Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2016

CHƯƠNG 9_CHIẾC BẪY KỲ NHÔNG


9


Mấy hôm nay Xù ngã bệnh. Nó nóng liên miên, rồi lạnh. Nó nằm co quắp trên giường, rên ư ử.

Bà Tám cuống cuồng lo ngại, nhưng với đôi mắt mù lòa, làm sao bà kiếm được tiền chạy thuốc cho nó bây giờ?

Bà ngồi cạnh bên giường Xù, thỉnh thoảng lại lấy tay sờ lên trán nó. Mắt bà mờ những lệ. Còn bát gạo cuối cùng bà cũng đã mang nấu cháo từ trưa mất rồi.

Xù gượng ngồi dậy. Bà Tám đang lúi húi sau bếp. Đầu nó nặng như búa bổ. Lưỡi nó khô và đắng lạ lùng. Nó nhẹ bước xuống giường, chân nó run và mắt nó hoa lên. Nó chập choạng bước tới chỗ để chiếc bẫy kỳ nhông. Tay nó mân mê những thanh tre nhỏ, uốn cong của chiếc bẫy. Nó qua một thoáng suy nghĩ và rồi nó quyết định. Nó dòm chừng xuống bếp, bà Tám vẫn ở dưới đó. Nó se sẽ xách bẫy đi ra khỏi nhà.

Chờ từ trưa tới gần chiều mà chỉ mới bẫy được có hai con, Xù hơi thất vọng. Có tiếng gọi tên nó lanh lảnh từ xa vọng tới. Xù biết ngay là bà Tám đang đi kiếm mình. Tiếng bà khàn khàn như người kiệt sức.

- Xù ơi! Xù! Con ở đâu???

Cơn nắng gay gắt buổi trưa chưa tàn làm Xù thêm sốt, nhưng nó gượng trấn tỉnh, bắt loa tay kêu lớn cho bà Tám yên lòng:

- Con đây, Xù đây nội.

Nó đi lần về phía bà Tám đang lần mò đi tới. Tay nó xách chiếc bẫy và cái giỏ đựng hai con kỳ nhông. Nó đến bên bà:

- Nội đi đâu vậy?

Bà Tám chợt tức tưởi khóc òa lên:

- Sao con đau mà con đi đâu vầy nè? Nội đi kiếm con cả buổi, không thấy đường nên nội kiếm không ra. Nội sợ quá…

Xù ôm vai bà:

- Thôi mình về đi nội. Con tính đi bẫy ít con kỳ nhông…

Bà Tám ngắt ngang:

- Nhưng con đang bịnh mà. Con ráng đi bẫy như vậy lỡ ngã giữa đường thì sao?

Xù cố gượng cười thành tiếng cho bà Tám yên lòng:

- Con bớt rồi mà nội. Đi một tí có sao đâu.

Bà Tám đưa tay sờ trán Xù, hốt hoảng kêu lên:

- Trời ơi! Con nóng quá! Đi về, đi về mau đi con.

Hai bà cháu kéo nhau đi nhanh về nhà. Bà Tám buộc nó lên nằm trên giường, đắp chăn kín lại. Bà đi rót cho nó ly nước. Trời đổ mưa, những lằn chớp sáng lòe xuyên qua mái tranh dột nát. Tiếng mưa lộp bộp buồn ray rứt làm Xù muốn khóc. Bất giác, nó đưa tay làm dấu Thánh Giá. Niềm tin trong lòng nó mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nó thấy mưa tiếp diễn với những lằn chớp sáng không còn làm nó sợ hãi nữa. Nó thiếp đi trong cơn nóng miên man vừa tái phát.

*

Bà Tám ngồi bên cạnh Xù. Nước mắt bà ứa ra, bà thấy xót thương tuổi thơ của đứa bé mồ côi sớm vương cay đắng. Cơn mưa đã dứt hột từ lâu, màn nắng sắp sửa ló dạng nồng nàn. Bà Tám chợt thấy thèm muốn được nhìn thấy ánh sáng hơn bao giờ hết. Giá mắt bà có một chút ánh sáng, chỉ một chút thôi, bà sẽ giúp đỡ được Xù nhiều lắm, trong lúc này. Ánh sáng của đôi mắt vắng đi, bà cảm thấy mình như mất đi một phần của linh hồn. Thân già bà không kể gì nữa, nhưng chỉ thương Xù phải chịu vất vả sớm hôm.

Bà Tám cố nhướng mắt lên, nhưng màn trắng đục mờ trước mặt vẫn thản nhiên chận lấy ánh sáng đang hiện diện. Bà tức tối, hai bàn tay gầy guộc đưa lên như muốn cấu xé lấy màn đêm trước mắt. Sự bất lực làm hai bàn tay bà buông thõng xuống. Bà ngồi phệch xuống giường, thở dài chán nản.

Bà Tám đã có một quyết định trong đầu, bà nhìn Xù nằm lặng yên, ngực vẫn thở đều. Bà lần xuống bếp, cắp chiếc rổ vào nách, rồi, bằng sự lần mò bởi xúc giác, bà đi thẳng ra mé rừng.

*

Xù trở giấc, nó vừa qua một giấc ngủ dài, nó cảm thấy dễ chịu hơn lúc chưa vào giấc ngủ. Cổ nó bớt khô, đầu nó bớt nặng. Xù đưa mắt nhìn quanh: bà Tám đâu vắng? Linh tính như báo trước một sự không may, Xù nhảy vội xuống đất, chạy ra nhà sau. Không có bà Tám. Sau hè cũng không. Nó lục soát lại các đồ vật quen thuộc trong nhà: chai nước mắm, cái nồi đất, cái xoong kho cá, lọ tiêu và vài cái chén đã mòn vành. Xù không tìm thấy cái rổ mọi khi bà Tám dùng đi hái nấm. Nó chợt hiểu và nghe rờn rợn tóc gáy.

Nó băng chạy ra khỏi nhà. Trời trưa gay gắt nắng. Nó chạy miết về phía mé rừng quên cả cơn đau, quên cả mệt nhọc. Nó dò tìm từng bụi sim, từng gò mối. Hết ụ đất này đến ụ đất khác, hết bụi cây này đến bụi cây kia, thằng Xù vạch lá, nhìn dấu chân. Không có gì cả ngoài những lằn đất cứng và mồ hôi mặn chát chảy ròng ròng trên má, trên cổ nó.

Chợt, Xù nhìn thấy dấu chân người trên một vùng đất mềm… có lẽ nào bà Tám lại đi xa được đến thế? Nhưng mặc kệ, nó cứ thầm hy vọng. Nó men theo dấu chân một cách khó nhọc, nhưng được vài bước thì bị mất dấu vì cỏ khô và đất cứng. Thất vọng, Xù bắt tay làm loa gọi lớn: “Nội ơi! Nội”, “Nội ơi! Nội”… Tiếng nó khàn đặc, khó khăn lắm mới thoát ra khỏi cổ họng đắng nghét của nó.

Xù thất thểu như một người không hồn. Nó đi quanh quẩn khu rừng, không tìm tòi nữa. Đến một cái hục, như cái hố nhỏ, đất khô cứng, nứt nẻ, bên cạnh một gò mối lớn, Xù chợt trông thấy một thây người nằm co quắp dưới hố. Nó nhảy vọt đến, lật người đó ra và kinh hoàng rú lên:

- Nội ơi! Nội!

Thì ra cái xác cứng lạnh ấy chính là xác bà Tám. Bà đã chết tự bao giờ.

Bên cạnh bà, rổ nấm đổ vung vãi cả mặt đất, những cọng nấm mối to bụ bẫm. Bà cố đi lặt nấm để đổi gạo nấu cháo và mua thuốc cho Xù. Bà đã không còn nhớ đến đôi mắt mù lòa của mình nữa, chỉ thấy có tình thương vô bờ bến đối với đứa cháu nuôi.

Nhưng tại sao bà chết? Trúng gió chăng? Có lẽ. Xù cúi nhìn xuống chân bà Tám, vì nó vừa chợt liên tưởng đến một tai họa nào đó đến với bà. Da bà tím ngắt, nhất là ở cổ chân trái. Xù nhìn kỹ và nó thấy một vết rướm máu nhỏ ở gan bàn chân bà Tám. Nó hiểu ra: bà Tám đã bị rắn độc cắn, vì bà mù lòa nên không tránh được nó.

Thằng Xù òa lên khóc. Giọt nước mắt từ lâu khô trên gò má nó, kể cả những ngày nó hay tin mẹ nó mất, kể cả những lúc nhận lãnh lằn roi ghê gớm của bà Hương Thêm, bây giờ trào ra, trào ra tới tấp, thật nhiều.

Dòng nước mắt chan hòa sự cảm thương và đau khổ. Nó ngồi bệt xuống cạnh cái xác cứng lạnh của bà Tám khóc mãi, mặc cho mặt trời đứng bóng, rồi ngả về chiều.

Xù vuốt ve từng sợi tóc bạc phơ trên đầu bà Tám. Người đàn bà già nua đã dành sự thương yêu cho nó trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời.

Nó biết từ nay nó không tìm đâu ra được một tình thương như vậy nữa. Nó thèm được ấp ủ trong thương yêu, nhưng bây giờ tình thương đã vĩnh viễn rời xa tầm tay nó.

Nó nhìn xuống đôi tay mình, hai cánh tay đen đủi, gầy guộc. Hai cánh tay ngắn quá, không đủ sức níu giữ được tình thương.

Xù nhắm mắt lại, nước mắt vẫn chảy dài trên hai gò má nó. Nước mắt mằn mặn đọng lại trên môi khô. Nó không buồn lau. Nó cứ ngồi ỳ bên xác bà Tám, mồm mếu máo gọi nho nhỏ “Nội ơi, nội ơi! Sao nội bỏ con?”…

Mãi đến chiều tối, Xù mới uể oải đứng lên. Nó ghé vai cõng xác bà Tám lên vai, định đưa về căn nhà thân yêu đã xiêu vẹo để sáng mai đào huyệt chôn bà. Nhưng xác bà Tám cứng quá, lạnh quá, Xù không làm sao cõng bà lên nổi. Nó đành cởi áo đắp cho bà rồi chạy vội về nhà lấy cây cuốc.

Xù hì hục đào huyệt ngay cạnh chỗ bà Tám nằm chết. Thỉnh thoảng nó ngừng lại ngước nhìn vành trăng lưỡi liềm đã lên cao, ánh sáng vàng nhạt, hờ hững qua từng lùm cây thưa. Nó đào mãi, từng lát cuốc rồi từng lát cuốc, mãi đến khi bên cạnh nó đã vun lên một gò đất nhỏ và trước mặt nó đã có hình một cái hố khá sâu, nó mới ngừng tay.

Xù phải khó nhọc lắm mới lật bà Tám được vào trong chiếc chiếu duy nhất mà nó mang từ nhà ra. Nó bó xác bà Tám lại, rồi, trước khi lăn bà xuống huyệt, nó đứng yên lặng, lẩm nhẩm đọc kinh.

Lại từng lát cuốc trả đất về cho hố sâu. Xù rớt nước mắt. Nó hiểu sẽ không bao giờ nó còn được nhìn thấy gương mặt già nua thân yêu của bà Tám nữa.

Khi Xù về đến nhà thì trời đã rưng rửng sáng. Nó buông mình xuống chiếc giường tre không chiếu. Nó nghĩ đến cái chết thê thảm của vị ân nhân của mình mà cảm thấy đau lòng. Bà Tám mất rồi, Xù nghĩ nó vẫn có thể ở lại nhà, tiếp tục đi bẫy kỳ nhông để bán lấy tiền độ nhật. Nhưng, hình như có một mãnh lực nào đó, ngăn cản ý nghĩ của Xù. Nó rùng mình khi nghĩ đến căn nhà từ nay sẽ thiếu vắng bà Tám, hoang lạnh biết bao nhiêu. Nó sẽ không còn được nhìn dáng dấp còm cõi mà thân yêu của bà Tám nữa. Nó sẽ không bao giờ được nghe bà kể chuyện, không bao giờ còn được nghe bà âu yếm gọi bằng con… nó sợ hình ảnh chung quanh dồn đến, làm nó nhớ không chịu được.

Xù suy nghĩ mãi. Nửa muốn ra đi, nửa muốn ở lại. Nó thiếp đi trong những ý nghĩ mâu thuẫn trong đầu óc.

Xù giật mình mở mắt nhìn quanh! Nó ngơ ngác khi nhận ra sự thật: bà Tám đã chết rồi. Xác bà nó chôn ngoài rừng kia. Căn nhà thật trống trải đến lạnh người. Chiếc bẫy kỳ nhông, vật dụng tìm kế sinh nhai cho cả hai bà cháu đang nằm chơ vơ ở góc nhà.

Trong một quyết định thật nhanh, Xù nhảy vội xuống đất. Nó lấy búa đập gãy tan chiếc bẫy kỳ nhông. Từ nay nó sẽ không cần dùng bẫy nữa, vì không còn bà Tám trên đời, nó không còn ai là mục đích để làm việc nữa. Nó đứng lặng rất lâu để nhìn lần cuối căn nhà quen thuộc rồi bước nhanh ra cửa. Nó chưa biết mình sẽ đi đâu, nhưng trước hết là nó phải rời khỏi căn nhà nhỏ và bà Tám: những kỷ niệm sâu xa của tình thương mà suốt đời nó không quên. 


THỤY Ý