Chủ Nhật, 16 tháng 5, 2021

MẤT TÍCH GIỮA BIỂN CẢ - Văn Việt

 

Không ai hay thằng bé đã rớt xuống biển lúc hơn 7 giờ sáng. Nó rớt xuống mặt biển và chìm nghỉm dưới nước ngay bên cạnh tàu, nó cố gắng nhoi lên khỏi mặt nước và nhìn thấy trời xanh ngay trên đầu, dần dần nó cảm thấy người như nổi trên nước, và nghĩ có thể vài thủy thủ trông thấy sẽ vớt nó lên, nhưng chiếc tàu vẫn vô tình chạy xa khỏi nó. Thằng bé bắt đầu cựa quậy chân tay để cố gắng giữ cho đầu nhô lên khỏi mặt nước, nó bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng và sợ hãi. Bỗng nhiên bó sực nhớ lại có lần Thuyền trưởng đã khuyên: "Nếu lúc nào gặp khó khăn, em hãy bình tĩnh dùng mưu trí mà đối phó. Nếu em sợ hãi hay rối trí thì không bao giờ giải quyết được việc gì. Vậy hãy nhớ kỹ: bình tĩnh và suy nghĩ".

Đứa bé kiểm soát lại các động tác cử động tay chân và nghĩ thầm: "Mình không biết có thể bơi được không? Nhưng mình đang bơi và thực sự là đang bơi". Nó cố gắng thảo bỏ chiếc quần dài và đôi giầy cho đỡ vướng, bụng nghĩ rằng: "Chắc lúc này mình bơi giống như một con chó bơi trong hồ cạnh nhà mà có lần mình đã trông thấy".

Chiếc tàu vẫn vô tình chạy mỗi lúc một xa, bây giờ thì chắc chắn là không một thủy thủ nào còn có thể trông thấy nó mặc dầu ngay cả khi bị sóng đưa nhô lên cao, lúc này chung quanh nó không còn gì ngoài nước biển và trời xanh, thỉnh thoảng từng cơn sóng bất thình lình xô vào mặt, nước mặt tràn vào mồm, mũi và làm xót mắt nó.

Trong khi đó, trên chiếc tầu, các thủy thủ bắt đầu ngồi vào ăn sáng, khi thấy thiếu đứa bé, 1 người mới hỏi: "Thằng nhỏ đâu?", 1 người khác trả lời: "Từ sáng đến giờ tôi không trông thấy nó, để tôi chạy đi kiếm". Rồi hắn đi sục sạo khắp tàu nhưng vẫn không thấy thằng bé. Gặp ai hắn cũng hỏi: "Anh có trông thấy thằng nhỏ đâu không?". Một người góp ý kiến với hắn: "Anh hãy trình cho thuyền trưởng hay". Hắn nghe theo, chạy lên phòng chỉ huy để báo cáo. Thuyền trưởng đang nói chuyện với 1 sĩ quan thuộc quyền. Chiếc tầu đang chạy ở một chỗ an toàn. Ông quay lại nhìn người thủy thủ đang hớt hơ hớt hải chạy vào: "Thưa thuyền trưởng, thằng nhỏ đã mất tích. Tôi đã kiếm nó khắp tàu mà không thấy". Rồi hắn quơ tay ra phía biển ra dấu có lẽ thằng nhỏ đã rớt xuống biển. Một sĩ quan nhớ lại là có sai nó làm vài việc vặt trên boong tầu vào lúc 7 giờ thiếu 10. Thuyền trưởng nhìn đồng hồ: đã 8 giờ 21 phút, tức là thằng nhỏ mất tích đã được 1 giờ 11 phút, chiếc tầu đã chạy xa được 18 dặm từ lúc người ta trông thấy thằng bé lần cuối cùng. Ông ra lệnh xả nhớt xuống biển để làm dấu hướng tầu chạy, rồi nói: "Chúng ta phải mất 1 giờ 20 phút để quay trở lại 20 dặm tìm thằng bé, hãy coi giờ cẩn thận".

Thằng nhỏ vẫn cố giữ chân tay cử động chầm chậm. Nó đã kiệt sức quá rồi và muốn gào to, nhưng nó vẫn im lặng, cố nhớ lại những lời khuyên của thuyền trưởng trước tất cả các thủy thủ tập hợp trên boong tầu: "Đời sống trên biển cả rất vất vả, nguy hiểm thường xẩy đến đột ngột, các bạn lúc nào cũng phải luôn luôn chuẩn bị, phải bình tĩnh suy xét mà đối phó. Khi gặp nguy các bạn phải vận dụng trí óc mà suy nghĩ, nếu làm vậy, các bạn sẽ sống".

Nó nghĩ: "Thuyền trưởng nói nghe thì dễ lắm. Không biết ông đã có lần nào rớt xuống biển chưa? Hay đã bị rồi? Đi biển đã lâu chắc ông phải giầu kinh nghiệm". Thằng bé cố nghĩ cách làm theo lời khuyên, nó nói đi nói lại nhiều lần lời khuyên đó như là đang nói chuyện với một người bạn cùng ở dưới nước với nó. Bất chợt một cơn sóng phủ lên đầu như che kín nó, nó cảm thấy sợ hãi tột độ trong giây lát rồi lấy lại bình tĩnh ngay.

Thuyền trưởng vẫn không hy vọng tìm thấy thằng bé, cái đầu người ở giữa biển khơi chỉ là một chấm đen nhỏ, nếu sợ hãi ám ảnh trong đầu có thì ngay cả người lớn cũng chìm nghỉm nhanh chóng chứ đừng nói đến một đứa bé như nó. Hơn nữa nó lại không biết bơi, không biết giờ này thằng bé ra sao? Ông giơ tay nhìn đồng hồ, tầu đã quay chạy trở lại gần được 1g 20ph rồi. Ông  ra lệnh: "Giảm tốc độ. Hãy dùng loa phóng thanh kêu gọi nó". Ông nhìn bên này rồi tới bên kia, mắt vẫn không rời khỏi mặt nước mênh mông. Bỗng ông kêu to: "Ngừng lại! Sửa soạn hạ thuyền cấp cứu". Ông đã trông thấy đầu thằng bé đang nhấp nhô, cách tầu chỉ non 100 thước.

Thằng bé nhìn thấy chiếc tầu ngừng lại, chiếc thuyền cấp cứu được hạ xuống và chạy lại phía nó. Rồi khi gần xỉu vì kiệt sức, 1 cánh tay dắn chắc nắm lấy tay nó lôi lên thuyền, đắp cho nó vài lần chăn. Thằng bé lờ đờ nhìn những người trên thuyền, 1 người nói to: "Bơi! Biển đâu có phải chỗ để chú mày bơi, đó là chỗ để tầu chạy mà, chú bé". 1 người khác dọa: "Chú sẽ bị rày. Thuyền trưởng không thích như vậy. Chúng ta đã mất gần 3 giờ vì chú mày muốn bơi". Nó biết là họ nói đùa, nó muốn cười nhưng vì kiệt sức nên không thể nhếch mép nổi. "Thôi đừng rỡn nữa!" một sĩ quan nói, "chúng ta phải mang nhanh thằng bé lên tầu để cấp cứu".

Khi chiếc tầu bắt đầu trở mũi quay chạy theo hướng cũ, theo vết dầu loang, tôi xuống xem thằng bé ra sao, lời Thuyền trưởng, với chiếc chăn quấn quanh người trông nó lúc này nhỏ hơn với số tuổi 17. Trông thấy tôi, nó ứa nước mắt nói: "Em rất tiếc là đã làm phiền và làm Thuyền trưởng trễ mất gần 3 tiếng đồng hồ". Tôi cố gắng chỉ nó hiểu là điều đó không quan trọng và hãy tĩnh dưỡng. Một ngày trước khi chúng tôi tới bờ, tôi thấy thằng bé đang ngồi lúi húi rửa mấy cọ sơn trên boong tàu, tôi lại gần và hỏi: "Em không biết bơi tại sao em lại có thể sống dưới biển hơn hai tiếng rưỡi đồng hồ? Làm sao em lại có thể nổi trên mặt nước được?". Nó đáp: "Thuyền trưởng đã chỉ em cách nổi trên nước". "Tôi?", tôi ngạc nhiên hỏi lại. "Thưa vâng, Thuyền trưởng đã dạy em cũng như những người khác hãy bình tĩnh mà dùng trí óc, và em tin chắc rằng thế nào ông cũng quay trở lại kiếm em". Tôi hỏi: "Tại sao em lại tin thế?". Nó lặng yên một lúc, tôi chắc rằng nó đang suy nghĩ để tìm câu trả lời, tay mân mê cái cọ sơn, rồi bất chợt, nó ngửng lên nhìn tôi và nói: "Bởi vì thuyền trưởng là một hạng người như thế. Ông là một hạng người đáng là người".

"Thuyền trưởng là một hạng người như thế". Thằng nhỏ đã không biết gì về bổn phận của tôi, nhưng với những lời nó vừa nói làm tôi vui lòng hơn khi nhận được một gói quà tặng to, hơn là những giấy khen và huy chương của chính phủ hay nhà vua đã ban cho tôi...


VĂN VIỆT                   
Phỏng dịch theo truyện "Alone far from Land"
đăng trong tạp chí Reader's Digest"

(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 34, ra ngày 16-4-1972)


Không có nhận xét nào: