Bởi không chán sao được, khi ở một trường trước bán được 78 số, nay sụt xuống còn 2 số, ở một trường khác bán 42 số nay còn 4 số, và đặc biệt ở một trường lớn khác, sĩ số học sinh trên 10.000 mà liền 3 kỳ báo (73, 74+75, 76) mỗi kỳ gửi 150 số, đều không bán được lấy một số nào! Điều này khiến tôi chạnh nghĩ đến các em ở xa. Một tờ T.N về đến tỉnh đã lên giá tới 60đ (vì thêm tiền cước phí), có chỗ, nhiều em đã phải mua tới giá 70đ. Ấy vậy mà nhiều khi chậm chân, báo còn hết không có để mua nữa. Trước hiện tượng ấy, nhiều em viết thư về thắc mắc không tin là tờ báo đang ở đà suy sụp. Nhưng các em đã không biết rằng dù ở tỉnh xa, báo có chạy, nhà phát hành cũng chỉ gởi ra một số giới hạn (để khỏi còn báo ế trả lại đỡ tốn tiền cước phí chuyên chở). Nhà phát hành có thể tăng số lượng báo gửi đi xa, nhưng với điều kiện là các sạp báo ở tỉnh phải viết thư com-măng, hoặc chính độc giả ở tỉnh nhờ sạp báo com-măng hộ. Nhưng không có ai làm như thế cả. Tâm lý chung là “có thì mua, hết thì thôi”. Ai cũng nghĩ mình chỉ là thiểu số, rắc rối chi cho thêm phiền. Tình trạng ấy cứ thế kéo dài và hậu quả là ở tỉnh báo có thể thiếu, nhưng ở tòa soạn báo cũ trả về tới gần ba phần tư!
Bao nhiêu biện pháp cứu gỡ cho tờ báo đều đã được tòa soạn đem lên bàn mổ xẻ và cho thực hiện. Phương châm thực tế của luật thương mại là “hãy đem sản phẩm đến tận tay khách hàng” cũng đã được tòa soạn triệt để thi hành.
Quí vị Hiệu Trưởng, Quí vị Tổng Giám Thị, Quí vị Giáo Chức cũng đã mở rộng cửa để cho T.N tự do tràn ngập. Vấn đề cuối cùng chỉ còn là sự lựa chọn của người đọc. Nhưng độc giả phần đông vẫn còn thích chú Thoòng hơn. Hiện tượng chú Thoòng giảm xuống thì đa số lại đổ xô đi mua các loại truyện tranh can lại của ngoại quốc với bản dịch khác xa nguyên tác ở chỗ ngôn ngữ đối thoại nhảm nhí hơn, thô tục hơn, và đó là thị hiếu của độc giả. T.N như liều thuốc đắng. Truyện nhảm nhí như viên kẹo ngọt. Thuốc đắng dù có bọc đường cũng không thể bằng kẹo ngọt nếu không có sự tiếp tay của các phụ huynh.
Hẳn nhiên nội dung của T.N còn nhiều khiếm khuyết, nhưng anh chị em trong tòa soạn đã cố gắng thường xuyên duy trì chủ trương đã vạch sẵn. Tờ báo bớt khô khan hơn rất nhiều so với số đầu tiên. Và nó vẫn còn đang nỗ lực hơn nữa. Nỗ lực trong buồn chán và suy sụp tinh thần. Tôi có thể khóc được khi nghe Bác Văn Việt than lên:
- Tôi cố gắng hết mức rồi mà không giúp được gì hơn, thật đã muốn bỏ cuộc.
Trong hai tháng lăn xả vào với Thiếu Nhi, bác sụt gần 4 kí. Cuối cùng, kết quả là sự ngao ngán bất lực. Chúng tôi đã dựa vào bác để lấy niềm tin. Bây giờ, chính chúng tôi lại phải tiếp sức cho niềm tin của Bác. Nực cười thay. Tôi đã cố trấn tĩnh để cười to làm yên lòng bác:
- Còn nước còn tát. Lo gì mà lo. Hơn nữa Bác chủ nhiệm bao giờ cũng thiết tha với nhu cầu sách báo của tuổi thơ. Nhờ bác, mình còn có thể cựa quậy thêm một thời gian nữa. Ta sẽ vùng lên một lần cuối.
Và chúng tôi đang sửa soạn để vùng lên một lần cuối cùng. Chúng tôi sẽ tổ chức một thuyết trình đoàn tình nguyện đi khắp các trường để kêu gào về vấn đề “sách báo cho thiếu nhi”. Chúng tôi sẽ trực diện kêu gọi sự thức tỉnh của chính các em trước cơn xâm lăng nguy ngập của các sách báo nhàm nhí. Bạn bè ta, anh em ta, các bạn đồng lứa tuổi quanh ta đang bị đầu độc tinh thần bằng đủ loại văn nghệ phẩm.
Các truyện tranh với ngôn ngữ đối thoại nhảm nhí. Các Feuilleton nội dung thiếu lành mạnh rải rác trên các báo hàng ngày. Các phim Tầu tràn ngập coi mạng người bằng một giá rẻ mạt, coi nhân phẩm không bằng một con sâu, cái kiến, và trước mắt khán giả những pha giết người, phanh bụng, moi tim, bay đầu, dập phổi đã được khai thác tận tình. Thế hệ thiếu nhi này lớn lên trong môi trường vẩn đục ấy. Tâm hồn trong sáng của các em hẳn nhiên như một tờ giấy trắng bị hoen ố bởi biết bao nghịch cảnh diễn ra thường xuyên, hàng ngày. Đó là một mối nguy cơ, không ồn ào, không cụ thể, không có hậu quả trước mắt, nhưng sẽ gieo nguy hại lớn lao cho xã hội ngày mai. Trước chúng tôi, đã có nhiều tiếng chuông nhắc nhở gióng lên mạnh mẽ. Chúng tôi sẽ tiếp tục làm công việc ấy, trước khi tiêu hết khả năng, vốn liếng của mình sau gần 2 năm trời hoạt động bằng tim óc, thì giờ và cả tiền bạc.
Trước đống bài ngổn ngang và những lá thư chứa bao tâm tình thương mến của độc giả trên toàn quốc, tôi chợt nghĩ đến ngày mai và những mơ ước của các bác, các cô chú trong tòa soạn đã dành cho tuổi thơ.
Rồi ngày mai sẽ ra sao với đà suy sụp này. Tôi không thể trả lời.
Thứ ba 27-2-1973.
Nhà in điện thoại lại, báo tin cho tòa soạn đến chở bìa báo. Ông Giám Đốc cười vang trong ống nói:
- Các anh nóng nẩy quá. Bìa đâu có hư. Lại coi thì biết.
Tôi mừng húm, xách xe chạy bổ xuống nhà in. À, thì ra vì yêu mên Thiếu Nhi nên nhà in đã cho sửa chữa kịp thời. Hai cái máy tự động được sử dụng suốt đêm để cho in thêm một mầu nữa. Mầu vàng. Các khuôn mặt trong hình như tươi thêm. Hai vành khăn của Hai Bà Trưng không còn mầu nâu bạc nhược như trước. Vẻ mặt của Hai Bà mất đi vẻ tím ngắt u sầu. Thế là loạt bìa kỳ này đã chạy tới 5 khuôn, cũng như loạt bìa số Xuân cũng phải chạy tới 5 lần (thêm 1 mầu đỏ tía để cứu vãn cái nền của số Tết).
Xin cám ơn ông Giám Đốc. Xin cám ơn anh em ấn công. Ít ra trong thời buổi khó khăn này, vẫn còn nhiều tấm lòng yêu mến Thiếu Nhi và không vụ lợi. Bìa báo bị trễ mất hơn một ngày, nhưng các bộ phận khác sẽ làm thêm giờ. Anh ấn công in Hộp Thư ở mặt trong lụi hụi với cái máy in cũ kỹ mãi tới gần giờ giới nghiêm mới xách xe đạp ra về. Đường vắng hoe chẳng biết anh có kịp về hỏi thăm con cái trước khi chúng nó lên giường đi ngủ. Trong gần hai năm làm việc ở tòa soạn, tất cả mọi người, mọi bộ phận đều có một niềm tự hào. Đó là báo không bao giờ bị ra trễ. Kỷ lục âm thầm ấy đã phải trả giá bằng biết bao cố gắng, tận tụy không tên tuổi. Âm thầm như vành bánh xe đạp của người ấn công trở về trên đường vắng.
_________________________________________________________
Xem tiếp KỲ III