CHƯƠNG III
Chiếc
pháo đài, theo danh từ của các anh chiến sĩ thường gọi là chiếc “lô
cốt” (blockhaus) nằm ẩn trên một địa thế rất kín đáo. Nếu không có ánh
đèn bên trong lọt qua lỗ châu mai, Khôi Việt đã tưởng nhầm đó là một
khối đá bên sườn núi.
Nấp
trong bụi rậm, Khôi Việt im lặng quan sát. Cả hai đều nghĩ : Trong lô
cốt có người ! Nhưng ai làm gì trong ấy, giữa đêm hôm khuya khoắt như
thế nầy ? Chắc hẳn chúng đã lợi dụng chiếc lô cốt bỏ không đã lâu ngày
này làm sào huyệt.
Ánh
sáng chập chờn bên trong lô cốt chắc do một ngọn đèn dầu hay nến nên
ngọn lửa lay động luôn luôn… Đột nhiên ánh sáng bập bùng ấy phụt tắt.
Cánh
cửa sắt của lô cốt chuyển động, quay ken két trên bản lề rỉ sét. Một
bóng đen ở trong bước ra. Khôi cố giương mắt nhìn, nhưng không nhận ra
được bóng dáng đích thực của hắn. Bóng đen không giống người thường. Nó
có vẻ to lớn, dị hình như một quái vật. Đôi bạn nhìn nhau bủn rủn tưởng
như đang trải qua một cơn ác mộng. Một bóng đen nữa lướt trên mặt đất…
Khôi nhận ra đó là một bóng chó. Nhưng không phải bóng chó đã dẫn đường
cho viên đội thương chánh đã đi qua cửa lều của Khôi Việt trước đây.
Nhận
xét ấy làm Khôi quan sát lại bóng dị hình đang đi trước con chó. Quả
nhiên bóng đó không phải là viên đội thương chánh vừa rồi.
Chợt
một tia sáng thoáng qua trí óc Khôi. Anh bừng tỉnh như vừa đột ngột tìm
ra được giải đáp của một bài toán khó. Bóng đen ma quái vừa trong lô
cốt đi ra không phải một người, mà là hai : người nọ vác người kia trên
vai ! Nhìn kỹ Khôi thấy điều mình vừa khám phá ra quả không sai. Người
thứ nhất lom khom, trên cặp giò ngắn; người thứ hai rũ liệt, hai tay
buông thõng, đầu lắc lư, toàn thân đè nặng trên vai người kia.
Khôi
còn nhận ra điều này, vì phải vác nặng, người kia không có thì giờ quay
lại để đóng cửa sắt nặng nề của lô cốt. Hắn khệnh khạng bước đi, con
chó theo sát bên cạnh và biến dần vào lớp sương trắng đục của đêm khuya.
Theo rõi bóng hắn trước khi khuất hẳn, Khôi kịp nhận ra kẻ hắn vác trên
vai đã ngất xỉu. Ngang lưng người bị ngất có thắt chiếc dây da to bản,
thứ dây lưng đeo bao súng của người đội viên thương chánh, anh đã thấy
khi ông ta đi ngang trước cửa lều.
Thôi
đúng rồi…Đúng là viên đội thương chánh bị gã kia vác đi ! Nhưng hắn đem
ông ta đi đâu ? Và tại sao ông ta lại bị ngất đi như thế ? Khôi tự đặt
ra bao nhiêu câu hỏi, và nóng muốn biết gã đàn ông kia là ai. Trong đêm
tối, gã chỉ là một bóng đen khó lòng nhận ra được…
Việt không có phản ứng gì. Anh ngồi nấp trong bụi cây, yên lặng chờ đợi…
Khôi nhảy ra khỏi bụi, kéo theo bạn ra. Việt khẽ hỏi :
- Cậu tính thế nào ?
Khôi sẵn sàng lao mình vào cuộc mạo hiểm, thản nhiên bảo bạn :
- Cậu thấy chưa, tớ đã bảo thế nào chúng mình cũng gặp chuyện lạ mà…
Việt gật đầu, không hào hứng mấy :
- Thấy chứ sao không ! Nhưng tớ hỏi cậu định làm gì bây giờ ?
- Đi theo bóng đen vừa rồi !
- Điên ! Tụi mình sẽ bị lộ ngay. Với lại mình có liên can gì vào vụ này…
-
Nhưng còn người đội viên thương chánh, như chúng ta vừa thấy đó, ông ta
bị tên kia vác đi, không biết là đi đâu… có lẽ tính mạng ông ta sẽ
nguy, họ sẽ tra khảo, thủ tiêu ông ấy không chừng…
Việt thở dài :
- Chúng mình chỉ có hai đứa, làm gì được…
- Mình chỉ cần đừng để chúng tóm được thôi. Sợ gì ! Cậu vốn là con người thông minh mà…
Việt cắt ngang :
- Vì thế nên tớ càng không muốn liều mình trong câu chuyện mờ ám này…
Tuy
nói thế, song Việt biết không cản nổi ý định của bạn. Khôi dám hành
động một mình lắm, nếu Việt thoái thác. Chừng ấy Việt còn bồn chồn áy
náy hơn. Nhìn chiếc lô cốt chợt Việt nảy ra một ý kiến. Anh bảo bạn :
- Hay chúng ta vào dò xét trong lô cốt ?
- Nhỡ đụng nhầm bọn đồng loã của gã kia ở trong ấy thì tụi mình có chầu ăn đòn !
-Tớ chắc trong ấy không còn ai. Nếu có người, mình đã nghe thấy tiếng động.
- Thử nghe ngóng xem sao đã.
Im
lặng. Chỉ nghe có tiếng gió lướt nhẹ trên đám cỏ lau… Khôi Việt thận
trọng tiến lại gần chiếc lô cốt. Cả hai đều hiểu sự quan trọng của việc
mình làm. Họ tiến tới cửa sổ lô cốt. Cánh cửa nặng, dầy, vít toàn bằng
đinh “bù loong”. Sờ soạng trên cánh cửa, Việt rỉ tai bạn :
- Cửa sắt, Khôi ạ.
- Ừ. Cẩn thận nhé. Nó kêu đấy…
- Cái gì kêu ?
- Cánh cửa !
Khôi
lách tay vào khe cửa, dùng sức đẩy từ từ. Cánh cửa nặng nề hé mở… Một
hơi nồng nặc, ngai ngái mùi thuốc lá, mùi rượu, với nhiều hương vị khác
nhau thốc vào mặt hai người.
- Đèn đâu Việt ?
- Đây. Bật lên à ?
- Ừ. Trong này không có người.
Việt
ấn nút chiếc đèn bấm. Tia sáng từ tay Việt chiếu lên một vách tường sù
sì bằng xi măng trộn sỏi. Dưới sàn cũng đúc bằng xi măng nhưng đất bụi
phủ đầy. Đây là một thứ phòng hẹp, thực kiên cố và trống rỗng. Việt cầm
đèn tiến lên trước. Ánh đèn của anh vấp vào một vật nằm dưới đất. Anh
lùi lại kinh hoảng…
Cách
Việt vài bước, một xác chó bê bết máu nằm co quắp. Việt lia ánh đèn soi
tứ phía. Trên sàn những vết máu lẫn lộn với vết chân người.
Xác chó vẫn nằm bất động. Nó chết rồi.
Việt
tiến thêm vài bước nữa. Chiếc đèn run rẩy trong tay Việt, làm tia sáng
chiếu lằng nhằng trên vách tường trước mặt. Cả hai cúi xuống xem xét xác
con chó. Cổ và ngực nó bị rách nát. Nhiều vết thương cào sâu khắp mình,
và ngay mõm nó, Khôi còn nhận thấy những vết nanh rất sâu : cuộc xung
đột giữa hai con vật, hẳn là khủng khiếp.
Việt lẩm bẩm :
- Ghê quá ! Con chó này gần như bị đối thủ muốn xé xác ăn thịt.
Khôi nói :
- Thôi để nó đấy. Tụi mình ngó quanh một lượt rồi chuồn…
Đôi
bạn đưa mắt nhìn. Có chiếc đèn bão dặt ở một góc tường. Chiếc đèn này
chắc hẳn vừa được đốt sáng khi nãy trong lô cốt. Khôi chợt để ý đến một
vật dựng gần chiếc đèn. Anh dằng lấy chiếc đèn bấm trên tay Việt chiếu
thẳng vào vật ấy. Ánh đèn chiếu sáng một chiếc gậy, thứ gậy bằng cây rắn
chắc, nổi cục và nhẵn bóng của những người sơn cước thường dùng. Chiếc
gậy này trong tay người miền núi, có thể dùng vào đủ mọi việc : vừa để
chống khi leo núi, giết dã thú khi có dịp, hoặc đánh gẫy những bụi cây
để dọn quang lối đi v.v…
Việt nhìn theo tay bạn hỏi :
- Cái gì nom như một chiếc gậy…
- Đúng là chiếc gậy… Khôi đáp. Và cậu có biết chiếc gậy này vừa được làm gì không ? Để đánh gục viên đội thương chánh đấy…
- Chắc không ?
-
Chắc, vì rất dễ hiểu : Con chó nằm kia – Khôi chỉ xác chết của con vật –
đã đánh hơi thấy gì đó và dẫn người đội thương chánh đến cái lô cốt
này. Đúng lúc ấy thì con chó kia, con mà tụi mình thấy ở đây ra khi nãy
nhảy vào cắn xé con này. Chủ nó nấp đâu đấy, liền giáng cho viên đội một
gậy khiến ông này chỉ kịp rống lên một tiếng là quị.
Khôi nhắc chiếc gậy soi vào ánh đèn. Cả hai đều thấy trên đầu gậy có dính mấy sợi như sợi tóc.
Khôi xanh mặt lẩm bẩm :
- Bị một cú gậy này vào đầu chắc chết quá.
Nhưng Việt nhận xét :
-
Theo tớ thì mấy sợi dính ở đầu gậy không phải tóc người. Vì tóc người
dài hơn. Với lại bị cú gậy này phang vào đầu ắt phải phun máu , mà ở
ngoài cửa ra vào mình không thấy có vết máu nào ngoài những vết chân.
Khôi gật đầu :
- Cậu có lý, không phải tóc người thật…Như vậy có lẽ là lông của con chó…
Trở lại chỗ xác con chó, Khôi nâng đầu nó lên. Trên trán con vật quả có một vết thương lộ rõ xương sọ…
Trong bầu không khí u uất của lô cốt, đôi bạn nín lặng vì lo sợ. Việt cố gắng cất tiếng :
- Cậu tính sao bây giờ ? Tụi mình đã đoán được phần nào sự việc xảy ra rồi… Vậy còn ở đây làm gì ? Chuồn đi thôi…
- Tớ cũng chưa biết phải làm gì, nhưng còn viên đội thương chánh… tớ sợ ông ta bị chúng đem đi thủ tiêu mất…
- Có thể… Mà hai đứa mình làm sao cứu được ông ta…
- Phải tìm cách chứ !
- Cách nào ? Rủi mình lọt vào tay họ, thì rồi ai cứu mình đây ? Liệu mình có tự thoát được không?
-
Dĩ nhiên mình sẽ gặp nhiều bất trắc, nguy hiểm. Nhưng trước một sinh
mạng đang lâm nguy mà mình bỏ mặc, thử hỏi lương tâm mình có để yên cho
mình không ? Việt ạ, cậu có lý một phần nào khi không muốn liên can vào
vụ này, nhưng bây giờ trót rồi, mình đành phải tìm cách nào cứu cho được
người bị lâm nạn. Như thế lương tâm mình mới khỏi cắn rứt…
Việt đáp :
- Được rồi, tớ bằng lòng theo cậu…
Khôi hài lòng, thân mật vỗ lên vai bạn. Trước mối nguy hiểm phải đương đầu họ đều sát cánh bên nhau.
Khôi bàn :
- Trước hết, mình hãy xem kỹ ở đây đã…
Ánh
đèn quét một vòng lên bốn vách tường… và bỗng mất hút vào một ngách
hẹp. Khôi, Việt lần mò tới đó. Cửa ngách rất thấp phải cúi mình mới lách
mình vào được. Ngách này thông sang một buồng khác chật hơn. Mùi thuốc
lá lẫn những mùi lạ khác hoà thành một mùi nồng nặc khó tả. Khôi chiếu
ngược ánh đèn. Sát vách tường, những bao vải, những thùng gỗ chồng chất
lên nhau, cao sát tới trần.
Khôi khẽ reo :
- Trời toàn hàng lậu… Kho hàng này chắc bộn của đấy Việt ạ.
Việt sờ vào một bao bằng gai toan tìm cách mở xem. Khôi vôi ngăn lại :
-
Đừng ! Mình không nên để lại dấu vết gì ở đây cả. Nếu cậu mở ra rồi
buộc lại không đúng như họ đã buộc, tất họ sẽ nghi ngờ và rồi cuộc dò
xét của mình sẽ khó khăn hơn.
Việt gật đầu tán thành. Khôi tiếp :
-
Với lại, những thứ hàng lậu này sẽ là “món bở” của nha thương chánh.
Không rõ họ đã khám phá ra chưa…Chắc là chưa… Nếu không họ đã tịch thu
hết rồi…
Chợt Việt reo lên :
- Ồ, coi này Khôi, chiếu đèn lại đây xem…
- Gì thế ?
- Tớ vừa thấy cái này… bỏ dưới đất. Sờ thử hãy còn ẩm.
Dưới ánh đèn bấm, hai anh em thấy một chiếc đai căng phồng hai túi vải. Chất vải gai còn ướt sũng sương đêm.
Khôi nói :
- Tớ ngửi thấy toàn mùi y dược cậu ạ…
-
Ừ, mùi thuốc tây. Hai túi này mới đem tới đây tối nay thôi – Việt vỗ
tay vào trán – À, thôi tớ hiểu rồi… con chó… Họ đã buộc cái đai đựng đầy
thuốc này ngang lưng con chó, và chính nó chuyển vận vào đây…
- Xuỵt, im…
Khôi bật người lên nghe ngóng :
- Có người đến !
Đôi bạn bỗng cuống cuồng như hai con chuột bị mắc trong rọ.
Khôi thở vào tai bạn :
- Tắt đèn đi.
Việt lúng túng không sao điều khiển được chiếc nút hãm.
Khôi dục :
- Đã bảo tắt đèn đi mà !
Có tiếng động chân nhịp bước ở bên ngoài, đang tiến lại gần lô cốt.
Việt càng luống cuống hơn :
- Tớ tắt không được. Đây, cậu tắt đi vậy…
Tia đèn bấm vạch lung tung trên trần, xuống đất, nhảy múa điên dại một hồi rồi mới chịu tắt. Căn phòng hẹp tối như bưng.
Trong tối, tiếng động chân nghe càng rõ. Đôi bạn nhận ra được tiếng chân đang lê bước trên con đường mòn, lối đi vào lô cốt.
Khôi dục bạn :
- Kiếm chỗ nấp mau.
Vừa
nói anh vừa nhìn vào khoảng tối mịt mùng. Nhưng bóng tối ở đây không
giúp ích gì được, chỉ một đốm lửa loé lên là hai anh em sẽ lộ hình tích.
Khôi đặt tay vào những bao hàng chồng chất bên góc tường. Anh thầm reo :
- Thoát rồi.
Và anh bảo Việt :
- Trèo lên ! Trèo lên mau !
Việt bấu chặt tay vào các bao hàng cố gắng dướn người lên. Khôi đẩy phía dưới, chợt nghe Việt kêu :
- Ối !
- Xuỵt, gì thế ?
- Tớ cụng đầu vô trần !
- Nằm xuống đi, và đưa tay kéo tớ lên.
Leo
lên được rồi, cả hai nằm nép giữa những bao hàng. Cơn hoảng hốt của họ
tan dần, vì nấp sau các bao hàng họ thấy yên tâm được phần nào.
Vừa
lúc ấy chiếc cửa sắt rền rĩ trên bản lề, rồi có tiếng chân bước vào…
một que diêm được quẹt lên… Tiếp đến những tiếng va chạm lỉnh kỉnh.
Khôi
ló đầu nhìn xuống, chiếc đèn bão vừa được người mới vào thắp sáng. Bóng
hắn hiện ra trong ánh đèn leo lét. Khôi không thể thấy gì hơn ngoài cái
bóng của hắn, của một gã đàn ông. Anh muốn rời chỗ nấp để được thấy rõ
hắn hơn nhưng chỉ mới hơi nhổm mình anh đã bị Việt ấn xuống. Gã cúi
xuống nắm lấy chân con chó kéo ra cửa. Xác chó chắc cũng khá nặng, nên
bóng hắn bật ngửa ra đằng sau và tiếng kéo lê nghe lệt sệt. Mấy phút sau
hắn lại trở vào, tay xách một sô nước. Hắn lùi sát vào cuối phòng rồi
hắt mạnh sô nước xuống sàn. Nước bắn tung toé cuốn hết những vết lông
vết máu ra cửa.
Làm xong công việc ấy hắn có vẻ hài lòng và không buồn nhìn lại chung quanh, hắn xách sô, xách đèn đi ra.
Nằm bên trong, Khôi Việt nghe tiếng chiếc cửa sắt đóng ập lại và tiếng khoá xoay ngoài ổ.
Khôi thở ra nhẹ nhõm. Nhưng Việt, Việt bỗng rên bên tai bạn :
- Chết cha ! Tụi mình bị nhốt trong này rồi ! !...
CHƯƠNG IV
Khôi lắng nghe tiếng chân bước ở ngoài xa hẳn, bốn bề lô cốt im lặng hoàn toàn mới nhỏm người dậy, tụt xuống đất. Anh bảo Việt :
- Bật đèn lên Việt. Chúng mình bị kẹt trong này thật rồi. Cậu có nghe tiếng khoá cửa đấy chứ ?
- Có. Không hiểu gã đàn ông kia lấy đâu được chìa khoá cửa lô cốt này ?
- Hắn có thể tạo ra một chìa khoá giả…
Việt thở dài lo lắng :
- Thế là chúng mình bị cầm tù ở đây. Làm cách nào ra được bây giờ ?
Giọng nói của Việt rền rĩ như muốn khóc. Khôi cố gắng trấn tĩnh bạn tuy anh cũng lo bấn cả người:
-
Tớ không ngờ tụi mình bị mắc kẹt. Đúng ra mình không nên dính líu vào
vụ này như khi nãy cậu đã can ngăn. Dù sao phải tìm cách ra khỏi đây nội
đêm nay không có thì nguy…!
Suy nghĩ giây lát Khôi tiếp :
- Điều cần nhất là tụi mình phải bình tĩnh… Bây giờ ta hãy ra phòng ngoài xem có cách nào thoát khỏi đây không…
Đôi
bạn rọi đèn tiến ra phòng ngoài. Căn phòng vuông vắn, chật hẹp chỉ có
một cánh cửa sắt làm lối ra vào duy nhất. Khôi huých người vào cánh cửa
thấy không nhúc nhích, anh mở lưỡi dao luồn thử vào ổ khoá. Lưỡi dao
quằn đi, muốn gãy.
Việt ngăn bạn lại :
- Vô ích, không được đâu ! Cánh cửa sắt này đến lựu đạn cũng không phá nổi. Lưỡi dao nhỏ này ăn thua gì !...
Bỏ
cánh cửa, cả hai lùi lại giữa phòng, nơi xảy ra cuộc xung đột đẫm máu
của hai con chó, và có lẽ cũng là chỗ người đội thương chánh bị đánh
quỵ. Vách tường phía trước có trổ mấy lỗ châu mai. Nhưng không đủ rộng
để hai anh em chui ra được. Trở vào trong hầm bọn buôn lậu dùng làm chỗ
dấu hàng, Khôi tìm ra được một cửa sổ nhỏ. Cánh cửa bằng sắt đóng phía
bên trong. Khôi mừng rỡ bảo bạn :
- Đây rồi, Việt ơi, nếu cậu muốn sớm hít không khí trong mát bên ngoài, thì hãy tấn công vào chỗ này.
Việt
chiếu thẳng đèn vào khuôn cửa sổ hình chữ nhật. Cánh cửa có bản lề chôn
sâu vào vách tường và được gài chặt bằng hai chốt sắt, lâu ngày đã rỉ
sét.
Việt hỏi :
- Liệu có thể phá nổi cánh cửa này không ?...
-
Nhất định phải phá… Khôi đáp. Chúng mình bắt tay vào việc đi thôi kẻo
đèn sắp hết “pin” rồi ! Làm mò trong tối càng khó thêm nữa.
Khôi
mở lưỡi dao, nạo những rỉ sét đóng ở bản lề và chốt cửa. Lưỡi dao mỏng
chỉ gại ra được những mảnh vụn của lớp rỉ bên ngoài. Biết rằng lưỡi dao
nhỏ của mình không đạt đến kết quả nào, Khôi lắc đầu lẩm bẩm :
- Phải có cái rũa sắt mới có hy vọng…
Việt
nhìn bạn ảo não và thất vọng. Anh thấy cả hai đều ngu dại, đang thảnh
thơi cắm trại thì tự dưng dấn thân vào đây để lâm phải cái tình thế khó
gỡ này.
Khôi bàn :
- Thử dùng sức xem sao. Tụi mình hợp lực lại, may ra…
- Nhưng sợ gây tiếng động.
- Khỏi lo. Gã đàn ông giờ này đã đi xa rồi. Vả lại, đành phải liều chứ biết sao bây giờ.
Khôi
trở ra tìm chiếc gậy của gã đàn ông để quên ở phòng ngoài. Anh dùng
chiếc gậy ấy làm đòn bẩy, lùa đầu gậy vào khe cửa và thử ấn mạnh. Đầu
gậy kêu răng rắc… Một chốt cửa chuyển động…
Thấy
có hy vọng, cả hai hùa nhau cố bẩy. Chiếc đèn bấm lúc này chỉ còn phát
ra một thứ ánh sáng vàng vọt yếu ớt. Không biết nó còn chiếu sáng được
bao lâu nữa ?
Đôi bạn gắng sức thêm, hơi thở hổn hển, mồ hôi ướt đẫm áo. Cánh cửa lỏng dần… và xệ hẳn một đầu xuống…
Khôi bảo :
- Cẩn thận, đứng lui lại kẻo nó rơi vào chân !
Bốn cánh tay gồng lên thu hết sức lực vào cố gắng cuối cùng. Cánh cửa bật khỏi lề, rớt xuống đất… Khôi thở phào, hoan hỉ :
- Thoát rồi !
Nhưng
Việt lắc đầu. Vì anh thấy sau cánh cửa, còn một hàng song sắt chôn sâu
vào lớp tường dày. Đôi bạn thất vọng nhìn nhau. Từ nãy tới giờ họ đã
uổng công vô ích. Bên ngoài đêm trăng lồ lộ… đẹp như chưa từng thấy.
Hàng song sắt kiên cố ở khuôn cửa hẹp ngăn chặn, chia cách họ với thế
giới phóng khoáng bên ngoài.
Khôi vẫn chưa nản :
- Tụi mình có thể ra được…
Vừa
nói anh vừa cởi áo ngoài và nghiêng mình lách đầu qua song. Thái dương
của anh bị kẹt cứng giữa hai gióng sắt. Thử lại nhiều cách khôi thấy đều
vô hiệu. Đầu anh tê buốt, chân tay bị sây sát mà vẫn không sao lách
mình ra được. Khoảng cách giữa hai gióng sắt hẹp quá. Anh bỗng cảm thấy
bải hoải, vô cùng chán nản…
Khôi
ngồi xệp xuống đất, úp mặt vào hai bàn tay. Việt thẫn thờ nhìn hàng
song sắt. Anh hít những hơi dài không khí lạnh mát bên ngoài, muốn nắm
lấy hàng song đáng ghét kia mà vặn cho gãy đi. Nhưng anh làm gì có sức
khoẻ như Hercule, như Hạng Võ !
Anh buồn rầu hỏi bạn :
- Làm sao bây giờ, khôi ?
Khôi mệt mỏi đáp :
- Chờ xem, tụi mình còn biết làm gì hơn bây giờ !
Việt
ngồi xuống cạnh bạn. Cả hai đều im lặng, không còn can đảm để bàn bạc
với nhau nữa. Gió lạnh ban đêm lọt qua khuôn cửa sổ thấm nhập vào người
họ. Những xúc động vừa qua, cùng với những vất vả trong ngày làm họ mệt
nhoài. Mắt họ dính lại, muốn thiếp ngủ. Tuy vậy, họ không ngủ hẳn, tâm
trí vẫn chập chờn tìm cách ứng đối với hoàn cảnh.
Cả
hai ngồi lơ mơ như thế khá lâu. Khôi ân hận không biết lúc này là mấy
giờ ? Chiếc đồng hồ của anh đã được tháo ra cất vào ba lô để lại trong
lều trước khi anh ngủ. Nhưng sao Khôi vẫn nghe như có tiếng kim đồng hồ
nhảy… tách… tách… văng vẳng đâu đây. Anh lẩm bẩm :
- Mình mê chăng ?
Và
rờ vào cổ tay trái, xem có thật mình không đeo đồng hồ, Khôi thấy cổ
tay mình trơn nhẵn… Anh ngồi ngay lại, véo thử vào má. Ồ, Khôi đâu có mê
! Vết véo ở má cảm thấy đau rõ ràng ! Vậy có cái gì đây ?
Khôi khẽ gọi :
- Việt ! Việt !
Việt
có lẽ quá mệt đã thiếp hẳn đi. Không nghe bạn trả lời, Khôi để yên cho
bạn nghỉ. Hơn nữa anh cũng muốn tự mình dò xét xem tiếng động kia ở đâu
mà ra.
Lắng tai, Khôi nhận ra đó là tiếng nước nhỏ giọt đều đều. Anh vùng dậy, bấm đèn. Chiếc đèn loé vàng yếu ớt.
- Lạy trời cho nó sáng thêm ít phút nữa.
Khôi
thầm mong như vậy, và anh vội vã rọi đèn chung quanh đống hàng lậu.
Không thấy gì, anh lần ra phòng ngoài. Ở đây, hồi nãy gã đàn ông đã hắt
một sô nước để rửa sạch vết máu của con chó bị đánh chết. Sàn lô cốt
láng bằng xi măng nên không thấm nước. Chỗ còn đọng lại, lan theo chiều
dốc thành một đường nước mỏng chảy trở vào trong kho chứa hàng.
Khôi
lần theo giòng nước thấy nó mất hút dưới mấy bao hàng. Ngoài bao vẫn
còn khô nguyên. Như vậy giòng nước chảy vào đây, nhưng nó đã thoát theo
lỗ hổng nào đó. Khôi áp tai nghe. Tiếng nước nhỏ giọt, rơi xuống chiều
sâu, nghe tách… tách… rõ rệt, đều đều…
Anh
luồn tay sờ dưới bao hàng, đụng nhằm vào một vật gì không phải bằng xi
măng. Kéo thử bao hàng ra Khôi thấy một tấm gỗ. Giòng nước đã lọt qua
tấm gỗ ghép ấy nhỏ giọt xuống dưới…
- Một cửa hầm ! Mình thoát rồi !
Mừng quá, Khôi reo gọi :
- Việt !
Việt giật mình, hoảng hốt :
- Hả, gì thế ?
- Lại đây mau.
Việt bật dậy đến sát bên bạn. Vẻ hứng khởi của Khôi làm Việt thấy hy vọng trở lại. Anh hỏi lại :
- Gì thế ?
-
Tớ vừa tìm ra cái nắp hầm này, nhờ có giòng nước chảy ở ngoài kia vào.
Bây giờ chúng mình chỉ cần khiêng mấy bao hàng này ra chỗ khác, giở cái
nắp gỗ này lên là tụi mình có lối thoát ra ngoài rồi !
Việt sững người nhìn bạn, rồi lại nhìn tấm ván gỗ có những bao hàng đè phủ lên trên, anh mừng rỡ kêu :
- Hay quá. Cậu giỏi thật đấy Khôi ạ. Thế mà tớ ngủ chẳng giúp cậu được gì cả !
Rồi
Việt hăng hái sắn tay áo cùng bạn khiêng những bao hàng rời đi chỗ
khác. Công việc khá vất vả, nhưng rồi nắp hầm lộ ra, vuông vức vừa một
người xuống lọt. Từ miệng hầm xuống có những nấc bằng sắt gắn sâu vào xi
măng dùng làm thang.
Khôi đặt chân xuống nấc thang ấy trước tiên, và mất hút dưới miệng hầm. Việt thỉnh thoảng hú lên để liên lạc với bạn :
- Hú… hú !...
Tiếng hú của anh dội xuống hầm nghe âm âm, kéo dài thành “ú u u ú u u” ghê rợn.
Khá lâu có tiếng của Khôi đáp vọng lên :
- Ê… được rồi ! Có hai mươi bốn bậc tất cả. Tớ tới đất rồi…
Việt thong thả lần xuống từng bậc. Vừa đặt chân trên các gióng sắt anh vừa đếm :
- … Mười… mười lăm… mười bảy… mười chín.
- Cẩn thận đấy nhé, có tớ đứng dưới này…
- Ừ.
- Coi chừng lúc xuống, đất bị trơn đấy.
- Được rồi… Tớ xuống đây.
Hai anh em đứng sát bên nhau, dưới đáy hầm, Khôi nói :
-
Cậu thấy cái lỗ sáng ở đầu kia không ? Cửa ra đấy ! Đây chắc là lối rút
lui bí mật đã được dự phòng khi lô cốt bị địch quân áp đảo. Ra tới đó
là tụi mình được tự do rồi…
Cả
hai cúi gập mình men đi. Chừng năm phút sau họ chui ra, đứng giữa bụi
cây rậm. Ánh trăng chiếu chan hoà trên mặt họ, và gió lạnh thổi bung mái
tóc.
Đôi bạn ôm chầm lấy nhau mừng rỡ :
- Thoát rồi, chúng mình thoát rồi !
Xa xa phía dưới lòng thung có tiếng gà gáy báo hiệu trời sắp sáng.