Thứ Hai, 14 tháng 11, 2016

LÁ THUỘC BÀI - Nguyễn thị Mỹ Thanh




1

Không biết ở Mai có cái gì đặc biệt – mái tóc dài, đôi mắt to, hay giọng nói dịu dàng – mà hơn một tuần nay Thảo đã để ‎ý đến Mai thật nhiều. Mai không có gì cả. Thảo đã tìm kiếm một nét nào thật xinh nơi Mai để làm bằng chứng cho sự lưu tâm của mình mà không có. Mái tóc của Mai không óng mượt bằng tóc của cái Sơn ngồi cạnh Thảo. Đôi mắt của Mai đâu có to bằng đôi mắt của cái Hà. Và giọng nói của Mai nhất định là không dịu dàng bằng giọng nói của cô giáo. Như thế chắc chắn không phải là vì Mai xinh, Mai hiền… Nhưng vì lẽ gì? Tại sao ngày nào khi đi học về Thảo cũng nghĩ ngợi nhiều đến Mai? Thảo không hề tính đến chuyện làm quen Mai, nhưng sáng nào đến lớp, Thảo cũng mong gặp được Mai, với nếp áo màu xanh bao giờ cũng e dè sau lưng cửa. Mà rồi Thảo chẳng nói với Mai một lời nào cả. Thảo vẫn ngồi yên ở chỗ của mình và len lén nhìn lên Mai lẻ loi ở bàn đầu.

Đối với Thảo, thì một tuần học vừa qua thật thoải mái. Những bài học cô dạy cho, Thảo học rất mau thuộc, nhất là môn Việt Sử và môn Cách trí. Lần nào cô giáo giở cuốn sổ điểm ra là Thảo giơ tay xin lên trả bài trước. Và bao giờ Thảo cũng được điểm cao. Lớp có ba mươi trò, nên cô giáo chia làm hai, lần lượt trả bài. Trong một tuần, mỗi đứa được trả bài ba lần. Với Thảo thì là “được trả bài”, nhưng với nhiều trò khác, Thảo thấy phải gọi là “bị trả bài” thì đúng hơn. Và riêng với Mai, trả bài hẳn là một cực hình mà Mai phải kiên tâm gánh chịu. Cách một ngày Mai phải trả bài một lần, và cứ cách một ngày, Thảo phải ái ngại giùm cho Mai, khi nhìn lên thấy Mai đứng vòng tay bên cô, nét mặt bối rối. Trông Mai lúc đó như đang cố gắng nhớ lại bài học – đúng hơn là Mai đang moi trong óc ra một chữ nào để có mà đọc, mà trả bài cho cô giáo. Nhưng hầu như lần nào Mai cũng chỉ đọc đến hết một câu đầu. Và rồi Mai im lặng. Mai im lặng trong khi cô giáo thì nhìn Mai chờ đợi.

Bây giờ Thảo đã tìm ra lý lẽ nào khiến Thảo chú ý nhiều đến Mai. Phải, chỉ vì một nguyên nhân mà thôi: chỉ vì Mai là đứa học trò ít thuộc bài nhất lớp. Chưa có một trò nào không thuộc bài quá hai lần trong tuần đầu niên học này – ngoại trừ Mai. Tại sao thế? Mai lười? Mai không hiểu bài? Thảo khó tin điều này được, là vì nhìn gương mặt Mai, Thảo nghĩ rằng ít ra Mai cũng thừa tí thông minh. Còn nếu Mai lười, thì chắc chắn Thảo không được nhìn Mai cúi gập mình trên bàn gò từng nét chữ thon mềm, và giờ ra chơi Mai ngồi một mình, lặng lẽ xem lại từng trang vở.

Tự nhiên Thảo thấy mình như một người bạn rất gần của Mai rồi, mặc dù Thảo chưa một lần nói với Mai chuyện gì và mặc dù Thảo đang ngồi xa Mai cả mấy dãy bàn. Hàng ngày Thảo mang hình ảnh của Mai bối rối ngập ngừng trên bục gỗ về nhà, để Thảo thắc mắc nghĩ ngợi. Thảo không muốn Mai cứ bị ít điểm, bị cô rầy hoài. Những bài học đối với Thảo mới dễ thuộc làm sao! Thảo chỉ cần học thật kỹ ba lần, hay khó lắm là năm lần, rồi mẹ dò lại cho Thảo, là bao nhiêu chữ cứ như in hẳn vào óc Thảo, không thể nào quên được. Đến lúc trả bài, Thảo cứ việc đọc lên không suy nghĩ. Mà sao đối với Mai, sự thuộc bài lại khó khăn đến thế? Thảo mong có một hôm, Mai đọc bài thật làu, Mai được nhiều điểm, Thảo sẽ vui lắm. Mà hẳn Mai càng vui nhiều hơn thế nữa.

Có lẽ điều mà Thảo chờ đợi đã đến rồi đây. Sáng nay lại đến phiên Mai lên trả bài. Cô giáo như quá quen với những lần trước, nên mỉm cười hỏi Mai:

- Em thuộc bài không?

Mai gật đầu, nhưng đôi mắt không có vẻ sợ sệt như những lần trước. Mai có vẻ tin tưởng lắm. Cô giáo lại mỉm cười. Mai vòng tay lại, quay mặt xuống dưới nhìn các bạn. Và Mai bắt đầu đọc:

- Văn minh người Việt. Người Lạc Việt có nghề đánh cá là nghề chính. Còn nghề nông thì chưa phát đạt. Họ chưa biết dùng cày cuốc, trâu bò. Các Lạc vương, Lạc…

Mai im bặt. Đôi mày nhíu lại, Mai cố tìm trong óc những chữ kế tiếp. Cô giáo chờ đợi. Thảo hồi hộp. Cả lớp nhìn Mai.

Hai phút trôi qua. Mai vẫn chưa ra lời. Cô giáo nhắc:

- Lạc tướng…

- Các Lạc vương, Lạc tướng, Lạc… – Mai đọc.

- Lạc hầu – Cô lại nhắc.

- Lạc hầu…

Mai lập lại rồi im luôn. Mai không nhớ được gì nữa. Nước mắt Mai bỗng nhiên ứa ra. Mai đứng lặng, trên gương mặt Mai bày ra một sự khổ sở ghê gớm. Mai phải chịu cực hình này biết bao lần? Cô giáo vừa phê vào vở Mai, vừa nói:

- Cô tưởng lần này em thuộc bài, không ngờ lại cũng như mấy lần trước. Nếu cứ như thế mãi, em sẽ đứng chót lớp. Em phải gắng học, nếu hai lần, ba lần chưa thuộc, em cứ học mãi, năm lần, mười lần em sẽ thuộc.

Mai nghẹn ngào nói được hai tiếng “Thưa cô” nhưng nước mắt làm Mai không có can đảm đứng đó nữa. Mai ủ rũ về chỗ ngồi. Mai gục đầu trên vở. Mai khóc rất khẽ, song đủ cho Thảo nghe những tiếng nấc. Thảo thất vọng thêm lần nữa. Những lời cô rầy Mai, Thảo tưởng như đó là cô trách cứ mình. Có lẽ cô chưa hiểu Mai đâu, cũng như Thảo, như cả lớp, chưa ai hiểu được Mai.

Mai vẫn cứ khóc, khóc trong tiếng giảng bài của cô. Và đến lúc tiếng chuông reo tan học, các bạn xôn xao thu xếp ra về, Mai vẫn còn gục đầu khóc. Thảo không buồn cất sách vở, cứ nhìn lên Mai ái ngại. Thảo thương Mai vô cùng. Bây giờ, Thảo thấy mình cần phải làm quen với Mai. Thảo chưa có bạn. Mai hẳn là cũng chưa có bạn. Nếu Thảo được làm bạn của Mai, Thảo sẽ hiểu tại sao Mai không thuộc bài, và Thảo sẽ tìm cách giúp đỡ Mai.

Nhưng làm quen Mai bằng cách nào? Nếu Thảo đến trước mặt Mai, mở lời một cách máy móc: Mai à, tớ muốn làm quen với bồ – thì với Mai, Thảo sẽ là đứa vô duyên nhất đời. Nếu Thảo cho Mai một cành hoa ép, một gói ô mai, hay một cây kẹo mút? Không được, vì Thảo biết lúc này Mai chẳng ưa thích một thứ gì. Thảo phải tỏ ra tế nhị một chút mới gây được cảm tình với Mai. Trên kia, Mai vẫn khóc. Bạn bè về đã gần hết. Thảo còn băn khoăn nơi đống sách vở bề bộn. Cho đến lúc cái Sơn đến bên Thảo giục về, Thảo đành đứng dậy xếp sách vở vào cặp. Bỗng cái Sơn la lên:

- Cái gì ở trong quyển “Bài học lớp nhì” của bồ rơi ra kìa!

Thảo cúi xuống tìm kiếm. Mắt Thảo bỗng sáng lên. Vật này sẽ giúp Thảo làm quen với Mai: cái lá – vâng, Lá Thuộc Bài.


2

Không ai hiểu mình hết. Cả cô giáo, các bạn, cả Thảo – và ngay đến chính mình cũng không hiểu tại sao mình như thế. Ôi trời! Mình ước ao con số tám thật uyển chuyển, thật dễ thương nằm cạnh bài học của mình, thật là một hão vọng quá lớn lao. Mình biết phân trần với ai đây? Mà có gì để mình phân trần không? Trước sau gì mình cũng chỉ là con nhỏ lười biếng, không thuộc bài. Trước mặt cô, mình thấy mình tội lỗi. Bên các bạn, mình xấu hổ vô cùng. Mới vào học một tuần thôi, mà mình đã lãnh hai lần, con số hai nhục nhã trong vở rồi. Có ai biết mình khổ sở không? Mỗi sáng đến trường, lang thang trong sân, e dè trước lớp, mình thấy mình ngại ngùng với cả những bàn ghế vô tri, với đèn quạt, với bảng đen. Đèn nào có lười đến nỗi tắt nửa chừng trong giờ học? Quạt đâu có tệ đến nỗi ngừng quay thình lình như mình đã im bặt một cách trơ trẽn giữa lúc bài học chưa chấm dứt? Tự nhiên mình thấy sợ quá, những bàn những ghế những quạt, đèn và sổ điểm. Nhưng, vẫn như cái máy, mình phải đến ngồi ở ghế, xa lạ với xung quanh, và hồi hộp lo sợ lúc cô bước vào.

Ôi, nhục nhã ghê gớm, chính là buổi sáng nay. Cái gì đã khiến mình gật đầu mạnh dạn chứng tỏ rằng mình thuộc bài? Mình chắc chắn lắm mà, bài Việt Sử rất thuộc. Mình thấy rõ ràng từng chữ cơ mà! Nhưng các chữ “Lạc vương, Lạc tướng, Lạc hầu” làm cho bao ý tưởng ngưng tắc trong óc mình rồi. Mình không biết phải đọc gì nữa. Bao nhiêu chữ “Lạc” quay cuồng trước mắt, mình cố gắng đào bới trong trí nhớ, nhưng hết hy vọng. Cô nhắc bên tai chữ nào, mình lập lại chữ đó, rồi thôi. Trong trí nhớ mờ mịt như sương mù của mình, lùng bùng muôn vàn chữ, muôn vàn công chuyện. Rồi mình nhận lãnh lời trách móc của cô giáo. Con số tám đẹp đẽ lại một lần đi xa mình. Mình khóc không biết bao nhiêu, lâu mấy phút? Chỉ biết rằng từng chữ gò thật thẳng trong vở mình đã lòe loẹt, nhưng lời phê của cô và con số hai ác hại – viết bằng bút nguyên tử đỏ – không nhòe, chúng vẫn bày rõ trước mắt mình với ý đe dọa.

Khi về đến chỗ ngồi, lật trang vở ra, mình thấy những dòng chữ thật quen thuộc, mà sao mình lại quên đi? Đây này: các Lạc vương, Lạc tướng, Lạc hầu chia nhau đất để cai trị, cha truyền con nối. Đây này: tôn giáo đa thần; tục vẽ mình, nhuộm răng, búi tóc… , mùa xuân mở hội vui chơi, dùng trầu cau trong lễ cưới…. Đây này: đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy, chưa biết dùng giày dép… Rõ ràng quá, cô giảng đến hai lần, mình đã học rất kỹ… Nhưng sao mình chỉ nhớ có hai câu? Khi nước mắt khô, mình mới nhớ ra rằng: hai câu đầu mình học đến ba lần, nên thuộc. Còn cả đoạn sau, mình đã học trong mệt mỏi. Đúng là mình đã ngủ gục trên bàn, những chữ như lao xao trong óc mình. Mãi đến lúc bé Tư cựa mình khóc thét lên, mình thức dậy và phải vào mùng dỗ em ngủ. Thế là hết thì giờ cho mình học.

Đêm đó má cũng về thật trễ, thật khuya như bao đêm khác. Khi má về, mình phải dọn cơm lên cho má ăn – trước đó mình và các em đã ăn xong rồi. Má ăn chê dở, mình tủi thân ghê gớm. Mà chê là phải, vì những món ăn mình nấu quá tệ. Canh thì mặn chát và cá kho thì lạt phèo. Nhưng má không nghĩ lại cho mình. Mình mới chín tuổi đầu, tay chân còn vụng về yếu ớt, má đi giao cho mình tất cả công việc vì mình là chị cả mà. Chị cả thì phải làm hết, nếu không thì ai làm cho? Sáng dậy mình giặt quần áo cho má, cho mình, bé Ba và bé Tư. Giặt vừa xong là đến giờ đi học. Trưa và chiều, với cái lò dầu đặt dưới đất, mình lo các món ăn – tạm gọi là “món ăn” nhưng chẳng có thứ nào ra hồn. Buổi chiều vùi đầu quét dọn nhà cửa, rửa tắm cho hai em. Má đi suốt ngày không về ăn cơm với các con. Tối khuya má mới về, ăn qua loa rồi đi ngủ. Việc dỗ bé Tư ngủ lại là việc của mình. Cho đến khi không còn ai thức cả, là lúc mình mang vở ra học thì đã mệt rời, mình không còn sức để ngồi nữa, mặc cho chữ nghĩa rơi vào trong trí nhớ mịt mùng.

Ôi nếu ba mà biết được má vẫn thường bỏ con cái ở nhà để đi đánh bạc, chắc là ba sẽ buồn lắm! Và nếu ba biết tháng đầu niên học này mình bị hạng thấp, hẳn ba càng buồn hơn. Ở Ban Mê Thuột xa lắc ba đâu có hay biết bao nhiêu thay đổi ở nhà. Nào chiếc đồng hồ lớn treo trên tường, nào chiếc radio và mấy món nữ trang của má đã bị cầm, bị bán rồi. Nhưng không như những gia đình khác, khi có sự cầm bán là con cái được sung sướng hơn. Đàng này, mình thấy càng ngày mình càng thêm nhiều công việc nặng. Và bé Ba, bé Tư không được má chăm sóc miếng ăn giấc ngủ như ngày xưa – ngày ba còn ở nhà. Bao nhiêu tiền – tiền ba gửi về, tiền cầm bán đồ đạc – má đều đem đến sòng bạc. Để rồi có đêm mình thấy má về, mắt quầng thâm, má cáu gắt với các con. Má không buồn để ‎ý đến bé Tư ấm đầu hay bé Ba té trầy đầu gối. Và chắc là má cũng không buồn nghĩ rằng sự học đối với con cái má là cần ghê lắm. Giá ba đừng phải hành quân miền rừng núi xa. Giá thời cuộc đừng thay đổi, vật giá đừng tăng vọt để má không thấy gia đình thiếu thốn, thì đâu đến nỗi. Bé Ba, bé Tư không phải la lết bẩn thỉu vì thiếu má. – và mình đâu phải mang danh là đứa học trò ngu dốt, lười biếng nhất lớp thế này. Cờ bạc là cái gì mà lôi cuốn má dữ vậy? Má đi suốt ngày, má không nghĩ gì hết. A, đúng rồi, chả là cô giáo ở lớp ba có dạy mình năm ngoái: “Cờ bạc là bác thằng bần”.

Mình không muốn nghĩ nhiều đến chuyện này nữa, vì càng nghĩ mình càng thấy thiếu kém, thua sút nhiều đứa trẻ khác. Ngày mai có môn Công dân, không đến phiên mình trả bài nhưng mình vẫn phải học chứ! Ba đã dặn là dù không trả bài, không làm bài kiểm, mình vẫn không được bỏ quên, vì mình học cho mình mà. Bé Ba, bé Tư đã ngủ say. Má vẫn chưa về. Nhưng tối nay mình không thấy rã rượi mệt mỏi như bao đêm khác. Tự nhiên mình thấy tỉnh táo, và tìm gặp một sự an ủi lớn – là vì mình thấy cái lá thuộc bài trong sách của mình. Cái lá không có gì đặc biệt, trừ màu xanh rất đậm. Thế mà Thảo nói với mình rằng nếu ép lá vào vở mình học bài sẽ mau thuộc như Thảo vậy. Thảo dễ mến ghê đi. Thảo đến gần mình khi mình còn đang khóc thút thít. Giọng Thảo thật êm, thật ngọt: “ Mai nè, Thảo có cái này tặng ấy, ấy nhận nghen. Cái lá này, Thảo hái ở dọc đường, ép trong sách lâu ghê rồi. Người ta gọi là cái “lá thuộc bài” đấy. Thảo ép nó nên Thảo học bài mau thuộc ghê. Ấy thử ép vào sách xem sao nhé!”. Không biết có một cái gì làm mình thấy mến Thảo quá, giống như hai đứa đã là bạn với nhau từ lâu. Mình mắc cỡ ghê, mình chả biết nói gì với Thảo, vì nước mắt nó cứ chảy ra hoài – chắc là xấu lắm. Mình run run cầm cái lá, ép liền vào sách. Chỉ nói được hai tiếng “cám ơn” rồi mình vụt ôm cặp chạy liền. Ôi chao, mình vừa thẹn, vừa sung sướng.

Bài Công dân hôm nay hình như dễ học lắm. Những chữ rất thường đâu có gì khó. Mình đọc như đang hát một bài hát quen thuộc. Có lẽ cái lá thuộc bài sẽ mang đến cho mình một phép lạ. Mình sẽ mau thuộc bài, dù cho mình phải làm nhiều công việc đến đâu. Hay cái lá ấy là… một bà tiên - bà tiên của học trò?... Ô, mình thấy những chữ trước mắt nhòa dần, và chúng nhảy múa để kết lại thành một vòng mây. Cái lá thuộc bài bỗng biến thành một bà tiên, với chiếc áo rộng màu xanh rất đậm. Tâm trí mình như lâng lâng, tay chân mình cử động không nổi, nhưng mắt mình thì không rời hình ảnh của bà tiên…


3

Mai khóc như chưa bao giờ được khóc. Lần này cô giáo lại rầy Mai, nhưng hơn thế nữa, cô nói cho cả lớp biết rằng lười như Mai đến thế là cùng. Cô có hỏi Mai tại sao cứ thế mãi, làm sao Mai trả lời được. Giữ em, trò nào chẳng giữ em? Làm việc nhà, đâu có trò nào ngồi không! Từ lớp năm, ai cũng học những bài ám đọc khuyên phải đỡ đần cho cha mẹ. Còn nếu Mai kể lể hoàn cảnh “đặc biệt” của Mai ra, thì Mai xấu hổ lắm, mà vô tình Mai lại để cho mọi người nghĩ xấu cho má của Mai. Nên Mai im lặng nghe cô giáo la, nhìn bạn bè khinh bỉ mình. Nhưng Mai thấy Thảo đang gục đầu buồn bã. Thảo ơi, Mai nào có muốn thế! Mai cố gắng lắm mà! Cái lá thuộc bài của Thảo đó, ngày nào Mai cũng đem ra ngắm nghía, Mai để thật gọn trong sách. Mai tin nó giúp Mai thuộc bài. Nhưng không có phép lạ nào cho Mai hết. Đêm đêm Mai vẫn ngủ gục trên bàn, óc Mai nặng trĩu, Mai tối tăm quá đi! Không bài nào Mai thuộc đến ba câu. Mai phải đọc đi đọc lại từng chữ, mà sao chúng rơi rớt đâu mất, để khi đứng trước mặt các bạn, run rẩy bên cô, Mai không tìm được một chữ nào trong đầu. Không ai hiểu Mai hết, kể cả Thảo nữa, vì Mai không bao giờ kể cho Thảo nghe nỗi khổ của mình. Thảo tin ở cái lá thuộc bài. Mai cũng tin ở cái lá thuộc bài. Nhưng cái lá thuộc bài không giúp gì cho Mai giống như nó đã giúp Thảo luôn luôn đứng hạng cao.

Mai sợ những cái nhìn xoi mói của lũ bạn – Sơn, Hà, Thu… nên chờ chuông reo tan học Mai vội vã ôm cặp đi ra ngay. Đi ngang qua bàn Thảo, Mai nghe tiếng Thảo gọi lại:

- Mai, chờ Thảo một tí Thảo nói cái này.

- …

- Mai ơi, chắc là cái lá thuộc bài Thảo cho Mai nó… làm sao ấy. Để… Thảo đi dọc đường, Thảo hái cái khác cho Mai, chịu hông?

Mai nghẹn ngào:

- Thôi, Mai không cần đâu. Mai… chán học rồi!

Mai bỏ chạy ra khỏi lớp. Đầu óc Mai rối bời. Tự nhiên Mai thấy hận tất cả, hận luôn cô giáo, hận luôn Thảo, và hận luôn má của Mai.

Đường về nhà tự nhiên xa lạ đối với Mai. Nắng chói gắt gay làm Mai nhức đầu ghê gớm. Mai tưởng nếu có một ai đẩy nhẹ Mai một cái, hẳn Mai sẽ quỵ luôn giữa đường. Nhưng không, Mai vẫn lầm lũi bước đều về đến nhà, như một cái máy.

Bé Ba đứng đón Mai ở cửa, gương mặt hớt hải:

- Chị Hai! Bé Tư nóng đầu, bé Tư làm kinh…

Mai chạy bay vào nhà vất cặp lên bàn. Bé Tư nằm trên giường, mặt xanh ngắt, đôi mắt lạc thần. Người hàng xóm trao lọ dầu lại cho Mai, nói:

- Em hết làm kinh rồi cháu, nhưng còn mệt lắm. Cháu đắp mền cho em, rồi đừng gây tiếng động kẻo em giật mình.

Mai lí nhí cám ơn bác hàng xóm, rồi ngồi xuống bên em. Lần đầu tiên Mai phải săn sóc một người bệnh thế này. Mai chẳng biết làm gì cả, chỉ biết thoa dầu ở hai chân bé Tư mong cho em ấm áp lại. Tội nghiệp bé Tư quá, bé mất cả nét tinh anh. Bé gọi vài tiếng “má” làm Mai tủi thân ghê gớm. Giữa lúc này mà không có má bên cạnh, Mai thấy trống vắng quá! Mai biết làm gì cho em hết bệnh đây? Mai chỉ còn cách ôm em vào lòng, và nước mắt Mai ướt nhòe.

… Buổi tối má Mai về. Má ngạc nhiên khi thấy nhà cửa tối om, không một tiếng nói. Má hoảng hốt bật đèn lên…

Bé Ba nằm co ngủ trên giường. Bên cạnh, Mai ngồi ôm bé Tư còn thiêm thiếp. Tập vở bừa bãi trên bàn Mai. Lũ trẻ đã ngủ từ hồi chiều, quên cả ăn – vì quá mệt và buồn…


4

Bé Tư lành bệnh, nhờ bàn tay của má. Một tuần liền, má ở nhà săn sóc cho bé, chở bé đi chích thuốc, cho bé uống thuốc. Nhưng rồi má không đi đánh bạc trở lại nữa. Ba viết thư về, kể chuyện khổ cực ở miền núi. Má đọc thư ba cho chị em Mai nghe, đôi mắt má trĩu buồn. Má có vẻ suy tư ghê lắm. Má nghĩ gì trong đầu, Mai không biết. Nhưng có một điều làm cho Mai thấy vui rộn lên, đó là sự trìu mến chăm sóc của má đối với các con. Má không giao cho Mai giặt đồ, nấu bếp nữa, vì đã có má ở nhà làm hết rồi. Má săn sóc bé Ba, bé Tư như xưa, mà nhất định sự săn sóc của má hơn hẳn sự vụng về của Mai. Mai thấy căn nhà mình rộn rã tiếng nói cười. Má nhắc đến ba luôn, và má giục Mai viết thư cùng với má để thăm ba.

Tối nay khi má dỗ bé Ba, bé Tư ngủ say rồi, má đến bên Mai đang ngồi học ở bàn. Má vuốt tóc Mai mà đôi mắt long lanh. Má như muốn nói điều gì? Nhưng má thấy Mai còn nhỏ quá, Mai sẽ không hiểu ý má, nên má khó mở lời? Không đâu má, con hiểu hết mà! Con vẫn thương má vô cùng.

Má không nói những điều Mai dự đoán, mà má đưa tay giở từng trang vở bài học của Mai. Những lời phê của cô giáo – bằng mực nguyên tử đỏ chói – và những con số hai ở mỗi bài học đập vào mắt má. Luôn cả những chữ gò thật thẳng bằng bút mực xanh đã bị nhòe nhoẹt vì nước mắt của Mai cũng hiện trước mắt má. Má nhìn vào đó đăm đăm, rồi nhìn Mai. Mai không biết lấy gì để đo lường sự thương yêu trong ánh mắt của má. Có người hiểu Mai rồi! Chính là má! Má sẽ chẳng bao giờ nghĩ cho Mai là đứa lười học. Đã lâu rồi, Mai thèm được gần bên má, được má âu yếm, cũng như Mai đã thèm được lãnh con số tám dễ yêu trong tập.

Tự nhiên má ôm Mai, má hỏi Mai đang học bài gì. Đây này, môn Vệ sinh đó má, ngày mai cô giáo gọi Mai lên đọc bài. Mai sợ lắm, những lời chê trách, con số hai không đẹp, tia nhìn của bạn bè, nét buồn rầu của Thảo… Mai ngu lắm má à. Bài nào Mai cũng không thuộc. Mai xấu hổ quá! Trí nhớ của Mai mịt mờ như sương. Mai muốn khóc… Nhưng má đã cầm vở Mai lên, má giảng lại bài cho Mai, từng câu, từng chữ. Má bắt Mai học mỗi câu ba lần, rồi cả bài, và má bảo Mai đọc lại. Mai đọc hết bài rất trôi chảy. Má siết mạnh tay Mai. Mai muốn reo lên, và muốn khóc vùi trong lòng má.


5

Con số tám nằm gọn gàng bên bài Vệ sinh, kèm theo những lời khen của cô giáo làm Mai sung sướng đứng lặng. Mai thấy cái hãnh diện của kẻ thuộc bài. Mai thấy mọi người như mến phục Mai. Cô giáo hơi ngạc nhiên nhưng lấy làm hài lòng lắm. Bàn, ghế, đèn, quạt và bảng đen như cũng nhìn Mai trìu mến. Có lẽ sự thật không đến nỗi thế đâu, nhưng trí tưởng tượng của Mai, theo sự vui mừng, làm cho Mai thấy mọi vật như cùng vui với mình. Từ nay về sau sẽ không bao giờ Mai khóc vì không thuộc bài nữa, và Mai sẽ lên hạng, Mai được mọi người yêu.
Sự thuộc bài của Mai làm Thảo vui mừng. Thảo tin rằng nhờ cái lá thuộc bài của Thảo cho mà Mai học bài chóng thuộc. Thảo cũng hãnh diện, cái hãnh diện của một kẻ biết giúp đỡ người khác – nhất là giúp cho một người bạn thuộc bài. Thảo cũng tin cái lá thuộc bài là một bà tiên.
Nhưng Thảo không biết – và cả Mai cũng chưa biết – rằng cái lá thuộc bài ấy, hôm bé Tư bị bệnh thình lình, Mai đã hoảng hốt vất cặp lên bàn, sách vở bị tung ra, nó đã rơi xuống đất, và mất tích từ đó… 


 NGUYỄN THỊ MỸ THANH  

(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Hoa số 149, ra ngày 15/3/1971)