo hai đứa đưa cháu Khánh đến nhà người bà con của chị ở Saigon cho.
Cô tôi ưng thuận liền.
Mấy ngày sau tôi theo vợ chồng chị Hương đi Saigon. Ở bến xe đầu chợ quận, cô tôi bịn rịn như muốn níu kéo tôi trở lại. Hình như cô hối tiếc đã để cho tôi đi. Cô căn dặn tôi đủ thứ, giọng nghẹn ngào và nước mắt rưng rưng. Tôi cũng không thể nào ngăn nổi cảm xúc. Mắt tôi nhòa lệ. Hình ảnh cô tôi nhòa theo, tưởng chừng như sắp tan biến đi mất. Tôi thảng thốt ôm chầm lấy cô:
- Cô! Con đi ít bữa rồi con về! Có tin gì con sẽ báo ngay cho cô biết.
Cô tôi lặng lẽ siết chặt lấy tôi. Tôi luyến tiếc hơi hướng quen thuộc trong vòng tay từ mẫu của cô. Tiếng "cô" tôi quen dùng để gọi người quả phụ này đồng nghĩa với tiếng "mẹ" kính yêu. Ôi, mẹ đã nuôi con từ ngày con còn ấu trĩ, còn nằm ngửa trong lòng mẹ. Mười lăm năm trời trôi qua, mười lăm năm con được ấp ủ trong tình thương yêu của mẹ. Bây giờ con lại được biết mẹ chẳng phải là mẹ của con, cũng chẳng phải cô ruột của con nữa! Cay đắng biết bao!
Tuy thâm tâm tôi nói lên những lời chân thành ấy, dùng dằng chưa muốn rời khỏi cô tôi – suốt mười lăm năm tôi chưa xa cô tôi lấy một ngày – tôi vẫn nghe nỗi náo nức âm thầm nhưng mãnh liệt thúc đẩy tôi. Có tiếng gọi mơ hồ hầu như huyền bí kêu tôi ở phương trời nào đó. Phải chăng đó là tiếng gọi bi thiết của tình cốt nhục?
Tôi chợt nhớ đến tiếng kêu thảm thương của đôi chim sẻ ngụ trong vườn nhà tôi.
Một chiều giông bão đôi chim ấy vội bay về tổ thì thấy mất đàn con, vì cái ổ đã bị gió lùa rơi xuống đất.
Già Lãm đã nhặt ổ chim ấy vào cho tôi, như đem một món đồ chơi cho trẻ.
Tôi thích ổ chim non ấy lắm. Nhưng tiếng kêu bi thương của đôi chim mất con đang vật vờ tìm kiếm trong cơn mưa gió, ám ảnh tôi suốt đêm hôm ấy và cả những ngày sau nữa. Không thể cầm lòng được tôi đành xin già Lãm để trả ổ chim ấy vào chỗ cũ.
Tiếng chim kêu ấy bây giờ như đang văng vẳng trong tâm thức tôi.
Tôi buông cô tôi ra, vội vã leo lên chiếc xe hàng đang rồ máy chờ đợi.
Xe chạy. Cô tôi lủi thủi ra về. Tôi mang theo hình ảnh cô tôi suốt cuộc hành trình. Vợ chồng chị Hương ngồi thủ thỉ với nhau bên cửa xe. Họ là đôi vợ chồng trẻ. Tình yêu của họ đang độ nồng nàn. Đối với họ mỗi cuộc du hành dù ngắn hay dài cũng đều là những kỷ niệm thơ mộng. Hai người luôn chỉ trỏ cho nhau xem những phong cảnh bên đường. Tôi ngồi im lặng cạnh họ, bâng khuâng, háo hức về cuộc ra đi đầu tiên trong đời tôi. Trong sự háo hức có thêm sự tò mò nôn nóng. Tôi muốn tìm gặp cha mẹ tôi mà cho tới giờ phút này tôi vẫn chưa hề biết rõ tông tích.
Tới Saigon chúng tôi trọ tạm tại một khách sạn nhỏ gần bến xe. Vợ chồng chị Hương rủ tôi đi chơi phố. Tôi từ chối, lấy cớ muốn nằm nghỉ cho đỡ mệt. Nhưng khi họ đi rồi, tôi vùng trở dậy. Tôi có ý định riêng của tôi, và muốn thi hành ngay ý định ấy. Tôi ra đường, tìm tắc xi, xin họ chở tôi đến hãng Ba Sao. Người tài xế tắc xi đưa tôi sang Khánh Hội, đậu lại trước một tòa nhà khá đồ sộ, theo lối kiến trúc cổ từ trước thời tiền chiến.
Tôi bước vào một hành lang rộng lớn, hai bên có những phòng làm việc. Các nhân viên ở đây, nhìn tác người lớn phổng của tôi và cử chỉ mà tôi cố làm ra vẻ đứng đắn đã lầm tưởng tôi là một thiếu nữ cỡ 17, 18 tuổi nên không coi tôi là một đứa trẻ đến làm phiền họ. Tôi được họ ân cần tiếp đón, chỉ cho tôi từ bàn giấy này qua bàn giấy khác. Tôi có cảm tưởng như mình là một trái banh nẩy từ bàn này qua bàn nọ. Sau cùng tôi rơi đúng vào bàn giấy một ông lớn tuổi. Ông mời tôi ngồi xuống chiếc ghế đặt trước bàn ông, ngước mắt qua cặp kính lão xệ trên sống mũi, nhìn tôi. Rồi ông mỉm cười, hỏi tôi muốn gì. Tôi bắt đầu kể lể, giải thích cho ông rõ, nguyên nhân tôi tìm đến đây.
Nghe hết đầu đuôi, ông cau trán nói:
- Chiếc tàu Bạch Phượng! Lâu quá rồi! Hồi đó tôi chưa vào làm cho hãng này.
- Nhưng chắc còn có người biết chiếc Bạch Phượng chứ, thưa ông?
- Không chắc, vì các nhân viên cũ hiện giờ không còn ai. Hãng đã đổi chủ lâu rồi. Và chủ mới đã dọn cơ sở về đây. Bao nhiêu hồ sơ cũ của thời chủ trước không ai lục đến nữa. Hơn nữa phần lớn cũng đã bị thất lạc, hoặc tiêu hủy vì chiến tranh.
Tôi run giọng, lẩm bẩm:
- Nếu vậy, không còn hy vọng tìm ra tông tích những hành khách trên chiếc tàu ngộ nạn sao? Tôi tưởng mỗi chuyến tàu đều có danh sách...
- Dĩ nhiên. Danh sách hành khách của mỗi chuyến tàu đều được lập cẩn thận làm hai bản. Một lưu tại hãng và một ở dưới tàu. Nhưng cô cũng nên hiểu cho tình thế lúc ấy. Bản lưu ở hãng chưa chắc đã còn, mà bản yết dưới tàu...
- Thì sao?
- Thì đã chìm theo tàu xuống lòng biển!
Tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi bưng mặt ngồi khóc. Nhân viên tiếp tôi hiền từ nói:
- Chắc quan hệ cho cô lắm phải không?
- Dạ.
- Tôi vừa thoáng nhớ ra một chi tiết, chẳng hiểu có giúp ích gì cho cô được không?
Tôi khẩn khoản:
- Xin ông cứ cho biết.
- Đó là người bếp dưới tầu. Hắn thoát nạn trong chuyến ấy cùng với mấy hành khách sống sót. Sau đó, hắn làm thêm ít năm nữa rồi thôi bỏ nghề đi biển về mở tiệm ăn. Nhân chứng này may ra có thể soi sáng cho cô được.
- Ông ta hiện ở đâu?
- Chợ lớn. Thỉnh thoảng tôi vẫn vào ăn trong tiệm của hắn: Tiệm Long Hải đường Đồng Khánh.
- Thưa, tên ông ta là gì?
-Tên Lủ. Hắn là người Tàu.
______________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG III, IV