CHƯƠNG VII
Một bóng người cúi xuống chỗ Việt nằm. Anh nghe hơi thở hổn hển của hắn và tiếng hắn gọi :
- Việt ! Việt ! Sao thế hả ?
Thì ra bóng người đó là Khôi. Không nghe bạn trả lời, Khôi lo lắng gọi tiếp ;
- Việt ơi… Khôi đây mà… Cậu có nghe tớ không ? Trả lời đi… Cậu bị thương hay sao thế ? Tại sao lại nằm dưới hố này ?
Việt thều thào trả lời :
- Việt bị ngã từ trên cao xuống, không thể gượng dậy được… Ái…đau quá…
Khôi
nhận rõ tình thế. Như vậy là Việt chưa kịp báo cho đồn thương chánh
biết. Và trên kia, trong hầm nhà Tư Muôn, một mạng người lâm nguy đang
chờ mong từng phút để được giải cứu.
Nhưng
biết sao được ? Việt hiện bị thương, và có lẽ khá nặng… Chẳng lẽ bỏ
Việt nằm đây, rồi chạy xuống làng cầu cứu ? Khôi đâm ra lúng túng không
biết tính cách nào.
Việt
cựa mình rên rỉ. Một bên chân anh đau nhói. Khôi sốc nách Việt dậy, kéo
bạn lên khỏi vũng lầy, đặt nằm trên cỏ rồi bấm đèn soi chỗ vết thương
của bạn. Việt bị rách một đường da ở chân để lộ cả thịt, máu đọng đỏ
lòm.
- Trời ơi ! Đau quá… Chết mất !
Việt nhăn nhó kêu. Khôi vội ngăn bạn :
- Yên. Đừng kêu thế, trên kia Tư Muôn hắn nghe được, nguy lắm… Rán chịu một chút đi !...
Nhưng
Việt không sao rán được. Vết thương xé thịt, đau buốt đến ngất lịm
người đi. Việt cắn răng, nước mắt ràn rụa, vẫn không nén được cơn đau.
Khôi
quì bên cạnh bạn, loay hoay cả một khắc đồng hồ mà không giải quyết
được gì. Lo cho bạn, anh quên khuấy cả số phận người đội thương chánh…
Anh dặn Việt :
- Cậu chịu khó nằm chờ đây nhé. Tớ chạy về lều lấy mấy viên thuốc cho cậu uống đỡ. Rồi tớ sẽ xuống dưới làng tìm một người y tá…
Việt không nghe gì cả. Anh chỉ muốn làm sao quên được cái đau nhức đang cắn xé ở bắp chân.
Khôi
chạy về lều. Vũ trụ chìm trong thanh vắng. Tất cả như triền miên say
ngủ giữa đêm khuya, và sự êm đềm đó làm Khôi dịu được phần nào xúc động.
Chỉ ít phút sau Khôi đã trở lại với bạn, đem theo bình nước, ít viên
“Aspirine” và cái chăn nhỏ.
Anh trải chăn trên cỏ đặt bạn nằm lên, bảo :
- Cậu uống tạm mấy viên thuốc này cho đỡ đau, rồi nằm yên đừng động cựa, chờ tớ đi kiếm y tá phụ giúp khiêng về lều băng bó cho.
Sợ Việt lạnh, Khôi cởi áo ngoài đắp lên người bạn.
Việt
cố gắng nhếch một nụ cười héo hắt tỏ ý cám ơn. Khôi thật là một người
bạn tốt ! Cuộc cắm trại này sẽ lưu lại những kỷ niệm khó quên…
Khôi tiếp :
-
Thôi, bây giờ tớ đi kiếm y tá đây. May ra có thể tìm được. Nếu không
tất phải đến ông xã trưởng nhờ ông chỉ dùm. Chỉ lo ở đây không có ai
hành nghề y tá thôi… À, dưới làng thấy có một ngôi nhà thờ. Tớ sẽ gõ cửa
xin vị linh mục ở đấy giúp đỡ… Tớ đi nhé… Cậu đã thấy khá chưa ? Có cần
gì nữa không hả Việt ?
Việt
khẽ lắc đầu. Anh thầm trách mình quá sơ suất đến nỗi lâm phải tình
trạng này để làm khổ cho Khôi. Từ đây xuống dưới làng phải đến vài ba
cây số, liệu Khôi có tìm ra được ai giúp không, hay uổng công trở về ?
Xui thật… Và tất cả cũng chỉ vì… Việt chợt nhớ đến mục đích của cuộc mạo
hiểm. Anh gắng gượng bảo bạn :
-
Khôi này, viên đội thương chánh có đưa tớ tấm “lắc” của ông ta. Cậu cầm
lấy đem đến đồn báo cho họ biết. Phải cứu ông ta trước đã, Khôi ạ… Rồi
hãy tìm y tá sau… Tớ thấy đã khá nhiều, không đau lắm nữa… !
- Được rồi, cậu cứ yên tâm, tớ sẽ đi một công đôi việc ! Đừng lo… Mọi việc rồi sẽ xuôi hết…
Hứa với bạn rồi Khôi lặng lẽ biến vào bóng đêm.
Còn
lại một mình, Việt cố gắng thiếp ngủ. Một làn gió nhẹ thoảng đến vuốt
ve mái tóc của Việt. Vết thương ở chân không còn đau buốt nữa, nhưng lại
tê dại đi vì khí lạnh của đêm khuya.
Việt
lo sợ vết thương bị nhiễm độc. Anh mong Khôi tìm ra được người y tá, và
khắc khoải chờ đợi. Hai mắt Việt mở rộng nhìn lên nền trời, đôi môi tái
nhợt, run rẩy như muốn lên cơn sốt…
Đột
nhiên Việt thấy lờ mờ trong đầu hình ảnh ngôi nhà ấm cúng với bóng dáng
dịu hiền của mẹ và hơn lúc nào hết anh thèm muốn ước ao được sự săn sóc
của bà. Rồi từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, Việt liên tưởng đến các bạn
bè : đến Bạch Liên, Tuấn, Dũng, Ngọc nga, tới những chiều rảnh rỗi cùng
nhau dạo chơi trên hè phố Sàigòn, la cà trước các hiệu bán sách hoặc ra
đứng ngoài bến tàu hóng gió nhìn ngắm những con tàu, những chiếc chiến
hạm và thèm muốn một cuộc vượt sóng ra khơi. Đô thành vào những lúc ấy
rực rỡ ánh đèn. Những ống đèn màu nhấp nháy trên các cửa tiệm chiếu xuống hè phố từng khoảng sáng dài linh động. Việt
thầm nghĩ :
- Không khéo mình mê sảng mất ! Tại sao lại nghĩ đến ánh đèn thành phố trong lúc này ?
Anh
nhìn lại nền trời đêm. Có một vệt sáng lờ mờ kéo dài trên không trung
làm Việt ngạc nhiên. Phải chăng vệt sáng đó là dải Ngân hà hiện rõ dưới
vòm trời khuya ? Nhưng không, vệt sáng chuyển động như đang tiến tới.
Đồng thời Việt nghe rõ tiếng ầm ì của động cơ từ xa vẳng lại. Anh lắng
tai nghe ngóng, và chợt hiểu vệt sáng quét trên không trung là do ánh
điện của “đèn pha” xe hơi chiếu ra.
Tiếng động cơ nghe mỗi lúc một gần. Nó ngưng lại giây phút để chuyển sang số mạnh hơn.
Chiếc
xe hơi bắt đầu vượt lên con đường dốc, tiến về hướng nhà Tư Muôn. Việt
thầm hỏi chiếc xe đó đến nhà Tư Muôn Làm gì ? Anh tìm thấy ngay câu trả
lời và hoảng hốt kêu :
- Chết rồi… nó đến để chuyển hàng và đem viên đội Thương chánh kia đi…
Việt
cố gắng cựa mình. Nhưng vết thương ở chân làm Việt nhăn mặt. Anh mường
tượng đến sự việc sắp xảy ra ở trên kia, trên nhà Tư Muôn : Viên đội
thương chánh sẽ bị trói chặt, bị bọn buôn lậu ném lên xe đưa đi biệt
tích…
Việt biết điều ấy… Thế mà anh không làm gì được. Uất giận dâng lên nghẹn cổ, Việt muốn vùng lên, gào hét sự bất lực của mình.
Không,
không thể thế này được. Lương tâm Việt phản đối mảnh liệt. Anh không
thể để mặc bọn kia thi hành tội ác của họ… Việt phải can thiệp. Vì, dù
sao nếu người đội thương chánh không được giải cứu kịp thời cũng là do
lỗi ở anh phần nào…
Chiếc xe đã lên tới nửa dốc. Việt nhìn rõ được bóng của nó nổi bật trên nền trời với hai vệt sáng trắng của đèn pha.
Việt mưu tính một chương trình hành động.
Anh rút khăn tay buộc chặt vết thương ở bắp chân, cố chống người dậy bò đi.
Thoạt
đầu Việt chưa cảm thấy đau. Nhưng sau vết thương tê dại vì khí lạnh
theo nhịp chuyển động của mạch máu lại bắt đầu nhoi nhói như có hàng
trăm mũi kim nhọn châm vào.
Việt
lết chậm chạp lên sườn núi, thỉnh thoảng ngưng lại để thở và cho vết
thương bớt đau. Anh nằm úp mặt xuống tay, có khi áp má trên cỏ, nghĩ đến
tính mạng viên đội thương chánh, rồi lại gắng trườn người lên.
Việt
chỉ hy vọng đạt tới đích. Nhiều lúc anh muốn ngất lịm đi vì mệt,hai tay
yếu liệt không điều khiển theo ý muốn được nữa. Hai tai anh ù lên, có
cảm giác như đang chìm vào một thế giới âm u không thực. Tuy nhiên Việt
vẫn cứ cố gắng trườn lên. Anh vẫn nghĩ đến việc phải cứu viên đội thương
chánh, dù chưa biết sẽ phải đương đầu với bọn người liều lĩnh tàn bạo
kia ra sao.
Việt
ngửng đầu lên. Trên kia, đêm tối bao trùm trở lại ngôi nhà của Tư Muôn.
Chiếc xe đã tắt máy và tắt luôn cả ánh đèn. Có lẽ bọn đồng loã của hắn
đã rời xe để vào trong nhà.
- Lạy trời cho mình tới kịp. Và bọn chúng đừng đi ngay…
Ý nghĩ ấy thúc bách Việt vùng dậy. Như một con hoẵng bị thương, anh chồm lên nấp sau một bụi cây chờ vượt lên con đường dốc.
Bỗng
nhiên một ý nghĩ, một kỷ niệm thì đúng hơn, hiện ra trong trí Việt :
Anh vừa nhớ đến Thanh cô gái ở nhà Tư Muôn. Chẳng hiểu Thanh có dự vào
những hành động khả nghi này không ? Thanh có biết rằng nhà “dượng Tư”
của cô là một sào huyệt của bọn người phi pháp, dám giết người ? Thanh
có lo sợ nếu thấy nhà chức trách ập đến ? Và nếu Tư Muôn bị bắt, số phận
của Thanh ra sao ? Cô bé chắc sẽ bị nhốt vào nhà trừng giới hoặc đưa
vào viện mồ côi mất.
Việt tưởng tượng ngay ra cảnh sống âm thầm cô độc mà Thanh sẽ phải chịu. Và tất cả những điều đó chỉ vì Khôi Việt gây ra…
Việt
ngẩn người ra một lát, không ý thức được việc mình làm là phải hay quấy
nữa. Việt đâm ra hoang mang và cảm thấy mệt mỏi chán nản vô cùng.
Anh
ngồi lặng như thế đến năm phút. Chợt anh giật mình nghe có tiếng cửa
mở. Ánh đèn vàng vọt trong nhà Tư Muôn chiếu giãi ra ngoài sân. Mấy bóng
người bước ra, vừa đi vừa rì rầm nói chuyện.
Việt nấp cách đấy độ chừng mười lăm thước. Anh nép sát sau bụi cây nhìn rõ mấy
bóng đó tiến lại phía chiếc xe hơi. Chiếc xe thuộc loại vận tải cỡ nhỏ.
Tư Muôn không ra cùng với họ. Chỉ có ba người, nói giọng lơ lớ không
sõi.
Không
suy nghĩ, đắn đo, Việt hành động theo phản ứng của mình. Anh bật người
dậy, đồng thời nhảy lò cò bằng bên chân lành lên mặt đường. Anh nhảy
được chừng bốn năm thước thì ngã quỵ, nằm vật trên mặt đất.
Ba
bóng người cùng giật mình quay lại. Thấy Việt trong bụi cây nhảy ra, họ
lui bước thủ thế.Nhưng khi thấy Việt ngã xuống đất, họ bỡ ngỡ hỏi nhau :
- Cái gì thế ?
- Một thằng nhỏ…
- Nó có một mình thôi à ?
Sau
khi xem xét sau bụi cây không có gì khả nghi, họ tiến lại phía Việt.
Thấy Việt bị thương, một người lớn nhất trong bọn nhắc Việt lên, mang
vào nhà Tư Muôn.
Sau đó họ đóng sập cửa lại, và bóng đêm bao phủ hoàn toàn trong vắng lặng…
CHƯƠNG VIII
Khôi cố giải thích :
- Em
đoán chắc là anh ấy vừa ở đây, ngay chỗ có chiếc khăn này…Việt ngã
xuống hố, bị thương ở bắp chân. Chính em trải cái chăn này cho hắn nằm,
rồi kêu các ông lại. Bây giờ không hiểu tại sao hắn lại biến đâu mất…
Người y tá đi cùng linh mục theo Khôi đều không hiểu nổi điều gì đã xảy ra.
Ông y tá tỏ vẻ bất mãn, càu nhàu :
-
Chuyện gì mà kỳ cục vậy ! Mấy cậu trẻ tuổi chỉ hay bày đặt, đêm hôm đi
đánh thức người ta dậy, lặn lội hàng cây số tới đây để chỉ thấy có cái
chăn, không thấy nạn nhân đâu cả !
Vị linh mục chợt cúi xuống nói :
- Ô này, có một bình nước và cái ly bằng nhôm. Chắc cậu đã đem những thứ này ra đây phải không ?
Khôi đáp :
- Dạ, thưa phải. Em đem nước và thuốc Aspirine ra cho hắn uống.
Ông y tá gắt :
- Cậu nói bạn cậu bị thương ở chân. Không lẽ bây giờ cậu ta trở dậy được và đi chơi một vòng ?
Khôi ấp úng :
- Thưa, em cam đoan với ông mà… Chắc đã có chuyện gì đây… Hay là hắn bị bọn buôn lậu bắt đi rồi…
Ông y tá lắc đầu :
- Lại chuyện tưởng tượng…
Và quay sang vị linh mục ông ta tiếp :
- Linh mục có tin truyện bắt cóc trẻ con không ?
Vị linh mục điềm đạm nói :
-
Tôi chưa hiểu ra sao. Tôi có biết tiếng Tư Muôn, mà cậu này nói là đã
giam giữ một viên đội thương chánh. Tôi nghe Tư Muôn là một tay buôn
lậu, nhưng không chắc rằng hắn lại dám liều lĩnh bắt cóc người ta để phi
tang nhân chứng. Chắc hẳn cũng có điều rắc rối chi đây…
Khôi nài nỉ :
-
Em xin linh mục và ông y tá theo em lại nhà Tư Muôn, xem có bạn em ở
đấy không ? Xin hai vị giúp em với… Em không thể bỏ bạn em được…
Nước mắt Khôi rưng rưng chảy. Trước mặt hai người không tin ở lời mình nói, Khôi mất cả tự chủ. Anh bật khóc nức nở…
Lời nói khẩn khoản và nước mắt của Khôi làm vị linh mục ái ngại. Ông đặt tay lên vai Khôi :
-
Con có chắc không ? Có thật Tư Muôn hiện giấu giữ viên đội thương chánh
và bắt cóc luôn cả bạn con nữa ? Nếu như con nói sai thì sẽ phiền phức
lắm đó.
Khôi
chưa dám trả lời. Anh không mê ngủ, dĩ nhiên rồi ! Vì rõ ràng anh đã
thấy viên đội thương chánh bị trói chặt dưới hầm nhà Tư Muôn. Còn Việt,
người bạn chí thiết của anh, thật tình anh chưa biết rõ ra sao cả.
Viên y tá đứng lặng chờ câu trả lời của Khôi. Ông ta lắc lắc chiếc túi đựng thuốc mà ông xách vội theo, với vẻ sốt ruột.
Khôi nghẹn ngào nói :
- Xin linh mục tin con, viên đội thương chánh bị giam ở trong hầm nhà Tư Muôn… còn Việt bạn con, thì hắn mới vừa ở đây…
Nói rồi Khôi ngồi bệt xuống chiếc khăn trải trên cỏ, nơi Việt vừa nằm, bưng lấy mặt khóc.
Vị linh mục nhẹ nhàng kéo Khôi dậy :
-
Đứng lên… con đừng vội thất vọng. Chúng ta cùng lên nhà Tư Muôn xem
sao. Vả lại ông xã trưởng đã được loan báo và chắc ông cũng đã tin cho
đồn thương chánh biết rồi. Có thể chúng ta sẽ gặp họ trên đường. Nào đi…
Viên
y tá lặng lẽ đi theo. Cả ba men sườn núi trèo lên con đường dốc. Ngôi
nhà Tư Muôn im lìm ẩn bóng sau mấy bóng cây, phía trên đầu họ.
Chợt ông y tá reo lên :
- Ồ, có một cái áo !
Khôi giật mình nhìn chiếc áo lẩm bẩm :
- Áo này của em đây. Sao lại rơi ở chỗ này được ?
Một ý nghĩ bỗng loé sáng trong óc Khôi :
- Thôi đúng rồi. Chiếc áo này em đã đắp cho Việt khỏi lạnh. Chắc hắn cố ý để rơi ở đây để làm dấu cho em tìm hắn…
Viên
y tá hoài nghi nhìn Khôi, thầm nhủ rằng Khôi lại bày đặt thêm cho câu
chuyện bắt cóc có vẻ xác thật. Triền núi dốc này, người khoẻ mạnh trèo
lên còn vất vả thay. Huống hồ còn khiêng theo một người bị thương nữa,
làm sao leo cho nổi ?
Ông y tá chưa kịp nói ý nghĩ ấy ra , thì một tiếng súng nổ chát chúa vang lên. Tiếp đến tiếng kêu chói lói…
Vị
linh mục và ông y tá trèo vội theo Khôi, nhảy lên mặt đường. Từ chỗ ấy
đến nhà Tư Muôn còn cách chừng một trăm thước. Khôi cắm cổ chạy tới, và
đứng sững người nhìn những hoạt cảnh diễn ra trong bóng tối như một giấc
mơ…
Hai bóng người vừa chạy vừa khó nhọc khiêng một vác nặng. Tiếng kêu lại nổi lên :
- Cứu tôi ! Cứu tôi với ! !
Khôi
hiểu ngay : bọn buôn lậu đang đưa người đội thương chánh đi… Chúng lẳng
ông ta vào trong xe, chỗ chở hàng, rồi leo lên mở máy phóng hút vào đêm
tối.
Vừa
lúc ấy, lại nghe có tiếng xe hơi tiến đến, thứ xe của nhà binh rồi
nhiều người xuất hiện, lặng lẽ bao vây nhà Tư Muôn. Họ có chừng mươi
người, do một sĩ quan chỉ huy đang ra lệnh bằng những hiệu tay.
Khôi
có cảm tưởng như mình đang nằm mơ thực… Tại sao những đội viên thương
chánh này lại không cứu đồng nghiệp của họ ? Tại sao họ không đuổi theo,
bắn vào chiếc xe vừa tẩu thoát ? Hay họ ngại nếu bắn nhỡ trúng nhằm bạn
của họ ? Hoặc họ đã có một kế hoạch sẵn rồi ?...
Từng
ấy câu hỏi cứ rồn rập trong óc Khôi. Anh tiến lại nhà Tư Muôn và lọt
vào bên trong. Dưới ánh đèn dầu, anh thấy Tư Muôn và một người lạ nữa,
lấm lét đứng cạnh chiếc tủ, có hai đội viên thương chánh cầm súng lục
canh hai bên.
Tư Muôn không buồn nhìn Khôi khi anh bước vào nhà. Tên đồng loã của hắn hoàn toàn lạ mặt.
Thanh
ngồi khóc sụt sịt trên một chiếc ghế gần đó. Khôi ái ngại muốn tới gần
an ủi, nhưng lại không dám. Cùng lúc ấy anh thấy trong góc phòng một
bóng người nằm dài trên chiếc chõng tre, mặt tái xanh như một xác chết.
Người ấy là Việt.
Khôi chạy lại :
- Việt, trời ơi, Việt !
Anh quỳ xuống chân bạn khóc ròng.
- Việt, trả lời Khôi đi. Việt còn sống đấy chứ ?
Không ai trả lời.
Khôi ngước mắt nhìn viên y tá, lúc ấy đã tới gần bên, hỏi :
- Bạn tôi có chết được không ông ?
Ông y tá lắc đầu :
-
Không ! Cậu ấy ngất đi đấy. Chẳng sao đâu. Để tôi chích cho cậu ấy một
mũi thuốc. Và cứ để cho cậu ấy nằm nghỉ. Tôi sẽ săn sóc luôn cả chỗ vết
thương…
- Vết thương có nặng không ông ?
- Chỉ bị rách thịt thôi… chưa hề gì.
Ông vỗ vai Khôi mỉm cười :
- Sẽ có một vết sẹo dài để làm kỷ niệm !
Khôi thở phào, nhẹ nhõm. Anh tiến lại vị linh mục thì thầm ;
- Xin linh mục săn sóc cho cô bé kia. Cô ta tên là Thanh, và hoàn cảnh rất đáng thương.
Bên
ngoài có tiếng còi, tiếng chân chạy rầm rập, tiếng động cơ xe hơi nổ,
và tiếng ra lệnh sắc gọn của viên chỉ huy. Tất cả xáo động một cách cấp
bách.
Viên sĩ quan bước vào hỏi Khôi :
- Phải cậu là người khám phá ra ổ buôn lậu này không ? Theo tôi, mau lên…
Chưa
hiểu rõ tình thế ra sao, Khôi cũng vâng lời theo sau viên sĩ quan, leo
lên chiếc xe “jeep” đậu bên ngoài. Chiếc xe lao xuống con đường dốc, lắc
đảo dữ dội, khiến nhiều lần Khôi tưởng đã văng ra ngoài. Nhưng người
lái xe là một tay cừ khôi. Xe vẫn phóng như bay trong đêm tối. Gió đêm
quất ngược vào mui vải phần phật, và làm bạt hơi thở của bốn người ngồi
trên xe : người tài xế hai tay ghì chặt vào bánh lái; một đội viên cầm
khẩu tiểu liên chĩa về phía trước, hướng đào tẩu của bọn đồng loã Tư
Muôn; và viên sĩ quan chỉ huy, với Khôi ngồi bàng hoàng không hiểu đang
sống thực hay mộng. Viên sĩ quan hét vào tai Khôi :
- Tôi có lời khen các cậu…
Khôi giật mình, như người chợt tỉnh một giấc mộng du, quay lại nhìn viên sĩ quan. Ông ta tiếp :
-
Bạn cậu thiệt là can đảm và khôn lanh. Nhờ có cậu ấy lập kế nằm lăn
giữa đường nên bọn buôn lậu phải khiêng cậu ấy vào trong nhà và nhờ thế,
đã đủ thì giờ cho chúng tôi đến kịp. Mặc dầu vậy, có hai tên đã mang
được anh Giang, một đội viên thuộc đoàn XXII của chúng tôi ra xe chuồn
mất. Chúng hiện tìm cách qua biên giới, nhưng chúng ta sẽ đuổi kịp.
Lời nói của viên sĩ quan làm Khôi phấn khởi. Anh thầm nghĩ :
- Như vậy, kể cũng không đến nỗi uổng công. Chỉ mong sao cứu được kịp thời viên đội thương chánh là khỏi còn ân hận gì nữa…
Người lính ngồi phía trước quay lại báo cáo :
- Bọn chúng đã bỏ xe. Chúng biết bị đuổi theo nên lủi chạy vào rừng.
Khôi
cố nhìn xem bóng bọn buôn lậu chạy trốn, qua tấm kính chắn gió. Nhưng
anh không thấy gì. Chiếc xe “jeep” bỏ đường thẳng chạy rẽ xuống đồng cỏ…
Viên sĩ quan ra lệnh :
-
Cẩn thận ! Chúng ta sẽ bắt được chúng. Vì muốn vượt biên giới chúng còn
phải băng qua một vũng lầy và nhiều suối nhỏ. Báo cho toán tuần cảnh ở
phía này biết…
Khôi để ý thấy người lái xe nhận một nút bấm trên chiếc máy nhỏ gần tay lái, lắp ống nghe vào tai…
Viên sĩ quan tiếp :
- Nói với họ phục sẵn bên kia rừng, án ngữ đường qua biên giới và không được nổ súng trước khi có lệnh…
Người
tài xế truyền lệnh đó đi. Chiếc “jeep” ngừng lại trên một đám đất ẩm.
Phía trước là bãi lầy, cỏ nước mọc um tùm. Chiếc xe của bọn buôn lậu nằm
lủi đầu vào đám cỏ. Khôi vừa chỉ tay về phía đó cho viên sĩ quan thấy,
thì một ngọn lửa bùng lên…
Người lái xe kêu :
- Chúng đốt xe !
Bọn
đồng loã của Tư Muôn đốt xe thật. Chúng định tiêu huỷ tất cả trước khi
bỏ trốn. Khôi thấy bóng chúng đang chạy. Viên sĩ quan bắn một phát chỉ
thiên.
Lửa cháy ở chiếc xe mỗi lúc một lan rộng vì xăng ở bình chứa chảy ra.
Khôi
bỗng chợt nhớ đến người đội thương chánh, nạn nhân của bọn buôn lậu,
hiện còn bị trói ở trong xe. Nếu không cứu gấp, tất ông ta bị thiêu
sống.
Khôi nghĩ :
- Phải đi ngay mới được. Đó là bổn phận của mình…
Và
anh phóng mình vào đám đất lầy, bất chấp lời gọi của viên sĩ quan và
người tài xế. Lúc này không gì cản trở Khôi được. Anh chạy như bay, nhảy
qua từng vũng nước, từng mô đá, và đến gần chiếc xe đang cháy. Lửa nổ
lép bép dưới sàn xe sắp lan tới đầu máy. Trong thùng xe phía sau, Khôi
thấy viên đội thương chánh bị trói đang cố sức dãy dụa.Anh xông vào giữa
đám khói mù mịt, nắm áo ông ta và cố sức kéo trở lui.
Quanh Khôi, lửa nóng hừng hực. Kéo được nạn nhân ra khỏi đám cháy, tới một khoảng đất khô, Khôi đặt xuống, nâng đầu ông ta lên.
Viên đội thương chánh mở mắt, nhận ra được Khôi đang cúi xuống nhìn mình, gắng gượng thều thào :
- Cám ơn em. Em vừa cứu sống anh đó…
Rồi ông ta lả người, ngất lịm…
Viên
sĩ quan và tuỳ thuộc của ông hấp tấp chạy tới. Họ dìu cả hai người ra
xe, vì Khôi lúc ấy cũng mệt muốn đứt hơi, đứng không vững.
Lúc ấy đã vào khoảng 4 giờ sáng. Phía chân trời ánh hồng dương đã lờ mờ tỏ hiện.
Khôi
nhắm mắt lại. Những hình ảnh hiện ra trong óc anh, gợi lại tất cả những
sự việc xảy ra trong vòng mấy ngày nay. Anh nghĩ tới Việt bị thương nằm
dài trên chiếc chõng ở nhà Tư Muôn; đến Thanh, cô gái bé bỏng đáng
thương, đang khóc nức nở. Cũng may, còn có vị linh mục ở đó. Ngài sẽ săn
sóc lo liệu cho nàng. Rồi anh lại nghĩ đến các bạn ở đô thành. Mai đây,
anh sẽ cùng Việt trở về với căn nhà ấm cúng của gia đình, tìm lại bầu
không khí yên ổn của phòng học, sống lại cuộc đời đèn sách của một học
sinh chăm chỉ.
Chiếc
“jeep” rú lên, quay mũi vượt lên đường. Khôi mở mắt, nhìn lại lần cuối
cảnh núi non chập chùng, đồng cỏ bao la miền biên giới đang dần dần thức
tỉnh dưới ánh bình minh và cảm thấy tâm hồn thư thái, sau những giờ
phút sôi động vừa qua.
Nguyễn Trường Sơn