CHƯƠNG 12
Đêm đen, gió rét, không khí ẩm. Trăng bị mây đen che
khuất, như đồng lõa với kẻ ác trong cuộc đi trốn. Mary tự hỏi có thể kêu
cứu bằng cách đánh thức dân làng? Cùng lúc ấy, nàng thấy bàn tay người
đàn ông trước mặt:
- Đừng nghĩ bậy, Mary! Ở Altarnun này dân chúng vào giường sớm. Cô mà mở miệng, thì chỉ trong nháy mắt cô đã nằm dài bất động dưới cỏ ướt, tuổi trẻ và sắc đẹp tiêu tan... Và khi dân chúng mở mắt ra, họ chỉ còn biết thương tiếc cô, còn tôi, tôi biến mất vào bóng tối. Đừng sợ lạnh, ngựa chạy một lúc sẽ ấm. Vả lại, cô đã quen với những cuộc hành trình khó nhọc rồi mà!
Người đàn ông cỡi con ngựa xám, ngựa hồng Mary cỡi bị cột cương chung vào ngựa ông ta.
Họ tiến ra đồng hoang. Không một đường mòn mà toàn những đám cỏ cao, ẩm ướt, những bụi thạch thảo khẳng khiu. Đôi lúc, ngựa vấp phải đá rắn hay lún xuống đất mềm cạnh các vũng lầy. Quanh hai bên người, núi đá sừng sững ngăn cách họ với thế giới bên ngoài. Hai con ngựa song song trong lòng thung lũng.
Hy vọng trong lòng cô gái như tàn dần: đồi núi đen ngòm làm nàng cảm thấy nhỏ bé, bất lực, mỗi bước chân ngựa bước tới, nàng càng xa North Hill và đồng hoang thì thuộc về thế giới kỳ bí đáng sợ nhưng lại quen thuộc với con người cạnh nàng. Sự im lặng làm Mary ngạt thở, nàng hỏi lên:
- Ta sẽ đi đâu?
- Không lâu đâu, bờ bể Cornouailess sẽ được canh phòng cẩn mật, nhưng nhờ trời hôm nay thì chưa, chưa đâu. Dọc theo bờ đá từ Boseastle đến Hartland chỉ có lũ chim rừng và hải âu. Mary! Tôi biết cô không muốn nghe trong lúc này đến hai tiếng tàu bè, nhưng chúng ta sẽ dùng thuyền bể để rời xứ...
- Nghĩa là ông đưa tôi ra khỏi nước Anh?
- Còn biết cách nào khác bây giờ? Từ đây, Cha Davey sẽ rời bỏ giáo hội mà trở về đời sống của kẻ... suốt đời lẩn trốn. Nhưng Mary ạ, cô đừng lo : Cô sẽ thấy nhiều cảnh đẹp ở Tây-ban-nha, ở Phi châu, nếu cô muốn, cô sẽ được dẫm chân trên cát nóng sa mạc. Cô muốn đi đâu, tôi cũng chìu cô... Ủa! Sao cô cười? Cô định chế giễu tôi? Hay cô cho là tôi nói dối?
- Không! Tôi cười vì những điều vô lý ông vừa đề nghị. Ông quên rằng hễ có dịp là tôi tố cáo ông ngay, hay sao?
- Cô quên chứ đâu phải tôi quên: đây không phải là miền nam của cô: Helford dọc theo bờ sông, làng nọ tiếp nối làng kia. Đây khác hẳn: miền bắc cũng hoang vu như đồng hoang, cô sẽ không còn thấy khuôn mặt người nào khác, ngoài khuôn mặt tôi cho đến hải cảng nào mà tôi quyết định dừng ngựa lại.
Mary gặng:
- Như thế, có gì chứng tỏ rằng khi rời Anh quốc, đến Phi châu hay đi đâu nữa, tôi có thể trở thành bạn một kẻ sát nhân như hạng của ông?
- Tôi tin là lúc đó cô đã quên...
- Quên cả việc ông giết dì tôi?
- Phải, và cô còn quên nhiều việc khác nữa: đồng hoang man dã, lữ quán Giao Mai, quên cả những giọt nước mắt trên đường Launceston, cả gã con trai trộm ngựa và nụ hôn đầu của gã đã làm xao xuyến tim cô...
- Ông quá chủ quan...
- Không đâu! Tôi biết rõ các cô, tôi biết rõ giấc mơ của các cô con gái. Rồi cô xem, tôi hơn em Joss, tên trộm ngựa, về điểm này. Cô sẽ thấy. Đừng nhíu mày, đừng tỏ vẻ kinh tởm tôi kẻo rồi đến khi cô hối hận thì quá muộn! Mary!
Mary quay đi để khỏi thấy khuôn mặt người trên ngựa cạnh cô.
Đôi ngựa tiến tới chậm chạp, bóng tối dày đặc quanh họ, thỉnh thoảng ngựa dừng lại bối rối, sợ hãi: mặt đất ẩm ướt, lún sâu hơn. Mary không thấy đồi núi nữa, nhưng nàng hiểu rằng quanh đây đầm lầy rất đáng sợ. Nàng liếc nhìn người đàn ông. Ông ta chồm mình tới trước như muốn chọc thủng bóng đêm dày kịt. Môi mím chặt, ông ta cũng hiểu rằng bất trắc, hiểm nguy đang đón đợi mình.
Mary nóng bừng tuy nàng đang lạnh cóng: nàng đã thấy đầm lầy giữa ban ngày; những bụi cỏ nâu lung lay trước gió như mời mọc nhưng trong nháy mắt đã chôn trọn một con bê rừng ngu dại tham ăn rồi mặt nước đen ngòm lại hiền lành, cỏ nâu bên trên lại mời mọc...
Mary biết ngay cả dân sống trong đồng hoang cũng vẫn lạc bước, sa chân... Nàng đâu quên rằng Matt... anh ruột của Jean đã chết đuối trong lầy? Phải! Người đàn ông, bạn đồng hành bất đắc dĩ của nàng thông thuộc đồng hoang, từng đường ngang nẻo tắt, nhưng vẫn không có nghĩa là hắn không lầm lẫn, nhất là trong đêm tối mịt như thế này.
Người đàn ông giở mũ ra để dễ thấy hơn, hết quay phải lại quay sang trái dò đường. Sương bay là là trên mặt đất, sương lượn lờ ngang mình ngựa đầu người. Sương bám vào tóc, vào áo... Trong giây lát, sương mù làm thành một bức màn trắng toát chắn ngang mắt hai người.
Người đàn ông kéo dây cương cho ngựa đứng lại. Hai con vật run rẩy hí vang lên.
Ông ta kiên nhẫn đợi, cất tiếng nói với Mary tuy không thấy nàng đâu:
- Kiên nhẫn chút nữa, sương ở đồng hoang rất mau tan !
Nhưng cả hai đợi mãi, màn sương không tan loãng tí nào. Lờ mờ sau lưng nàng, Mary quay lại thấy bộ mặt ông ta trắng toát như bộ mặt mạ bằng sương. Giọng ông ta chua chát:
- Chúa của cô không giúp tôi chăng? Nhưng nếu quả thế, Chúa cũng không nên quên rằng cô đang bị buộc dính cạnh tôi, cô sẽ cùng số phận với tôi, kia mà! Dù sao, sương mù quái ác này không tan trước rạng đông, đành chờ vậy!
Mary im lặng. Hy vọng như bừng lên trong tim nàng, nhưng đồng thời, cô gái lại cũng nhớ ra rằng sương mù là kẻ thù của thợ săn cũng như con mồi!
Người đàn ông kéo cương ngựa bất ngờ, giục đi về phía trái, tiến lên chỗ đất cứng hơn, ngựa đạp trên đá. Sương mù vẫn bao phủ xung quanh.
- Đêm nay chúng ta dừng nghỉ lại đây. Tối nay, cô chịu khó ngủ trên giường đá vậy. Ngày mai sẽ lên đường. Đây là Roughton.
Ngựa lộc cộc lên đồi, chậm chạp. Một chốc sau, Mary đã ngồi trong hốc đá. Nom nàng tựa một bóng ma trong tấm áo choàng. Cô gái cố thu mình lại, đầu gối co dưới cằm, hai tay vòng quanh hai chân mà khí lạnh vẫn thấm vào tận xương cô.
Hai con ngựa nép cạnh nhau bên vách đá tìm hơi ấm của nhau, chừng như chúng cũng thấy sợ hãi nên chốc chốc lại quay đầu nhìn chủ bằng những con mắt lo âu.
Người đàn ông ngồi cách cô gái cỡ hai thước thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn nàng như muốn gợi chuyện, nhưng Mary tránh cái nhìn ấy, giữ vẻ lạnh nhạt xa vắng làm ông ta ngượng ngập:
- Cô nên ngủ đi cho khỏe. Đường còn dài và vất vả lắm đó, Mary!
- Tôi không buồn ngủ...
Mary trả lời vắn tắt. Thật ra, cô gái không dám ngủ, cô luôn phải đề phòng. Im lặng, im lặng một cách nặng nề, khó thở đầy đe dọa. Chỉ có tiếng gió rít qua khe đá, tiếng gió tợ như tiếng rền rĩ, ai oán, não nuột của những linh hồn vất vưởng lang thang không chỗ trú giữa đêm thâu giá buốt.
Mary kéo mũ áo choàng chụp lên đầu, bịt kín hai tai để khỏi nghe tiếng kêu than rởn gáy đó nhưng từ trong hốc đá sau lưng nàng, tiếng hú rền rĩ vẫn vang lên. Đối diện cô gái, người đàn ông khẽ dặng hắng như toan cất tiếng nhưng giật mình vì tiếng vó ngựa nện trên đá rắn, nên thôi.
Mary quá mệt nhọc nên không chống nổi, thiếp ngủ đi một lúc. Khi nàng hoảng hốt choàng dậy, người đàn ông vẫn chăm chú nhìn nàng, nụ cười khó hiểu đọng trên môi, cằm gác trên đầu gối.
- Cô không thức nổi đâu, còn lâu mới sáng. Hiện mới nửa đêm thôi. Ngủ đi Mary! Cô ngờ tôi muốn hại cô sao?
- Tôi không ngờ chi cả, nhưng tôi không muốn ngủ, thế thôi.
Mary run rẩy trong khi nói.
- Cô lạnh cóng thế kia. Phía tôi không có luồng gió, đỡ rét hơn. Chúng ta cần nương tựa vào nhau, sưởi ấm cho nhau...
- Tôi không cần phải tựa vào bất cứ ai.
- Sở dĩ tôi nói thế là vì tôi biết rõ đêm trường ở đồng hoang. Những giờ lạnh lẽo nhất là những giờ trước rạng đông. Hãy đến tựa vào lưng tôi mà ngủ một giấc cho lại sức! Mary! Vì cô mà tôi vất vả, khốn đốn, đang từ một linh mục khả kính tuột xuống số phận của kẻ trốn nhủi trốn chui; nhưng tôi không hề oán hận cô, trái lại...
Vó ngựa lại khua lộc cộc làm người đàn ông ngừng một phút, nghe ngóng quanh mình, giọng ông ta như giọng của người bạn tâm sự cùng người bạn:
- Mary! Chớ giữ vẻ lạnh nhạt, khinh miệt tôi. Tôi cũng thuộc dòng dõi khá giả, lương thiện, không khác chi cô. Xã hội bất công, tàn nhẫn đã xua đuổi tôi, dồn tôi vào thế kẹt... Một đứa trẻ mồ côi cha, chỉ còn tình mẹ mà rồi tôi chưa đến tuổi vào đời mẹ tôi bị bạo bệnh lại cũng mất đi. Tôi...
Mary chợt nhớ đến mẹ mình vì những lời người đối diện. Nàng hỏi không suy nghĩ:
- Mẹ ông mất lúc ông bao nhiêu tuổi?
- Mười chín, phải, tôi mới mười chín tuổi đầu. Cái tuổi cần có người hướng dẫn, dắt dìu, nâng đỡ...
Mary lạnh lùng:
- Ra những tội ác ông nhúng tay vào, những giọt máu người ông làm đổ ra đều do cái chết của mẹ ông? Ông không có lỗi gì hết? Khá lắm! Ông sẽ có dịp tự bào chữa, biện hộ một ngày kia... chắc cũng không lâu...
Lần thứ nhất, Mary thấy người đàn ông bí mật cúi xuống, đầu gục trong hai bàn tay và tiếng thở dài của hắn làm nàng hơi... xao xuyến. Nhưng Mary tự cười mình: suýt nữa nàng đã bị hắn lừa bịp, đã gần tin hắn. Lúc nhỏ khi chưa thay mẹ trong những công việc đồng áng, trang trại, gà vịt, Mary cũng từng cắp sách đến trường, nàng lại cũng có đọc rất nhiều sách do cô giáo nàng cho phép, do các bạn con nhà khá giả gửi mua ở tỉnh lớn mang về. Hầu hết các nhân vật hung bạo, độc ác, bất lương trong sách đều viện cớ này, cớ nọ để chạy tội mình, đặc biệt chúng hay dùng xã hội để làm chỗ gánh tội thay. Tại xã hội thế này, tại xã hội thế kia, tại xã hội thế nọ... vân vân... Chúng không có tội gì cả. Thậm chí, có khi chúng làm cho mấy ông tòa cũng cảm động, mủi lòng, phân vân, bàn cãi khá lâu trước khi đi đến quyết định cuối cùng...
Mary cất tiếng cười khanh khách, tiếng cười của nàng làm cho gã đàn ông ngẩng phắt lên:
- Cô chế giễu tôi đó phỏng?
- Không! Tôi không chế giễu ông. Tôi đang nghĩ đến một chuyện hay hay, và chuyện đó làm tôi bật cười, tuy tình cảnh tôi chả có gì vui cả.
Mở to đôi mắt trong suốt lạnh lẽo như thủy tinh, gã đàn ông hỏi:
- Cô có thể cho tôi biết với không? Mary! Cô bảo không ngủ được, vậy ta nên nói chuyện cho quên trời lạnh, đêm dài... Nào, cô thử kể...
- Tôi đang nghĩ một chuyện ngộ nghĩnh thế này đây: sau khi mẹ chết, tôi đến lữ quán Giao Mai, khám phá được âm mưu của các người và tôi... nhập bọn. Có phải cả ông lẫn Joss Merlyn đều cho là tôi khá thông minh! Đó, tôi sẽ dùng cái thông minh trời cho, cái vốn của một đứa con gái nghèo, mồ côi... Tôi sẽ làm đủ tội ác, tay lấm đầy máu người vô tội. Nhưng tôi không yên lòng như ông, cũng không say sưa hốt hoảng kiểu Joss Merlyn. Vì tôi còn tin Chúa. Tôi vẫn tìm đến cha Davey – tức là ông, vị linh mục giả – nhưng không phải để tố cáo tội ác mà xưng tội. Cha Davey Francis khả kính sẽ giải tội cho tôi bằng lời lẽ như thế này: "Con cứ yên tâm, con không có tội gì cả, lỗi ở mẹ con, sao bà lại chết trong lúc con chưa đến tuổi vào đời? Sao xã hội không bao bọc con trong nhung ấm. Con tiếp tục... Mỗi lần có chi thắc mắc, hãy đến với cha!" . Thế là tôi bình tâm trở lại, quay về lữ quán, tiếp tục... tiếp tục việc bất lương cùng với quí ông. Cho đến một hôm, ba cái thòng lọng được mắc lên và trước khi chui vào đó, tôi vỡ lẽ ra rằng linh mục khả kính Francis chính là thủ lãnh của tôi...
Mary cười ngặt nghẽo, cười như một người điên, không tự chủ. Thình lình, người đàn ông quát lên:
- Thôi! Cô vừa chứ, tôi hết chịu nổi cô! Cô có câm đi không thì bảo? Này tôi nói thật, đừng tưởng tôi mê sắc đẹp cô. Cô là gì? Chỉ là một gái quê có chút duyên sắc dễ coi, cô chả phải là thứ lá ngọc cành vàng trong cung điện. Tôi chỉ quí mến cô ở óc mạo hiểm, ở trí thông minh và ở lòng can đảm. Tôi cần những cái đó. Sau này, cô sẽ được việc cho tôi hơn cô tưởng. Vì vậy nên tôi không giết cô. Tôi nói cho cô biết, đừng có kiêu hãnh, vênh cái mặt lên, tôi không hay nổi nóng. Nhưng tôi mà nổi nóng thì, cô biết chứ: cha phó Francis Davey đã làm tôi nổi nóng, Joss Merlyn cũng chọc tức tôi, cô đừng dại dột, xác cô sẽ chỉ có quạ biết thôi!
Mary không phải là thiếu nữ được bọc trong gòn như cô từng tự phụ. Huống chi trong những ngày sống tại lữ quán Giao Mai nàng đã quen đương đầu với những điều ghê gớm, đáng sợ nhiều lần. Cũng nhiều lần thấy can đảm tinh thần, lòng yêu đời cùng một loạt hao hụt, tiêu tan, có lần nàng muốn chết để khỏi chứng kiến những thử thách trên sức chịu đựng, chạm đến lòng tin tưởng sắt đá về điều thiện, về lòng nhân mà nàng được giáo dục từ tấm bé. Nhưng từ khi nàng được biết Jean Merlyn đã vào nhà thờ hôm sáng chúa nhật trước khi tố cái kẻ sát nhân, được biết Jean không phải như nàng nghi ngờ, thì nàng bỗng dưng yêu đời trở lại. Yêu đời như khi còn mẹ, như khi nàng đứng tựa vào rào nhìn đàn gà tung tăng trong nắng sớm, hay đàn vịt bì bõm dưới giòng suối trong veo, như khi nàng vuốt ve con bê còn óng mượt vừa chui ra khỏi lòng mẹ nó...
Vì vậy, nàng không nao núng trước những lời đe dọa của gã đàn ông, tuy nàng biết rằng hắn không chỉ dọa suông, nếu cần, hắn ra tay không do dự. Nàng lại biết hắn cần nàng vì những lẽ gì. Nàng bình tĩnh:
- Đừng dọa tôi vô ích. Tôi không thiết sống. Từ khi mẹ tôi chết, tôi sống giữa một bọn man rợ, bất lương. Cuộc sống như vậy có nghĩa lý gì? Tôi cần tìm sự yên tĩnh trong tâm hồn cũng như muốn được nghỉ ngơi thể xác. Vì sao? Vì tôi quá mỏi mệt, tôi kiệt sức rồi. Hãy giết tôi đi! Hỡi nhà tu giả! Tôi cảm ơn ông nhiều lắm!
Giọng nàng đều đặn, lạnh lẽo như sương đêm, giọt rõ ràng từng giọt một. Người đàn ông tránh nhìn nàng, im lặng giây lâu rồi chậm rãi nói:
- Cô sẽ được toại nguyện vào lúc nào tôi thấy cô vô dụng cho tôi, vào lúc nào việc giết cô cần thiết cho tôi. Bây giờ thì chưa, chưa đến lúc...
Mary nửa thức nửa ngủ rất lâu, rồi đột nhiên nàng choàng tỉnh vì một bàn tay lạnh ngắt bụm miệng nàng. Cô gái toan kêu, toan vùng vẫy nhưng người đàn ông đã nhanh nhẹn dùng dây nịt trói nghiến hai tay cô gái, bẻ quặt sau lưng. Ông ta hành động một cách bình tĩnh, lạnh lùng, mỗi cử động như đều tính toán kỹ, chính xác; rút từ cái khăn tay, ông ta gấp lại, bịt cứng miệng cô gái.
Xong đâu đấy, ông ta đứng lên, dắt nàng ra phía sau mấy khối đá to lớn, nói:
- Mary! Xin lỗi cô nhé? Vì sự an toàn chung cho cả hai ta. Tôi không ngờ bị vướng vào thứ sương mù quái ác nên mới chậm trễ tại đây. Sự im lặng của cô lúc này rất cần thiết, cô sẽ hiểu vì sao.
Trèo lên đỉnh đồi, ông ta nắm tay Mary kéo lên và chỉ cho nàng thấy đám khói trắng bay phía dưới.
Mary chợt hiểu: nàng đã thiếp đi lâu hơn nàng tưởng và trong lúc đó, bóng đêm cũng tan dần. Mây bay là là khắp vòm trời mầu chì. Hướng đông, một tia sáng mong manh báo hiệu vầng dương sắp hiện ra, quét tan bóng tối, bóng tối đồng lõa cùng tội ác!
Nhưng sương mù vẫn chưa tan hẳn, bao phủ những phiến đá bên dưới làm thành một lớp màn trắng. Theo hướng ông ta chỉ, Mary vẫn chưa thấy gì rõ rệt ngoài những bụi thạch thảo ướt đẫm sương... Nhưng trong thoáng chốc, có tiếng kêu, tiếng reo hò vọng lại tuy không rõ lắm.
Rồi thì, tiếng reo hò vọng lên mồn một như muốn xé toạc màn sương.
- Cô đã hiểu chưa?
Mary lắc đầu. Người đàn ông cười nụ cười đượm vẻ chua chát, buồn rầu :
- Tôi quên đi mất một điều quan trọng : Ông Bassat có nuôi một đàn chó săn. Thật đáng tiếc cho cả hai ta.
Mary kinh hãi thật tình, nàng nhìn từ người đối diện đến hai con ngựa, phân vân lo lắng. Trong hốc đá, hai con vật đáng thương vẫn nép vào nhau, run rẩy.
- Chúng ra phải xua ngựa xuống đồng hoang để đánh lạc hướng đoàn chó săn đi. Chúng trở thành vô ích cho chúng ta, có chúng, chó càng dễ tìm ta. Vif-Arjent! Mày lại làm hại chủ lần nữa đây này!
Mary sững sờ nhìn người đàn ông tháo cương hai con ngựa và dắt chúng đến dốc đồi, đoạn cúi xuống, vốc từng nắm đá, ông ta ném liên tục, dữ dội vào hai con ngựa. Hai con vật cắm cổ chạy tràn theo triền dốc, giữa những bụi gai và đá rắn. Người đàn ông tiếp tục nhặt đá, ném, ném, ném không ngừng...
Mary nghe tiếng ngựa hí vang lên, phi nhanh xuống dốc, tung đất đá bốn phía và sau cùng mất dạng giữa làn hơi trắng xóa bao quanh.
- Đừng nghĩ bậy, Mary! Ở Altarnun này dân chúng vào giường sớm. Cô mà mở miệng, thì chỉ trong nháy mắt cô đã nằm dài bất động dưới cỏ ướt, tuổi trẻ và sắc đẹp tiêu tan... Và khi dân chúng mở mắt ra, họ chỉ còn biết thương tiếc cô, còn tôi, tôi biến mất vào bóng tối. Đừng sợ lạnh, ngựa chạy một lúc sẽ ấm. Vả lại, cô đã quen với những cuộc hành trình khó nhọc rồi mà!
Người đàn ông cỡi con ngựa xám, ngựa hồng Mary cỡi bị cột cương chung vào ngựa ông ta.
Họ tiến ra đồng hoang. Không một đường mòn mà toàn những đám cỏ cao, ẩm ướt, những bụi thạch thảo khẳng khiu. Đôi lúc, ngựa vấp phải đá rắn hay lún xuống đất mềm cạnh các vũng lầy. Quanh hai bên người, núi đá sừng sững ngăn cách họ với thế giới bên ngoài. Hai con ngựa song song trong lòng thung lũng.
Hy vọng trong lòng cô gái như tàn dần: đồi núi đen ngòm làm nàng cảm thấy nhỏ bé, bất lực, mỗi bước chân ngựa bước tới, nàng càng xa North Hill và đồng hoang thì thuộc về thế giới kỳ bí đáng sợ nhưng lại quen thuộc với con người cạnh nàng. Sự im lặng làm Mary ngạt thở, nàng hỏi lên:
- Ta sẽ đi đâu?
- Không lâu đâu, bờ bể Cornouailess sẽ được canh phòng cẩn mật, nhưng nhờ trời hôm nay thì chưa, chưa đâu. Dọc theo bờ đá từ Boseastle đến Hartland chỉ có lũ chim rừng và hải âu. Mary! Tôi biết cô không muốn nghe trong lúc này đến hai tiếng tàu bè, nhưng chúng ta sẽ dùng thuyền bể để rời xứ...
- Nghĩa là ông đưa tôi ra khỏi nước Anh?
- Còn biết cách nào khác bây giờ? Từ đây, Cha Davey sẽ rời bỏ giáo hội mà trở về đời sống của kẻ... suốt đời lẩn trốn. Nhưng Mary ạ, cô đừng lo : Cô sẽ thấy nhiều cảnh đẹp ở Tây-ban-nha, ở Phi châu, nếu cô muốn, cô sẽ được dẫm chân trên cát nóng sa mạc. Cô muốn đi đâu, tôi cũng chìu cô... Ủa! Sao cô cười? Cô định chế giễu tôi? Hay cô cho là tôi nói dối?
- Không! Tôi cười vì những điều vô lý ông vừa đề nghị. Ông quên rằng hễ có dịp là tôi tố cáo ông ngay, hay sao?
- Cô quên chứ đâu phải tôi quên: đây không phải là miền nam của cô: Helford dọc theo bờ sông, làng nọ tiếp nối làng kia. Đây khác hẳn: miền bắc cũng hoang vu như đồng hoang, cô sẽ không còn thấy khuôn mặt người nào khác, ngoài khuôn mặt tôi cho đến hải cảng nào mà tôi quyết định dừng ngựa lại.
Mary gặng:
- Như thế, có gì chứng tỏ rằng khi rời Anh quốc, đến Phi châu hay đi đâu nữa, tôi có thể trở thành bạn một kẻ sát nhân như hạng của ông?
- Tôi tin là lúc đó cô đã quên...
- Quên cả việc ông giết dì tôi?
- Phải, và cô còn quên nhiều việc khác nữa: đồng hoang man dã, lữ quán Giao Mai, quên cả những giọt nước mắt trên đường Launceston, cả gã con trai trộm ngựa và nụ hôn đầu của gã đã làm xao xuyến tim cô...
- Ông quá chủ quan...
- Không đâu! Tôi biết rõ các cô, tôi biết rõ giấc mơ của các cô con gái. Rồi cô xem, tôi hơn em Joss, tên trộm ngựa, về điểm này. Cô sẽ thấy. Đừng nhíu mày, đừng tỏ vẻ kinh tởm tôi kẻo rồi đến khi cô hối hận thì quá muộn! Mary!
Mary quay đi để khỏi thấy khuôn mặt người trên ngựa cạnh cô.
Đôi ngựa tiến tới chậm chạp, bóng tối dày đặc quanh họ, thỉnh thoảng ngựa dừng lại bối rối, sợ hãi: mặt đất ẩm ướt, lún sâu hơn. Mary không thấy đồi núi nữa, nhưng nàng hiểu rằng quanh đây đầm lầy rất đáng sợ. Nàng liếc nhìn người đàn ông. Ông ta chồm mình tới trước như muốn chọc thủng bóng đêm dày kịt. Môi mím chặt, ông ta cũng hiểu rằng bất trắc, hiểm nguy đang đón đợi mình.
Mary nóng bừng tuy nàng đang lạnh cóng: nàng đã thấy đầm lầy giữa ban ngày; những bụi cỏ nâu lung lay trước gió như mời mọc nhưng trong nháy mắt đã chôn trọn một con bê rừng ngu dại tham ăn rồi mặt nước đen ngòm lại hiền lành, cỏ nâu bên trên lại mời mọc...
Mary biết ngay cả dân sống trong đồng hoang cũng vẫn lạc bước, sa chân... Nàng đâu quên rằng Matt... anh ruột của Jean đã chết đuối trong lầy? Phải! Người đàn ông, bạn đồng hành bất đắc dĩ của nàng thông thuộc đồng hoang, từng đường ngang nẻo tắt, nhưng vẫn không có nghĩa là hắn không lầm lẫn, nhất là trong đêm tối mịt như thế này.
Người đàn ông giở mũ ra để dễ thấy hơn, hết quay phải lại quay sang trái dò đường. Sương bay là là trên mặt đất, sương lượn lờ ngang mình ngựa đầu người. Sương bám vào tóc, vào áo... Trong giây lát, sương mù làm thành một bức màn trắng toát chắn ngang mắt hai người.
Người đàn ông kéo dây cương cho ngựa đứng lại. Hai con vật run rẩy hí vang lên.
Ông ta kiên nhẫn đợi, cất tiếng nói với Mary tuy không thấy nàng đâu:
- Kiên nhẫn chút nữa, sương ở đồng hoang rất mau tan !
Nhưng cả hai đợi mãi, màn sương không tan loãng tí nào. Lờ mờ sau lưng nàng, Mary quay lại thấy bộ mặt ông ta trắng toát như bộ mặt mạ bằng sương. Giọng ông ta chua chát:
- Chúa của cô không giúp tôi chăng? Nhưng nếu quả thế, Chúa cũng không nên quên rằng cô đang bị buộc dính cạnh tôi, cô sẽ cùng số phận với tôi, kia mà! Dù sao, sương mù quái ác này không tan trước rạng đông, đành chờ vậy!
Mary im lặng. Hy vọng như bừng lên trong tim nàng, nhưng đồng thời, cô gái lại cũng nhớ ra rằng sương mù là kẻ thù của thợ săn cũng như con mồi!
Người đàn ông kéo cương ngựa bất ngờ, giục đi về phía trái, tiến lên chỗ đất cứng hơn, ngựa đạp trên đá. Sương mù vẫn bao phủ xung quanh.
- Đêm nay chúng ta dừng nghỉ lại đây. Tối nay, cô chịu khó ngủ trên giường đá vậy. Ngày mai sẽ lên đường. Đây là Roughton.
Ngựa lộc cộc lên đồi, chậm chạp. Một chốc sau, Mary đã ngồi trong hốc đá. Nom nàng tựa một bóng ma trong tấm áo choàng. Cô gái cố thu mình lại, đầu gối co dưới cằm, hai tay vòng quanh hai chân mà khí lạnh vẫn thấm vào tận xương cô.
Hai con ngựa nép cạnh nhau bên vách đá tìm hơi ấm của nhau, chừng như chúng cũng thấy sợ hãi nên chốc chốc lại quay đầu nhìn chủ bằng những con mắt lo âu.
Người đàn ông ngồi cách cô gái cỡ hai thước thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn nàng như muốn gợi chuyện, nhưng Mary tránh cái nhìn ấy, giữ vẻ lạnh nhạt xa vắng làm ông ta ngượng ngập:
- Cô nên ngủ đi cho khỏe. Đường còn dài và vất vả lắm đó, Mary!
- Tôi không buồn ngủ...
Mary trả lời vắn tắt. Thật ra, cô gái không dám ngủ, cô luôn phải đề phòng. Im lặng, im lặng một cách nặng nề, khó thở đầy đe dọa. Chỉ có tiếng gió rít qua khe đá, tiếng gió tợ như tiếng rền rĩ, ai oán, não nuột của những linh hồn vất vưởng lang thang không chỗ trú giữa đêm thâu giá buốt.
Mary kéo mũ áo choàng chụp lên đầu, bịt kín hai tai để khỏi nghe tiếng kêu than rởn gáy đó nhưng từ trong hốc đá sau lưng nàng, tiếng hú rền rĩ vẫn vang lên. Đối diện cô gái, người đàn ông khẽ dặng hắng như toan cất tiếng nhưng giật mình vì tiếng vó ngựa nện trên đá rắn, nên thôi.
Mary quá mệt nhọc nên không chống nổi, thiếp ngủ đi một lúc. Khi nàng hoảng hốt choàng dậy, người đàn ông vẫn chăm chú nhìn nàng, nụ cười khó hiểu đọng trên môi, cằm gác trên đầu gối.
- Cô không thức nổi đâu, còn lâu mới sáng. Hiện mới nửa đêm thôi. Ngủ đi Mary! Cô ngờ tôi muốn hại cô sao?
- Tôi không ngờ chi cả, nhưng tôi không muốn ngủ, thế thôi.
Mary run rẩy trong khi nói.
- Cô lạnh cóng thế kia. Phía tôi không có luồng gió, đỡ rét hơn. Chúng ta cần nương tựa vào nhau, sưởi ấm cho nhau...
- Tôi không cần phải tựa vào bất cứ ai.
- Sở dĩ tôi nói thế là vì tôi biết rõ đêm trường ở đồng hoang. Những giờ lạnh lẽo nhất là những giờ trước rạng đông. Hãy đến tựa vào lưng tôi mà ngủ một giấc cho lại sức! Mary! Vì cô mà tôi vất vả, khốn đốn, đang từ một linh mục khả kính tuột xuống số phận của kẻ trốn nhủi trốn chui; nhưng tôi không hề oán hận cô, trái lại...
Vó ngựa lại khua lộc cộc làm người đàn ông ngừng một phút, nghe ngóng quanh mình, giọng ông ta như giọng của người bạn tâm sự cùng người bạn:
- Mary! Chớ giữ vẻ lạnh nhạt, khinh miệt tôi. Tôi cũng thuộc dòng dõi khá giả, lương thiện, không khác chi cô. Xã hội bất công, tàn nhẫn đã xua đuổi tôi, dồn tôi vào thế kẹt... Một đứa trẻ mồ côi cha, chỉ còn tình mẹ mà rồi tôi chưa đến tuổi vào đời mẹ tôi bị bạo bệnh lại cũng mất đi. Tôi...
Mary chợt nhớ đến mẹ mình vì những lời người đối diện. Nàng hỏi không suy nghĩ:
- Mẹ ông mất lúc ông bao nhiêu tuổi?
- Mười chín, phải, tôi mới mười chín tuổi đầu. Cái tuổi cần có người hướng dẫn, dắt dìu, nâng đỡ...
Mary lạnh lùng:
- Ra những tội ác ông nhúng tay vào, những giọt máu người ông làm đổ ra đều do cái chết của mẹ ông? Ông không có lỗi gì hết? Khá lắm! Ông sẽ có dịp tự bào chữa, biện hộ một ngày kia... chắc cũng không lâu...
Lần thứ nhất, Mary thấy người đàn ông bí mật cúi xuống, đầu gục trong hai bàn tay và tiếng thở dài của hắn làm nàng hơi... xao xuyến. Nhưng Mary tự cười mình: suýt nữa nàng đã bị hắn lừa bịp, đã gần tin hắn. Lúc nhỏ khi chưa thay mẹ trong những công việc đồng áng, trang trại, gà vịt, Mary cũng từng cắp sách đến trường, nàng lại cũng có đọc rất nhiều sách do cô giáo nàng cho phép, do các bạn con nhà khá giả gửi mua ở tỉnh lớn mang về. Hầu hết các nhân vật hung bạo, độc ác, bất lương trong sách đều viện cớ này, cớ nọ để chạy tội mình, đặc biệt chúng hay dùng xã hội để làm chỗ gánh tội thay. Tại xã hội thế này, tại xã hội thế kia, tại xã hội thế nọ... vân vân... Chúng không có tội gì cả. Thậm chí, có khi chúng làm cho mấy ông tòa cũng cảm động, mủi lòng, phân vân, bàn cãi khá lâu trước khi đi đến quyết định cuối cùng...
Mary cất tiếng cười khanh khách, tiếng cười của nàng làm cho gã đàn ông ngẩng phắt lên:
- Cô chế giễu tôi đó phỏng?
- Không! Tôi không chế giễu ông. Tôi đang nghĩ đến một chuyện hay hay, và chuyện đó làm tôi bật cười, tuy tình cảnh tôi chả có gì vui cả.
Mở to đôi mắt trong suốt lạnh lẽo như thủy tinh, gã đàn ông hỏi:
- Cô có thể cho tôi biết với không? Mary! Cô bảo không ngủ được, vậy ta nên nói chuyện cho quên trời lạnh, đêm dài... Nào, cô thử kể...
- Tôi đang nghĩ một chuyện ngộ nghĩnh thế này đây: sau khi mẹ chết, tôi đến lữ quán Giao Mai, khám phá được âm mưu của các người và tôi... nhập bọn. Có phải cả ông lẫn Joss Merlyn đều cho là tôi khá thông minh! Đó, tôi sẽ dùng cái thông minh trời cho, cái vốn của một đứa con gái nghèo, mồ côi... Tôi sẽ làm đủ tội ác, tay lấm đầy máu người vô tội. Nhưng tôi không yên lòng như ông, cũng không say sưa hốt hoảng kiểu Joss Merlyn. Vì tôi còn tin Chúa. Tôi vẫn tìm đến cha Davey – tức là ông, vị linh mục giả – nhưng không phải để tố cáo tội ác mà xưng tội. Cha Davey Francis khả kính sẽ giải tội cho tôi bằng lời lẽ như thế này: "Con cứ yên tâm, con không có tội gì cả, lỗi ở mẹ con, sao bà lại chết trong lúc con chưa đến tuổi vào đời? Sao xã hội không bao bọc con trong nhung ấm. Con tiếp tục... Mỗi lần có chi thắc mắc, hãy đến với cha!" . Thế là tôi bình tâm trở lại, quay về lữ quán, tiếp tục... tiếp tục việc bất lương cùng với quí ông. Cho đến một hôm, ba cái thòng lọng được mắc lên và trước khi chui vào đó, tôi vỡ lẽ ra rằng linh mục khả kính Francis chính là thủ lãnh của tôi...
Mary cười ngặt nghẽo, cười như một người điên, không tự chủ. Thình lình, người đàn ông quát lên:
- Thôi! Cô vừa chứ, tôi hết chịu nổi cô! Cô có câm đi không thì bảo? Này tôi nói thật, đừng tưởng tôi mê sắc đẹp cô. Cô là gì? Chỉ là một gái quê có chút duyên sắc dễ coi, cô chả phải là thứ lá ngọc cành vàng trong cung điện. Tôi chỉ quí mến cô ở óc mạo hiểm, ở trí thông minh và ở lòng can đảm. Tôi cần những cái đó. Sau này, cô sẽ được việc cho tôi hơn cô tưởng. Vì vậy nên tôi không giết cô. Tôi nói cho cô biết, đừng có kiêu hãnh, vênh cái mặt lên, tôi không hay nổi nóng. Nhưng tôi mà nổi nóng thì, cô biết chứ: cha phó Francis Davey đã làm tôi nổi nóng, Joss Merlyn cũng chọc tức tôi, cô đừng dại dột, xác cô sẽ chỉ có quạ biết thôi!
Mary không phải là thiếu nữ được bọc trong gòn như cô từng tự phụ. Huống chi trong những ngày sống tại lữ quán Giao Mai nàng đã quen đương đầu với những điều ghê gớm, đáng sợ nhiều lần. Cũng nhiều lần thấy can đảm tinh thần, lòng yêu đời cùng một loạt hao hụt, tiêu tan, có lần nàng muốn chết để khỏi chứng kiến những thử thách trên sức chịu đựng, chạm đến lòng tin tưởng sắt đá về điều thiện, về lòng nhân mà nàng được giáo dục từ tấm bé. Nhưng từ khi nàng được biết Jean Merlyn đã vào nhà thờ hôm sáng chúa nhật trước khi tố cái kẻ sát nhân, được biết Jean không phải như nàng nghi ngờ, thì nàng bỗng dưng yêu đời trở lại. Yêu đời như khi còn mẹ, như khi nàng đứng tựa vào rào nhìn đàn gà tung tăng trong nắng sớm, hay đàn vịt bì bõm dưới giòng suối trong veo, như khi nàng vuốt ve con bê còn óng mượt vừa chui ra khỏi lòng mẹ nó...
Vì vậy, nàng không nao núng trước những lời đe dọa của gã đàn ông, tuy nàng biết rằng hắn không chỉ dọa suông, nếu cần, hắn ra tay không do dự. Nàng lại biết hắn cần nàng vì những lẽ gì. Nàng bình tĩnh:
- Đừng dọa tôi vô ích. Tôi không thiết sống. Từ khi mẹ tôi chết, tôi sống giữa một bọn man rợ, bất lương. Cuộc sống như vậy có nghĩa lý gì? Tôi cần tìm sự yên tĩnh trong tâm hồn cũng như muốn được nghỉ ngơi thể xác. Vì sao? Vì tôi quá mỏi mệt, tôi kiệt sức rồi. Hãy giết tôi đi! Hỡi nhà tu giả! Tôi cảm ơn ông nhiều lắm!
Giọng nàng đều đặn, lạnh lẽo như sương đêm, giọt rõ ràng từng giọt một. Người đàn ông tránh nhìn nàng, im lặng giây lâu rồi chậm rãi nói:
- Cô sẽ được toại nguyện vào lúc nào tôi thấy cô vô dụng cho tôi, vào lúc nào việc giết cô cần thiết cho tôi. Bây giờ thì chưa, chưa đến lúc...
Mary nửa thức nửa ngủ rất lâu, rồi đột nhiên nàng choàng tỉnh vì một bàn tay lạnh ngắt bụm miệng nàng. Cô gái toan kêu, toan vùng vẫy nhưng người đàn ông đã nhanh nhẹn dùng dây nịt trói nghiến hai tay cô gái, bẻ quặt sau lưng. Ông ta hành động một cách bình tĩnh, lạnh lùng, mỗi cử động như đều tính toán kỹ, chính xác; rút từ cái khăn tay, ông ta gấp lại, bịt cứng miệng cô gái.
Xong đâu đấy, ông ta đứng lên, dắt nàng ra phía sau mấy khối đá to lớn, nói:
- Mary! Xin lỗi cô nhé? Vì sự an toàn chung cho cả hai ta. Tôi không ngờ bị vướng vào thứ sương mù quái ác nên mới chậm trễ tại đây. Sự im lặng của cô lúc này rất cần thiết, cô sẽ hiểu vì sao.
Trèo lên đỉnh đồi, ông ta nắm tay Mary kéo lên và chỉ cho nàng thấy đám khói trắng bay phía dưới.
Mary chợt hiểu: nàng đã thiếp đi lâu hơn nàng tưởng và trong lúc đó, bóng đêm cũng tan dần. Mây bay là là khắp vòm trời mầu chì. Hướng đông, một tia sáng mong manh báo hiệu vầng dương sắp hiện ra, quét tan bóng tối, bóng tối đồng lõa cùng tội ác!
Nhưng sương mù vẫn chưa tan hẳn, bao phủ những phiến đá bên dưới làm thành một lớp màn trắng. Theo hướng ông ta chỉ, Mary vẫn chưa thấy gì rõ rệt ngoài những bụi thạch thảo ướt đẫm sương... Nhưng trong thoáng chốc, có tiếng kêu, tiếng reo hò vọng lại tuy không rõ lắm.
Rồi thì, tiếng reo hò vọng lên mồn một như muốn xé toạc màn sương.
- Cô đã hiểu chưa?
Mary lắc đầu. Người đàn ông cười nụ cười đượm vẻ chua chát, buồn rầu :
- Tôi quên đi mất một điều quan trọng : Ông Bassat có nuôi một đàn chó săn. Thật đáng tiếc cho cả hai ta.
Mary kinh hãi thật tình, nàng nhìn từ người đối diện đến hai con ngựa, phân vân lo lắng. Trong hốc đá, hai con vật đáng thương vẫn nép vào nhau, run rẩy.
- Chúng ra phải xua ngựa xuống đồng hoang để đánh lạc hướng đoàn chó săn đi. Chúng trở thành vô ích cho chúng ta, có chúng, chó càng dễ tìm ta. Vif-Arjent! Mày lại làm hại chủ lần nữa đây này!
Mary sững sờ nhìn người đàn ông tháo cương hai con ngựa và dắt chúng đến dốc đồi, đoạn cúi xuống, vốc từng nắm đá, ông ta ném liên tục, dữ dội vào hai con ngựa. Hai con vật cắm cổ chạy tràn theo triền dốc, giữa những bụi gai và đá rắn. Người đàn ông tiếp tục nhặt đá, ném, ném, ném không ngừng...
Mary nghe tiếng ngựa hí vang lên, phi nhanh xuống dốc, tung đất đá bốn phía và sau cùng mất dạng giữa làn hơi trắng xóa bao quanh.
*
Tiếng chó sủa càng lúc càng gần, càng hăng. Người
đàn ông chạy lại bên Mary vừa chạy vừa cởi bỏ chiếc áo dòng và cái mũ,
mắc vào một bụi cây. Giọng ông ta lạc đi:
- Nào! Lại đây! Dù cô xem tôi là thù hay bạn, chúng ta cùng chung mối nguy hiểm.
Ông vòng tay sau lưng cô gái và cả hai chạy lên dốc giữa những phiến đá, bụi gai. Đá lăn lông lốc, gai cào rách da, nhưng họ không dám dừng lại, dù chỉ dừng trong một giây để thở.
Tiếng chó xa dần, làm người đàn ông phấn khởi. Hình như đàn chó đã được cái áo ở bụi cây nên dừng lại, kẻ đào tẩu tin rằng có thể nhờ đó mà thoát được màn lưới giăng ra!
Áo quần, tóc tai hai người cùng xác xơ, rách nát, rối bù, hai tay Mary rớm máu. Càng lúc họ càng lên cao, trèo leo, đi, chạy, bò, lê, đủ cách...
Đến một lúc Mary ngã quị. Người đàn ông cúi xuống toan đỡ và kéo nàng lên nhưng Mary kiệt sức quá rồi. Tiếng chó sủa càng gấp làm cho người đàn ông bối rối. Ông ta quyết định rất nhanh: nếu kéo được cô gái theo cùng, cô sẽ là tấm bia đỡ đạn cho ông ta, là con tin để đánh đổi tự do... nhưng cũng lại vướng víu khó khăn thêm nhiều lắm. Bỏ Mary lại, đàn chó sẽ xông vào cô gái, ông ta thừa thì giờ tẩu thoát dễ dàng hơn.
- Vĩnh biệt Mary Yellan! Tôi rất tiếc! Khó mà tìm được một cô gái như cô!
Ông ta buông cô gái, hai tay bị trói, nàng không chống đỡ bám víu vào đâu được, nàng lăn tròn theo triền dốc như viên cuội bị ném từ trên xuống; gai nhọn, đá rắn thi nhau quất đập vào nàng. Mary lăn có năm vòng như thế rồi nàng được một phiến đá giữ lại.
Cô nằm ngửa, thở hổn hển, giương mắt nhìn lên: trên cao, gió thổi mái tóc trắng của người đàn ông bay phất phới, ông ta vẫn bám vào sườn núi đá như con nhái bám vào một gốc cây sù sì to lớn, cố trèo lên. Cô gái quên cả đau, nín thở nhìn người đàn ông chăm chắm khi ông ta bám nhằm vào những phiến đá phẳng lỳ, trơn tuột...
Hòa lẫn với tiếng chó, có cả tiếng reo hò của nhiều người, tiếng súng lên đạn nghe canh cách. Mary thôi nhìn lên, nàng hồi hộp quá.
Cô quay mặt xuống: đàn chó mầu hung đỏ nổi bật giữa mầu xám xịt của đá. Chúng chạy lăng quăng, kêu ăng ẳng một cách thích thú hí hửng. Chúng vây quanh tấm áo dòng. Nhiều chấm đen tiến lên giữa những bụi thạch thảo; và những tia sáng mặt trời rọi yếu ớt bên trên.
Mary tuyệt vọng: nàng bị trói tay, bịt miệng không thể kêu cứu, không thể chạy được. Đàn chó đang còn chia nhau những mảnh rách của tấm áo dòng, có con tinh khôn giằng một mảng, tong tả chạy xuống – chắc để đưa cho chủ? – nhưng khi chúng chán trò đó, chúng sẽ tìm nàng không mấy khó khăn. Nàng sẽ ra sao? Mary nhắm mắt lại không dám nghĩ thêm, mồ hôi tuôn như tắm.
Đoàn người vừa hò hét vừa chỉ trỏ lên mấy phiến đá trên cao. Chỉ chốc lát sương mù và mây tan biến, trời xanh lồ lộ. Cách Mary hơn 50 thước, một người quì gối thân hình lẫn trong đám cỏ dại, đưa súng lên nhắm bắn. Viên đạn rít lên một tiếng, xé toang không khí. Khi anh ta nhỏm dậy, Mary thấy anh rõ quá: chính Jean, nhưng nàng không thể nào cất tiếng kêu anh, mà anh thì không thấy Mary! Lần này, Jean hăm hở nạp đạn, nhắm bắn tiếp, viên đạn vèo sát tai Mary làm cô càng hoảng.
Đàn chó săn len lỏi giữa đám thạch thảo, một con nhảy lên phiến đá ngay sau lưng cô gái, đưa mõm đánh hơi. Nếu Jean quay lại thì tất chàng thấy Mary, nhưng anh đang theo dõi cái bóng dáng cao lớn trên kia: mái tóc tung bay, người đàn ông hung thần của nhiều tội ác vẫn lẩn lút trong bóng tối đã cùng đường. Hắn đứng sững, thật cao, thật rõ, nổi bật trên phiến đá to tựa như một bàn thờ, xung quanh không có gì cho hắn trốn nấp không có gì che chở hắn nữa, sau lưng là vực thẳm, hắn đứng như pho tượng, không có Mary làm bia chắn, không khí giới để phản công...
Jean bắn tiếp hai phát, một viên đạn ghim vào một chỗ nào trong người hắn, nhưng hắn vẫn đứng vững, hai tay giơ tới trước như con chim giang rộng cánh toan bay rồi đột ngột hắn ngã ra sau, rơi tòm xuống vực, lặng lẽ chóng vánh im lìm như chiếc lá rơi, không tiếng kêu, không tiếng động.
Mary rú lên, nhắm mắt lại vì hình ảnh kinh hoàng trước mắt, nhưng tiếng kêu nàng bị cái khăn bịt miệng ngăn lại không tới tai Jean. Đàn chó săn cũng không khám phá ra nàng, vì chúng cũng theo dõi cái bóng cao lớn, cái đích của họng súng chàng trai trẻ.
Mary ngất đi sau khi tiếng kêu không thoát ra khỏi cổ họng nàng.
- Nào! Lại đây! Dù cô xem tôi là thù hay bạn, chúng ta cùng chung mối nguy hiểm.
Ông vòng tay sau lưng cô gái và cả hai chạy lên dốc giữa những phiến đá, bụi gai. Đá lăn lông lốc, gai cào rách da, nhưng họ không dám dừng lại, dù chỉ dừng trong một giây để thở.
Tiếng chó xa dần, làm người đàn ông phấn khởi. Hình như đàn chó đã được cái áo ở bụi cây nên dừng lại, kẻ đào tẩu tin rằng có thể nhờ đó mà thoát được màn lưới giăng ra!
Áo quần, tóc tai hai người cùng xác xơ, rách nát, rối bù, hai tay Mary rớm máu. Càng lúc họ càng lên cao, trèo leo, đi, chạy, bò, lê, đủ cách...
Đến một lúc Mary ngã quị. Người đàn ông cúi xuống toan đỡ và kéo nàng lên nhưng Mary kiệt sức quá rồi. Tiếng chó sủa càng gấp làm cho người đàn ông bối rối. Ông ta quyết định rất nhanh: nếu kéo được cô gái theo cùng, cô sẽ là tấm bia đỡ đạn cho ông ta, là con tin để đánh đổi tự do... nhưng cũng lại vướng víu khó khăn thêm nhiều lắm. Bỏ Mary lại, đàn chó sẽ xông vào cô gái, ông ta thừa thì giờ tẩu thoát dễ dàng hơn.
- Vĩnh biệt Mary Yellan! Tôi rất tiếc! Khó mà tìm được một cô gái như cô!
Ông ta buông cô gái, hai tay bị trói, nàng không chống đỡ bám víu vào đâu được, nàng lăn tròn theo triền dốc như viên cuội bị ném từ trên xuống; gai nhọn, đá rắn thi nhau quất đập vào nàng. Mary lăn có năm vòng như thế rồi nàng được một phiến đá giữ lại.
Cô nằm ngửa, thở hổn hển, giương mắt nhìn lên: trên cao, gió thổi mái tóc trắng của người đàn ông bay phất phới, ông ta vẫn bám vào sườn núi đá như con nhái bám vào một gốc cây sù sì to lớn, cố trèo lên. Cô gái quên cả đau, nín thở nhìn người đàn ông chăm chắm khi ông ta bám nhằm vào những phiến đá phẳng lỳ, trơn tuột...
Hòa lẫn với tiếng chó, có cả tiếng reo hò của nhiều người, tiếng súng lên đạn nghe canh cách. Mary thôi nhìn lên, nàng hồi hộp quá.
Cô quay mặt xuống: đàn chó mầu hung đỏ nổi bật giữa mầu xám xịt của đá. Chúng chạy lăng quăng, kêu ăng ẳng một cách thích thú hí hửng. Chúng vây quanh tấm áo dòng. Nhiều chấm đen tiến lên giữa những bụi thạch thảo; và những tia sáng mặt trời rọi yếu ớt bên trên.
Mary tuyệt vọng: nàng bị trói tay, bịt miệng không thể kêu cứu, không thể chạy được. Đàn chó đang còn chia nhau những mảnh rách của tấm áo dòng, có con tinh khôn giằng một mảng, tong tả chạy xuống – chắc để đưa cho chủ? – nhưng khi chúng chán trò đó, chúng sẽ tìm nàng không mấy khó khăn. Nàng sẽ ra sao? Mary nhắm mắt lại không dám nghĩ thêm, mồ hôi tuôn như tắm.
Đoàn người vừa hò hét vừa chỉ trỏ lên mấy phiến đá trên cao. Chỉ chốc lát sương mù và mây tan biến, trời xanh lồ lộ. Cách Mary hơn 50 thước, một người quì gối thân hình lẫn trong đám cỏ dại, đưa súng lên nhắm bắn. Viên đạn rít lên một tiếng, xé toang không khí. Khi anh ta nhỏm dậy, Mary thấy anh rõ quá: chính Jean, nhưng nàng không thể nào cất tiếng kêu anh, mà anh thì không thấy Mary! Lần này, Jean hăm hở nạp đạn, nhắm bắn tiếp, viên đạn vèo sát tai Mary làm cô càng hoảng.
Đàn chó săn len lỏi giữa đám thạch thảo, một con nhảy lên phiến đá ngay sau lưng cô gái, đưa mõm đánh hơi. Nếu Jean quay lại thì tất chàng thấy Mary, nhưng anh đang theo dõi cái bóng dáng cao lớn trên kia: mái tóc tung bay, người đàn ông hung thần của nhiều tội ác vẫn lẩn lút trong bóng tối đã cùng đường. Hắn đứng sững, thật cao, thật rõ, nổi bật trên phiến đá to tựa như một bàn thờ, xung quanh không có gì cho hắn trốn nấp không có gì che chở hắn nữa, sau lưng là vực thẳm, hắn đứng như pho tượng, không có Mary làm bia chắn, không khí giới để phản công...
Jean bắn tiếp hai phát, một viên đạn ghim vào một chỗ nào trong người hắn, nhưng hắn vẫn đứng vững, hai tay giơ tới trước như con chim giang rộng cánh toan bay rồi đột ngột hắn ngã ra sau, rơi tòm xuống vực, lặng lẽ chóng vánh im lìm như chiếc lá rơi, không tiếng kêu, không tiếng động.
Mary rú lên, nhắm mắt lại vì hình ảnh kinh hoàng trước mắt, nhưng tiếng kêu nàng bị cái khăn bịt miệng ngăn lại không tới tai Jean. Đàn chó săn cũng không khám phá ra nàng, vì chúng cũng theo dõi cái bóng cao lớn, cái đích của họng súng chàng trai trẻ.
Mary ngất đi sau khi tiếng kêu không thoát ra khỏi cổ họng nàng.
__________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG 13