Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2024

MỖI TUẦN VÀI CHỮ

 


Hàn Huyên : Hàn : lạnh. Huyên : ấm. Hàn huyên chỉ sự tâm tình thăm hỏi nhau ngọn ngành coi ấm, lạnh thế nào. Trong Kiều có câu:

Mặt nhìn mặt càng thêm tươi
Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên.

Đài Các : Đài : đền. Các : gác, ý nói nhà sang trọng, quyền quí, nhưng ngụ ý kênh kiệu "ăn nói đài các, lên mặt đài các".

Khuê Các. Khuê : cái buồng. Các : gác, ý nói buồng kín, gác cao, chỉ chỗ ở của con gái nhà sang trọng. Trong Kiều có câu:

Này trong khuê các đâu mà đến đây?

Lưu Lạc : Lưu : trôi. Lạc : rơi, rụng. Chỉ sự gian truân, nay đây, mai đó, như nước trôi, như hoa rụng.

(Thiếu Nhi số 128)
 
Kỷ Cương : Kỷ : đồ dùng để gỡ tơ chỉ cho khỏi rối. Cương : sợi dây to ở chóp lưới dùng để tung lưới ra. Nghĩa bóng để chỉ sự trên dưới có trật tự, không được rối loạn.

Thiềm : là thỏ. Nghĩa bóng là mặt trăng. Nguyên trong kinh Phật có nói ngày xưa có con thỏ nhân đức thấy đồng loại chết đói nhiều liền tự nguyện nhảy vào lửa để thui mình làm đồ ăn cho đồng loại. Bị ăn thịt hết, con thỏ nhân đức ấy chỉ còn có đống xương. Đức Thích Ca mới thương cảm cho lên ở trên mặt trăng nên từ đó mặt trăng mới có thỏ và Cung Trăng gọi là Cung Thiềm.

Tịch Mịch. Tịch : là không có tiếng người. Mịch : là không có tiếng vật, chỉ sự hết sức yên lặng không cả tiếng người lẫn tiếng vật.

Tam Bành : là 3 vị thần ác của người đàn bà, đó là Bành Kiêu, Bành Cư, Bành Chất. Ba vị thần này chuyên xúi phụ nữ làm ác rồi lại xúc xiểm với Ngọc Hoàng Thượng Đế để đem trị tội. Vì vậy hai tiếng Tam Bành chỉ sự hung ác của người đàn bà lúc cơn giận dữ nổi lên. Trong Kiều có câu:

Mụ nghe nàng nói hay tình
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên.

(Thiếu Nhi số 129)

Phù Vân : Phù : là nổi. Vân : là mây. Ý nói đám mây nổi giữa trời chỉ một lúc là tan đi. Nghĩa bóng chỉ của cải nếu kiếm được mau chóng thì cũng tan đi mau chóng (của Phù Vân).

Tuyệt Diệu : Tuyệt : là có một không hai. Diệu : là tinh khéo. Có nghĩa là cực hay. Hai tiếng đó là của Thái Ung đời Hậu Hán phê vào bài văn bia rằng "Tuyệt diệu hảo từ" nghĩa là lời văn hay lắm.

(Thiếu Nhi số 130)

Cảo Thơm : Cảo : cỏ - Thơm : mùi thơm, dịch ở chữ Phương Cảo (Phương = thơm). Ngày xưa người ta hay lấy cỏ vân thảo để vào sách để tránh mối, mọt. Lúc mở sách ra xem thì có mùi thơm tỏa ra. Về sau nghĩa bóng để chỉ những sách hay, có giá trị.

Cảo thơm lần giở trước đèn.
(Kiều)

Cần Vương : Cần : là siêng năng, Vương là vua. Khi nước lâm nguy, vua lưu vong, các quan mộ binh lính đánh giặc giúp nước gọi là phong trào Cần Vương.

Cân Quắc : Cân : là cái khăn, Quắc : là cái yếm. Nghĩa rộng nói người đàn bà có tài hơn người.

Thao Lược : Do chữ "Lục Thao, Tam Lược" là con hai bộ binh thư của Thái Công Vọng bên Tàu viết ra. Lục Thao gồm : Văn thao, Vũ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao, Khuyển thao. Tam Lược gồm : Tướng lược, Quân Lược, Trận lược - Nghĩa bóng chỉ người có tài trí, mưu sự giỏi.

(Thiếu Nhi số 131)

Không có nhận xét nào: